- Biển số
- OF-105378
- Ngày cấp bằng
- 10/7/11
- Số km
- 647
- Động cơ
- 399,194 Mã lực
Quá trình mở rộng bờ cõi người Việt về phương Nam trong lịch sử
Môn lịch sử ở trường phổ thông dạy rất lờ mờ về việc này nên đa số những người ít sự tò mò biết rất ít về sự thật lịch sử này.
Với mong muốn cùng anh em OFer tranh luận làm rõ vấn đề em mở topic này, kính mong các bậc trí giả hưởng ứng.
Chân thành cảm ơn
Lãnh thổ Việt Nam từ xa xưa dưới sự lãnh đạo của những bậc quân vương anh minh đã không ngừng mở rộng. Quá trình mở mang bờ cõi rất gian khổ và khốc liệt có thể đổi cả xương máu của ông cha ta. Thời kì này gắn liền với hàng loạt danh tướng dũng mãnh trên sa trường như: Lý Thường Kiệt, Đinh Liệt…
Cương thổ nước Đại Việt đã được mở rộng từ Bắc vào Nam qua từng thời kỳ trong lịch sử. Thời kỳ đầu, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực châu thổ sông Hồng (Đồng bằng Bắc bộ hiện nay).
Do đặc điểm địa-chiến lược, trong tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam mở rộng lãnh thổ sang phía Đông thì gặp biển, phía Tây thì bị các dãy núi hiểm trở của dãy Trường Sơn ngăn cản, phía Bắc là lãnh thổ của nhà Hán, nên chúng ta chỉ có thể lần lượt tấn công và mở rộng lãnh thổ vào phương Nam. Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18 lãnh thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
Quá trình mở mang bờ cõi rất gian khổ và khốc liệt có thể đổi cả xương máu (Hình minh họa)
Sát nhập Chiêm Thành
Nhà Lý-Trần-Hồ
Nhà Lý đây là thời kỳ thường xuyên có các cuộc giao tranh giữa các vương triều Đại Việt với Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về nước Đại Việt, vốn là nước mạnh hơn.
Vua Lý Thánh Tông
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ (Jaya Rudravarman). Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cầu hòa. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là trại Tân Bình, lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là Quảng Bình và bắc Quảng Trị.
Lý Thường Kiệt làm Đại tướng đi tiên phong trong cuộc Chiến tranh Việt-Chiêm 1069
Nhà Trần Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân (Jaya Simhavarman) . Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, lãnh thổ Đại Việt phía nam tới Hải Vân Quan (đèo Hải Vân ngày nay)
Công chúa Huyền Trân
Nhà Hồ Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến 1403, nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ Đà Nẵng tới Quảng Ngãi ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)
Nhà Hậu Lê
Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành và Đại Việt quan hệ tương đối giao hảo.
Đến năm 1470 quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành trở nên căng thẳng, vua Lê Thánh Tông phái danh tướng Đinh Liệt cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Việt phá tan kinh đô Vijaya (thuộc Bình Định ngày nay), vua Trà Toàn (Pau Kubah) bị bắt và chết trên đường về Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sát nhập miền bắc Chiêm Thành, từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam.
Danh tướng Đinh Liệt và Đinh Lễ
Quân đội nhà Lê còn tiến tới phía nam vùng đất Phú Yên ngày nay, Lê Thánh Tông đã cho khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi Thạch Bi (đá bia), ghi công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ lờ mờ sứt mẻ, không thể trông rõ được.
Tháp Cánh Tiên hiện còn trong thành Vijaya xưa
Chúa Nguyễn (Đàng Trong)
Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các chúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
Năm 1611, vua Po Nit tiến đánh Quảng Nam, trước hành động này chúa Nguyễn Hoàng phái Văn Phong đem quân vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm (Po Nraop) nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân sang đánh chiếm. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Chúa Nguyễn Phúc Tần cùng quan quân đi đánh Chiêm Thành
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Saot) bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua năm 1697, chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận.
Môn lịch sử ở trường phổ thông dạy rất lờ mờ về việc này nên đa số những người ít sự tò mò biết rất ít về sự thật lịch sử này.
Với mong muốn cùng anh em OFer tranh luận làm rõ vấn đề em mở topic này, kính mong các bậc trí giả hưởng ứng.
Chân thành cảm ơn
Lãnh thổ Việt Nam từ xa xưa dưới sự lãnh đạo của những bậc quân vương anh minh đã không ngừng mở rộng. Quá trình mở mang bờ cõi rất gian khổ và khốc liệt có thể đổi cả xương máu của ông cha ta. Thời kì này gắn liền với hàng loạt danh tướng dũng mãnh trên sa trường như: Lý Thường Kiệt, Đinh Liệt…
Cương thổ nước Đại Việt đã được mở rộng từ Bắc vào Nam qua từng thời kỳ trong lịch sử. Thời kỳ đầu, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực châu thổ sông Hồng (Đồng bằng Bắc bộ hiện nay).
Do đặc điểm địa-chiến lược, trong tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam mở rộng lãnh thổ sang phía Đông thì gặp biển, phía Tây thì bị các dãy núi hiểm trở của dãy Trường Sơn ngăn cản, phía Bắc là lãnh thổ của nhà Hán, nên chúng ta chỉ có thể lần lượt tấn công và mở rộng lãnh thổ vào phương Nam. Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18 lãnh thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
Quá trình mở mang bờ cõi rất gian khổ và khốc liệt có thể đổi cả xương máu (Hình minh họa)
Sát nhập Chiêm Thành
Nhà Lý-Trần-Hồ
Nhà Lý đây là thời kỳ thường xuyên có các cuộc giao tranh giữa các vương triều Đại Việt với Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về nước Đại Việt, vốn là nước mạnh hơn.
Vua Lý Thánh Tông
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ (Jaya Rudravarman). Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cầu hòa. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là trại Tân Bình, lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là Quảng Bình và bắc Quảng Trị.
Lý Thường Kiệt làm Đại tướng đi tiên phong trong cuộc Chiến tranh Việt-Chiêm 1069
Nhà Trần Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân (Jaya Simhavarman) . Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, lãnh thổ Đại Việt phía nam tới Hải Vân Quan (đèo Hải Vân ngày nay)
Công chúa Huyền Trân
Nhà Hồ Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến 1403, nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ Đà Nẵng tới Quảng Ngãi ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)
Nhà Hậu Lê
Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành và Đại Việt quan hệ tương đối giao hảo.
Đến năm 1470 quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành trở nên căng thẳng, vua Lê Thánh Tông phái danh tướng Đinh Liệt cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Việt phá tan kinh đô Vijaya (thuộc Bình Định ngày nay), vua Trà Toàn (Pau Kubah) bị bắt và chết trên đường về Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sát nhập miền bắc Chiêm Thành, từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam.
Danh tướng Đinh Liệt và Đinh Lễ
Quân đội nhà Lê còn tiến tới phía nam vùng đất Phú Yên ngày nay, Lê Thánh Tông đã cho khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi Thạch Bi (đá bia), ghi công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ lờ mờ sứt mẻ, không thể trông rõ được.
Tháp Cánh Tiên hiện còn trong thành Vijaya xưa
Chúa Nguyễn (Đàng Trong)
Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các chúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
Năm 1611, vua Po Nit tiến đánh Quảng Nam, trước hành động này chúa Nguyễn Hoàng phái Văn Phong đem quân vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm (Po Nraop) nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân sang đánh chiếm. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Chúa Nguyễn Phúc Tần cùng quan quân đi đánh Chiêm Thành
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Saot) bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua năm 1697, chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận.