[Funland] Cập nhật tình hình Biển Đông

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
-Khoảng cách: không tính bằng dặm, mà tính bằng canh; một ngày một đêm có 10 canh. Mỗi canh nếu gặp gió trung bình, được ước tính là 60 lý [34 km].

-Ðộ sâu: không tính bằng thước mà tính bằng sải tay. Ðây cũng thiên về thực dụng, lúc thủy thủ dòng dây từ thuyền xuống đáy biển, khi kéo dây lên dùng sải tay đo đếm dễ dàng, mỗi sải tay khoảng 1.6 m.

Giống như hải trình của Trịnh Hòa đến các nước Ðông Nam Á; trong quyển 9, Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考], Trương Tiếp cho biết các thuyền buôn Trung Quốc cũng đi qua biển Giao Chỉ. Thuyền được mô tả “rộng 3 trượng 5 hoặc 6 xích,[8] dài hơn 10 trượng; thuyền nhỏ rộng 2 trượng, dài khoảng 7,8 trượng. Trên thuyền trang bị vũ khí cung, tên, đao, thuẩn đầy đủ, gặp giặc đến mọi người cương quyết tự vệ; thuyền chắc như trường thành, không dễ gì bị hủy hoại. Khi tạo thuyền tổn phí hơn ngàn lượng vàng, hàng năm tu bổ không dưới 500 lượng; ngoài số tiền chủ thuyền bỏ ra, các con buôn đóng góp vào như kiến tha vào tổ; kinh phí lớn gấp 3 thuyền chiến, nên ắt phải chắc chắn hơn.”

Trương Tiếp cung cấp tư liệu về hải hành từ tỉnh Quảng Ðông đến Chiêm Thành và các nước phía nam như Tiêm La, Bành Hanh và Bột Nê; tương tự như chuyến đi Chiêm Thành của Ngô Huệ đã nêu trên, nhưng chi tiết hơn:

Bản đồ 1: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á:

 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
-Ô Trư Sơn: [tại cửa sông Châu Giang tỉnh Quảng Ðông] Trên có miếu Ðô Công, khi thuyền qua biển này, mang lễ vật cúng lạy từ đằng xa, xin thần phối hưởng, dùng thuyền giấy rực rỡ tống tiễn thần. Từ biển này theo dòng nước 10 sải tay, hướng đơn Thân [240 độ], đi 13 canh đến Thất Châu Dương.

-Núi Thất Châu, Thất Châu Dương: Quỳnh Châu Chí [瓊州志] chép Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý; trên biển có 7 ngọn núi nhô lên liên tiếp, trong có nước suối ngọt có thể uống được. Thời nhà Nguyên, Lưu Thâm truy kích Tống Trang Tông, bắt thân thuộc là Lưu Ðình Khuê tại nơi này. Tục truyền thời xưa có 7 châu chìm xuống dưới biển; thuyền đến mang súc sinh và cháo cúng thần, không tuân sẽ biến thành ma đói.Thuyền đi qua rất nguy hiểm, lệch sang hướng đông phạm vào Vạn Lý Thạch Ðường; nơi mà Quỳnh Chí [瓊志] chép là phía đông châu Vạn có biển Thạch Ðường, thuyền đến đó ít có chiếc nào thoát hiểm. Từ châu Thất Dương theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 3 canh đến Ðồng Cổ Sơn.

-Đồng Cổ Sơn: Quảng Ðông Thông Chí [廣東通志] chép núi tại phía đông bắc huyện Văn Xương. Dân Liêu đúc đồng thành trống lớn, treo trước đình; gặp giặc thù đến thì đánh trống báo động, mọi người đến đông đúc. Sau đó vùi vào núi này, dân địa phương đào lấy được nên có tên như vậy; Quỳnh Châu Chí nói biển Ðồng Cổ thực thâm hiểm. Theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thuyền đi 4 canh đến Ðộc Châu Sơn.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Ðộc Châu Sơn: tên tục là Độc Trư Sơn; Quỳnh Châu Chí chép Ðộc Châu sơn [獨州山] còn có tên là Ðộc Châu sơn [獨珠山], tại phía đông nam châu Vạn. Ðỉnh núi cao trên biển, chu vi 5,6 chục lý; các nước phương Nam đến cống, thủy trình lấy núi này làm chuẩn, biển này gọi là Ðộc Châu dương; người đi thuyền nói trên núi có miếu Linh Bá, khách vãng lai thường tế hiến. Theo dòng nước 65 sải tay, hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 10 canh đến biển Giao Chỉ.

Bản đồ 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á:



Từ biển Giao Chỉ theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 11 canh [1 canh= 2 giờ 24 phút] đến núi Ngoại La. Núi này trông xa như một cửa thành, đến gần thấy phía đông cao, phía tây thấp, có hồ Liễu Tử, phía tây có hòn Cổ Lão.

Căn cứ vào khoảng cách, phương hướng và sự mô tả; Ngoại La Sơn có thể là cù lao Ré, tức huyện đảo Lý Sơn, vì tại đây có hòn lớn và hòn bé, ngoài biển từ xa nhìn vào như hai cột của cửa thành. Ngoài ra sách Việt Sử Cương Gíám Khảo Lược [越史綱鍳考畧] của Nguyễn Thông chép về đảo Lý Sơn có câu 理山島又名外岣嶗 俗稱外嶗 Ðảo Lý Sơn lại có tên là Ngoại Cù Lao, dân thường gọi là Ngoại Lao; phải chăng người Trung Quốc đọc chệch hai chữ “Ngoại Lao” thành “Ngoại La”?
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Từ Ngoại La Sơn thuyền men theo phía tây, theo luồng nước sâu 45 sải tay, hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến cầu Mã Lăng, trong đó là Ðề Di, một huyện của Giao Chỉ.

Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí [大南一統志][9], của nước ta chép: Tấn Ðề Di ở phía đông bắc huyện Phù Cát [Bình Ðịnh], rộng 11 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước, phía tây có đầm nước ngọt, thuyền buôn thường đỗ tại đây, thủ sở tại địa phận thôn An Quang

Nơi đây thuộc lãnh thổ Việt Nam, nên cũng cần biết qua cách thức giao dịch giữa chủ thuyền buôn Trung Quốc cùng quan lại và dân chúng nước ta; sự việc được chép trong mục Giao dịch, quyển 1 Giao Chỉ, Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考]:

Khi thuyền buôn ghé, mang lụa đến trình báo Tù trưởng. Sau đó viên chủ thuyền đến gặp Tù Trưởng, hành lễ 4 vái; dâng lễ cống phương vật, số lượng đã thành qui định. Tù trưởng đãi ăn và cấp cho bài gỗ, treo bài tại nhà lồng chợ để dân tự do mua bán. Viên Tù trưởng lên xe đi, giao cho viên quan lo việc mậu dịch trông coi. Tù trưởng tại Quảng Nam có thể ra hiệu lệnh cho các Tù trưởng địa phương tại Liệt Can, Ðông Kinh, Ðề Di, Tân Châu. Phàm thuyền buôn ghé tại Tân Châu, Ðề Di phải đi mấy ngày đến Quảng Nam nhập cống; viên Tù trưởng Quảng Nam cấp bài gỗ giao cho. Dân thấy bài gỗ thì kính cẩn, không dám to tiếng. Tại Thuận Hóa có nhiều phụ nữ đến mua bán, phụ nữ để tóc trần gió bay phất phơ, đưa trầu cau mời ăn để tỏ vẻ ân cần. Riêng sĩ nhân yêu thích sách, đem nhiều tiền để mua.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Mở Tống Sử [宋史] ra xem cũng chép rằng cống sứ An Nam đến kinh đô, xin được mua sách; quan phụ trách bảo rằng pháp luật không cho. Chiếu vua khen là biết mộ điều phải, chấp nhận; chứng tỏ rằng người nước đó thích sách không phải chỉ có một lần!”

Từ cầu Mã Lăng tại Đề Di theo luồng nước sâu 25 sải tay, bờ phía nam có đá ngầm, khi ra khỏi theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 4 canh đến bán đảo Giao Bôi, tức cảng Tân Châu. Tại đây hình thế 2 bán đào như 2 chén giao nhau, nên có tên là Giao Bôi.

Ðịa danh Tân Châu, được xác định trong Minh Thực Lục [明實錄]; khi tường thuật việc phái đoàn nhà Minh cầm đầu bởi Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong Vương cho Bàn La Trà Duyệt, theo thông lệ ghé đến cảng Tân Châu [gần thành Chà Bàn, Qui Nhơn], thì được biết vùng này đã bị An Nam chiếm. Bèn hàng hải tiếp đến Linh Sơn thì được tin cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt. Vì trên thuyền chở nhiều hàng hóa nên phải hành trình tiếp đến Mãn Thứ Gia [thuộc vùng đất Mã Lai hiện nay] để bán hàng, rồi mới trở về Trung Quốc:

Ngày 14 tháng 12 năm Thành Hóa thứ 10 [21/1/1475]

Công khoa Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại những thứ đã mang đi như chiếu sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa, đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho Quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu, Chiêm Thành; quân phòng thủ từ chối không cho vào, người Thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm, còn Quốc vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành bị đổi tên thành châu Giao Nam. Bọn Tuấn không dám ghé vào; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân, nên giả lấy cớ bị gió bão rồi hàng hải tiếp đến Mãn Thứ Gia buôn bán, lại dụ Vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành, cùng việc Quốc vương Mãn Thứ Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ…
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
( Minh Thực Lục v. 45, t. 2553-2554; Hiến Tông quyển 136, trang 6a-6b.)

Bản đồ 3: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á:



Từ phía trong cảng Tân Châu theo dòng nước sâu 18 sải tay, nhắm hướng Bính Ngọ [172.5độ], thời gian 3 canh đến Bán Dự. Tại Bán Dự có tháp bằng đá, có thể ghé thuyền. Phía trong theo luồng nước sâu 8,9 sải tay, ngoài sâu 20 sải, phía nam có đá ngầm không thể đến gần, theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến Yên Đổng. Ðây là nơi phân giới giữa Giao Chỉ và Chiêm Thành, nhìn lên thấy mây như ống khói nên đặt tên như vậy; tuy trời tạnh nhìn lên núi vẫn thấy khí mây bao phủ.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Tuy hai địa danh Bán Dự và Yên Ðổng không ghi trong Ðại Nam Nhất Thống Chí [大南一統志], nhưng căn cứ thời gian hàng hải có thể đoán rằng Bán Dự tức bán đảo Hòa Lợi thuộc huyện Sông Cầu, Phú Yên; ngoài ra chữ “bán dự” cũng có nghĩa là bán đảo. Riêng Yên Ðổng có thể là vịnh Xuân Ðài, giáp giới huyện Tuy An, Phú Yên; nơi này gần núi cao, mây bao phủ nên gọi là Yên Ðổng chữ này cũng có nghĩa là mây tuôn như ống khói. Ngoài ra theo văn bản Minh Thực Lục nêu trên, thì đất Tân Châu đã bị An Nam chiếm, vua Chiêm trốn về Linh Sơn, vậy thời gian cuối thế kỷ thứ 15, Yên Ðổng có khả năng là nơi phân giới giữa An Nam và một phe Chiêm Thành.[10] Riêng Ðại Nam Nhất Thống Chí [大南一統志], xác nhận biên giới lúc bấy giờ tại núi Thạch Bi huyện Tuy Hòa; núi Thạch Bi cao, có chi nhánh chạy ra biển; vậy phải chăng các địa danh Yên Ðổng, Thạch Bi đều chỉ chung một rặng núi.

Từ Yên Ðổng theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến Linh Sơn. Nơi đây là một thắng cảnh, núi đảo liên tiếp, dưới thì sông suối quanh co như dây đai, trên có núi hình như đầu Phật nên có tên là Linh Sơn. Thuyền bè vãng lai, người sùng đạo Phật tụng kinh, thả đèn hình giống thuyền trên sông, để cầu khỏi tai họa trên biển.

Theo sự mô tả nêu trên, cùng Minh Thực Lục [明實錄], thì địa danh Linh Sơn có thể là thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay. Từ đó thuyền ra khỏi mũi Ðại Lãnh, hướng kim nam châm thẳng đến đảo Côn Lôn, hoặc men theo bờ bể tiếp tục cuộc hải hành như sau:

Từ Linh Sơn theo luồng nước sâu 6o sải tay, nhắm hướng đơn Ngọ [180 độ], thời gian 2 canh đến Giả Nam Mạo. trong cảng này có 3 đảo nhỏ, lúc thủy triều lên thì không thấy. Qua núi, theo luồng nước sâu 15 sải tay, nhắm hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 5 canh từ Khuê Long vào La Loan Đầu tức cảng Chiêm Thành.

Căn cứ vào thời gian hàng hải phỏng đoán rằng Giả nam Mạo tức Mũi Gành tại phía bắc tỉnh Khánh Hòa, còn cảng Chiêm Thành tức thành phố Nha Trang.

Từ La Loan Ðầu theo luồng nước sâu 50 sải tay, nhắm hướng Khôn Thân [232.5 độ], thời gian 5 canh tới Xích Khảm Sơn. Ðời Tống vua Chiêm Thành trốn Giao Chỉ thường dời đến ở đây.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Theo hướng kim chỉ nam được ghi nhận dưới đây, từ Xích Khảm Sơn theo hướng 210 độ đến đảo Côn Lôn; như vậy ngược lại từ đảo Côn Lôn đến Xích Khảm Sơn là [210-180=30] 30 độ. Trên bản đồ hãy dùng kim chỉ nam đặt tâm điểm tại Côn Sơn, theo hướng 30 độ sẽ dẫn tới Phan Rang; vậy Xích Khảm Sơn tức thị xã Phan Rang.

-Từ Xích Khảm Sơn theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn. Ðây không phải địa danh Côn Lôn trên nguồn sông [chỉ núi Côn Lôn tại Trung Quốc], mà chính là thắng cảnh Côn Lôn trên biển cả. Nơi đây núi cao mà vuông, chân núi rộng; tục ngữ cảnh báo dân đi biển rằng: “thượng phạ Thất Châu, hạ phạ Côn Lôn” (sợ nhất là Thất Châu, rồi đến Côn Lôn); vì qua những nơi này nếu không cẩn thận đi lệch hướng kim nam châm hoặc lạc tay lái, có thể đâm vào chốn nguy hiểm khó tồn tại. Tại Côn Lôn theo hướng đơn Canh [255 độ] và Canh Dậu [262.5 độ] sẽ đến Tiểu Côn Lôn.

Theo Tập Bản Ðồ Hành Chính 64 Tỉnh, Thành Phố Việt Nam của Nhà Xuất Bản Bản Ðồ, tại đảo Côn Sơn có núi An Hải cao 577 mét, từ đảo chính theo hướng 255 độ có đảo Hòn Bà.

Bản đồ 4: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á:



-Từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Thân? [232.5 độ] cùng Canh Dậu? [262.5 độ], thời gian 30 canh đến Cát Lan Châu. Cát Lan Châu là bến cảng của nước Ðại Nê. Xưa gọi là Bột Nê [Borneo 渤泥], nước này thường đến triều cống Trung Quốc qua tỉnh Phúc Kiến.

-Từ núi Côn Lôn theo hướng Tân Dậu [277.5 độ] thời gian 26 canh đến Lục Khôn, đó là thuộc quốc của nước Tiêm La.

-Lại từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 30 canh đến Ðấu Dự, lại theo hướng Ðinh Ngọ [187.5 độ] đến nước Bành Hanh [tức Pahang thuộc Mã Lai][11]
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
6. Hối Biên trưng sử liệu về Vạn Lý Thạch Ðường và Vạn Lý Trường Sa trong Hải Ngữ [海語] của Hoàng Trung đời Minh như sau:

Vạn Lý Thạch Ðường tại phía đông biển Ô Trư và Thạch Trư. Tại đó tuy trời nắng nhưng vẫn âm u, không giống như trong cõi trần; thổ sản nhiều xà cừ. Chim có nhiều loại quỉ xa, có thứ 9 đầu, có thứ 3,4 đầu, rãi rác khắp biển; tiếng kêu gào ầm ỉ đến mấy dặm; tuy kẻ ngu và loại hung hãn cũng xúc động buồn thảm, mồ hôi toát ra. Châu sư hàng hải trên thuyền lỡ tay lái thất thế, đâm vào đá tảng, thì hàng trăm mạng biến thành quỉ!

Vạn lý Trường Sa tại phía đông nam Vạn Lý Thạch Ðường, tức Lưu Sa Hà của giống Di đông nam. Gió thổi ào ào, ngày trong sáng mà trời như đầy tuyết. Lái thuyền lỡ đi lẩm vào, thì bị dính vào không ra được; nếu may nhờ gió đông nam mạnh mới thóat khỏi.

Qua lời bàn[12], biên giả Hối Biên cho rằng Vạn Lý Trường Sa đáng chỉ quần đảo Nam Sa. Ðiều này vô lý, vì sách Hải Ðạo Châm Kinh [海道針經] đời Thanh[13]xác nhận “ Nếu qua Thất Châu lái lệch sang phía đông 7 canh, thấy Vạn Lý Trường Sa”. Theo sự ước tính thời đó, trung bình một canh thuyền đi được 60 lý, như vậy 7 canh được 420 lý, tương đương 243 km. Qua bản đồ số 1: Hàng Hải từ Trung Quốc đến các nước Ðông Nam Á nêu trên, thấy được vị trí Thất Châu Dương; từ đó đến quần đảo Spratly mà Trung Quốc gọi là Nam Sa khoảng cách trên 1000 km. Hai khoảng cách chênh lệch đến hơn 4 lần, như vậy không thể bảo Vạn Lý Trường Sa tức Nam Sa [Spratly].
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
  1. Sách Hải Ngữ [海語] của Hoàng Trung cũng mô tả hướng đi Tiêm La [Thái Lan] như sau:
Nước Tiêm La tại phía biển Nam Hải. Từ cửa Nam Ðình thuộc huyện Ðông Hoàn [Quảng Ðông] ra khơi. Nam đến Ô Trư, Ðộc Trư, Thất Châu (có tên Tam Dương) la bàn theo hướng Khôn Mùi [217.5] đến Ngoại La, lấy Khôn Thân [232.5] 45 trình, đến Cựu Cảng [Qui Nhơn], Chiêm Thành.[14]

Nhận xét về sử liệu này biên giả Hối Biên cho rằng Thất Châu dương là Tây sa [Hoàng Sa], điều này cũng không đúng. Xét vị trí Tam Dương [Ô Trư, Thất Châu, Ðộc Trư] trên Bản đồ 1, 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á [mục 5, ĐỜI MINH], thì từ đó đến Ngoại La sơn [tại tỉnh Bình Ðịnh] theo hướng Khôn Mùi [217.5] giống như sử liệu nêu trên mô tả; như vậy vị trí Thất Châu Dương ở phía đông châu Vạn 100lý [58 km] không thể là đảo Tây Sa [Hoàng Sa].
7. Hải Ðạo Châm Kinh [海道針經] đời Minh chép:
Ngoại La Sơn xem từ xa như ba cửa, đến gần thấy phía đông cao phía tây thấp, phía bắc có hồ Da Tử, tây có Lão Cổ Thạch, đi thuyển phía tây qua dòng nước sâu 40 sải tay, đi lại nên men theo phía tây, phía đông sợ phạm vào Thạch Lan.[15]

Biên giả Hối Biên cho rằng Ngoại La sơn tức cảng Tân Châu [Thi Nại, Qui Nhơn]. Ðây là một điều lầm, xem bản đồ 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á, [mục 5 ĐỜI MINH] thì Ngoại La sơn ở phía bắc Tân Châu, khoảng cách 7 canh [khoảng 240 km], phải vượt qua Đề Di; vị trí Ngoại La Sơn có thể là cù lao Ré, tức huyện đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
8. Sử liệu trong Hải Tra Dư Lục [海槎餘錄] của Nguyên Giới đời Minh, Quảng Ðông Thông Chí [廣東通志] của Hoàng Tá đời Minh đều đề cập đến Thiên Lý Thạch Ðường và Vạn Lý Thạch Ðê. Hải Tra Dư Lục [海槎餘錄] chép như sau:

Thiên Lý Thạch Ðường tại biển Nhai Châu ngoài 700 lý. Truyền rằng đá tại biển này dưới mức nước biển 8, 9 thước [1thước=1/3 mét]; thuyền đi qua tránh xa mà đi, một lần đâm vào thì không thể ra được. Vạn Lý Trường Ðê ở phía nam, thuyền vào trong đó không thể thoát được. Dân Phiên đã quen nơi này, biết cách tránh, tuy gặp gió bão cũng không lo.[16]

Nhận xét về sử liệu nêu trên, biên giả Hối Biên cho rằng Vạn Lý Trường Ðê là quần đảo Nam sa; điều này họ không trưng được bằng chứng mà lại sai về phương hướng, vì trên thực tế quần đảo Nam Sa [Trường Sa] nằm phía tây nam Thiên Lý Thạch Ðường [Tây Sa]. Lời dẫn chứng lại cho biết dân Phiên [chỉ An Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp vv.] quen với những đảo này, còn người Trung Quốc chỉ “nghe truyền”, tức không có hiểu biết gì vùng này; như vậy các quần đảo này hoàn toàn xa lạ với Trung Quốc.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
9. Trong Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考] Trương Tiếp lưu ý về địa danh Thất Châu Dương; nên ông căn cứ Quỳnh Châu Chí chú thích về Thất Châu Dương như sau “ Thất Châu Dương thuộc phía đông huyện Văn Xương [Hải Nam], nơi đó núi nhô lên 7 ngọn, trong có suối, nước ngọt có thể uống được.”

Trước dẫn chứng rõ ràng của Trương Tiếp, biên giả Hối Biên tỏ ra lươn lẹo, chia Thất Châu Dương ra làm hai “Thất Châu Sơn” và “Thất Châu Dương” với lập luận như sau “Thất Châu Sơn trong đoạn văn nêu trên chỉ hòn đảo Thất Châu ngày nay; còn Thất Châu Dương chỉ đảo Tây Sa ngày nay và vùng biển xung quanh. Các tác giả thời Minh, Thanh thường lẫn lộn Thất Châu Sơn và Thất Châu Dương.”[17]

Lập luận của biên giả Hối Biên rõ ràng gian dối, nên một học giả nỗi tiếng Trung quốc, Ðàm Kỳ Tương, trong bài Thất Châu Dương Khảo [sách Nam Hải Chư Ðảo Sử Ðịa Khảo Chứng Luận Tập trang 3] viết về Thất Châu Dương như sau:

宋元以來,皆稱西沙群島爲石塘,長沙,千里或萬里石塘,千里或萬里長沙,無稱七洲也,可見七洲洋應指七洲附近的洋面,不可能指石塘或長沙的洋面

Từ Tống, Nguyên đến nay đều gọi đảo Tây Sa [Hoàng Sa] là Thạch Ðường, Trường Sa, Thiên Lý hoặc Vạn Lý Thạch Ðường; Thiên Lý hoặc Vạn Lý Trường Sa, chưa từng gọi là Thất Châu dương. Như vậy có thể thấy Thất Châu dương chỉ mặt biển sát gần đảo Thất Châu [phía đông huyện Văn Xương, đảo hải Nam], không có khả năng chỉ mặt biển Thạch Ðường hoặc Trường Sa.

Ðể tiện việc tham khảo vị trí Thất Châu Dương, xin dịch đoạn văn dưới đây, tại quyển 9, mục Tây Dương Châm Lộ, sách Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考], và xin xem thêm bản đồ tại mục số 5, ĐỜI MINH, nêu trên:
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
-Ô Trư Sơn: [tại cửa sông Châu Giang tỉnh Quảng Ðông] Trên có miếu Ðô Công, khi thuyền qua biển này, mang lễ vật cúng lạy từ đằng xa, xin thần phối hưởng,dùng thuyền giấy rực rỡ tống tiễn thần.Từ biển Ô Trư Sơn theo dòng nước 10 sải tay, hướng đơn Thân [240 độ], đi 13 canh đến Thất Châu Dương.

–Núi Thất Châu, Thất Châu Dương: Quỳnh Châu Chí [瓊州志] chép Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý; trên biển có 7 ngọn núi nhô lên liên tiếp, trong có nước suối ngọt có thể uống được. Thời nhà Nguyên, Lưu Thâm truy kích Tống Trang Tông, bắt thân thuộc là Lưu Ðình Khuê tại nơi này. Tục truyền thời xưa có 7 châu chìm xuống dưới biển; thuyền đến mang súc sinh và cháo cúng thần, không tuân sẽ biến thành ma đói. Thuyền đi qua rất nguy hiểm, lệch sang hướng đông phạm vào Vạn Lý Thạch Ðường; nơi mà Quỳnh Chí chép là phía đông châu Vạn có biển Thạch Ðường, thuyền đến đó ít có chiếc nào thoát hiểm. Từ châu Thất Dương theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 3 canh đến Ðồng Cổ Sơn.

10. Biên giả Hối Biên trưng 2 sử liệu từ Việt Hải Quan Chí [越海関志] của Lương Ðình Ðan đời Minh và Cổ Kim Ðồ Thư Biên [古今图書編] của Chương Hoàng đời Minh, chép về thủy trình đến Chiêm Thành như sau:

“Từ huyện Hương Sơn, Quảng Ðông lên thuyền, dùng gió bắc, la bàn theo hướng Ngọ ra biển lớn tên là Thất Châu dương, qua 10 ngày đêm có thể tới biển An Nam, có ngọn núi tên là Ngoại La; qua 8 ngày đêm có thể tới biển Chiêm Thành, qua 12 ngày đêm có thể tới núi Côn Lôn. Rồi dùng gió đông bắc quay thuyền hướng Mùi và Thân 3 phân, 5 ngày đêm đến cảng Ðại Chân Thụ, qua 5 ngày đêm có thể đến cảng Tiêm La….”

Xét thủy trình được mô tả, cùng tương tự như thủy trình ghi trong Bản đồ Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á tại mục số 5, ĐỜI MINH nêu trên. Nhưng một lần nữa biên giả Hối Biên lại cho Thất Châu dương là Tây Sa [Hoàng Sa], với nhận xét như sau “Đoạn văn về “Thất Châu Dương” nêu trên bao quát vùng biển quần đảo Tây Sa.”[18]
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Hãy tra thêm tư liệu dưới đây, tại mục Châu Sư Khảo, quyển 9, Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考] đời Minh, trình bày thuật hàng hành [navigation] bằng cách nhìn hiện tượng xung quanh để định vị trí; nội dung có thể giúp phân biệt Thất Châu dương, Vạn Lý Thạch Ðường [Hoàng Sa], và Ngoại La sơn [Lý Sơn]:

“Thuyền đến Thất Châu dương cùng Ngoại La gặp những ngày này nên điều chỉnh thuyền không nên lái thiên về tây, vì phía tây nước cạn, nên chạy mé về phía đông. Khi đi thuyền nên thăm dò, phía tây nước sắc màu xanh, thấy nhiều loại cá Bái Lãng [bái sóng], quá sang phía đông sắc nước đen. Khi nước màu xanh, có nhiều củi khô trôi, cùng tiếng kêu vịt trời giống như chim bạch điểu bị tên; trường hợp này chỉnh kim chỉ nam đúng hướng, sẽ đến gần Ngoại La sơn. Nếu từ đó quẹo sang phía đông 7 canh thuyền đến Vạn Lý Thạch Ðường, trong đó có một núi đá màu hồng không cao, nếu thấy thân thuyền chúc xuống như dòm vào đá, thì phải đề phòng! đề phòng!”

Không riêng gì người xưa, học giả Trung Quốc hiện đại Đàm Kỳ Tương, bàn về tuyến hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước Ðông Nam Á cũng khẳng đinh không thể đi qua Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa[Trường Sa] được:

七洲,崑崙都是有相當高度的岩島,節然瀛海之中.因而得與明清針經中的烏猪,獨猪,外羅,占筆羅等山並烈,成爲指引海道航向的指标.至于西沙,南沙諸島,都是些海拔很低而礁盘很大的珊瑚洲,遠外看不見,等到船至近処看得見了,便有觸礁之險,怎得成爲大海中的航标.

Thất Châu và Côn Lôn đều là những đảo đá có cao độ tương đương, nghiễm nhiên tại nơi biển rộng, nên được các sách châm kinh đời Minh, Thanh cho cùng các đảo Ô Trư, Ðộc Trư, Ngoại La [Lý Sơn], Chiêm Bút La [Cù Lao Chàm] làm tiêu chí chỉ dẫn hàng hải. Còn như các đảo Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa [Trường Sa] đều thấp, mà những bãi đá ngầm san hô thì rất lớn, từ xa nhìn không thấy, đợi đến khi đến gần thấy được thì thuyền bị nguy hiểm vì đụng bởi đá ngầm, như vậy thì làm sao có thể nằm trên tuyến hàng hải ngoài biển.[19]
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Dựa vào bằng cớ nào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định với Tổng thống Obama về chủ quyền tại biển Đông? (Phần 4)


E. Đời Thanh.

1. Khởi đầu về đời Thanh, biên giả Hối Biên trưng 2 sử liệu sau đây để nói rằng Thiên Lý Trường Sa, và Vạn Lý Thạch Ðường được nhập vào lãnh thổ châu Vạn:

-Sử liệu thứ nhất từ Quảng Ðông Thông Chí [廣東通志]của Hác Ngọc Lân đời Thanh, tại mục “Hình Thắng: “Châu Vạn có 3 đoạn nước bao bọc bởi biển, 6 chỗ liên tiếp với núi; tại châu trị trong chốn yên ba ẩn hiện Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường”.[1]

-Sử liệu thứ hai từ Quảng Ðông Thông Chí [廣東通志] của Nguyễn Nguyên đời Thanh “Trường Sa Thạch Ðường đều tại phía đông thành ngoài biển cả. Cổ chí chép châu Vạn có Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường; nhưng đều tại biển ngoài, không thể kê cứu được sự thực”.[2]

Hai sử liệu nêu trên chỉ có giá trị như những câu văn tả cảnh tổng quát, không xác định chủ quyền. Muốn rõ chủ quyền, cần tìm hiểu vị trí, giới hạn, của châu Vạn được ghi trong Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí [欽定大清一統志], một bộ sách chính thức của triều đình nhà Thanh đời Càn Long, mà biên giả không muốn trưng ra:

Châu Vạn tại phía đông nam phủ Quỳnh Châu 450 lý [261 km], từ đông sang tây 205 lý [118 km], nam chí bắc 120 lý [69 km]; phía đông từ châu lỵ đến biển 25 lý [14.5 km], phía tây cách núi Lê 180 lý [104 km], phía nam đến bờ biển 25 lý [14.5 km], phía bắc đến huyện Lạc Hội 95 lý [55 km]. Phía đông nam giáp biển 30 lý [17 km], tây nam giáp huyện Lăng Thủy 100 lý [58 km], đông bắc đến biển 70 lý [40 km], tây bắc đến núi Lê 160 lý [92 km].[3]
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Dưới đây là bản chụp nguyên văn:



Thử hỏi châu Vạn rộng từ đông sang tây 205 lý [118 km], phía đông từ châu lỵ đến biển 25 lý [14.5 km] thì Vạn Lý Trường Sa, và Thiên Lý Thạch Ðường xa xôi, có thể đặt vào trong đó được không? Ngoài ra để tham khảo thêm, xin giới thiệu bản đồ phía đông đảo Hải Nam cũng in trong Khâm Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thông Chí[欽定大清一統志], tại trang đầu, quyển 350:



Nhìn trên bản đồ từ bắc chí nam có những địa danh được phiên âm gồm: huyện Văn Xương, huyện Hội Ðồng, huyện Lạc Hội, châu Vạn, và đảo Ðộc Châu Sơn. Lưu ý: trong lãnh thổ châu Vạn chỉ ghi đảo Ðộc Châu sơn, ngoài ra không hề có tên Thiên Lý Trường Sa, và Vạn Lý Thạch Ðường, như biên giả Hối biên đã nêu.

Lại cần phải nói về thêm hành vi thiếu trung thực của biên giả Hối biên; trong quyển 4, Quảng Đông Thông Chí [廣東通志] của Hác Ngọc Lân, họ chỉ trưng lên câu văn tả cảnh tại phần Hình Thắng [形勝] như đã nêu trên; nhưng không dám nêu rõ vị trí châu Vạn tại mục Cương Vực [疆域], cũng nằm trong quyển 4 như sau:

Châu Vạn tại phía đông nam phủ thành 450 lý, ngang 205 lý, dọc 120 lý; phía đông tới bờ biển 25 lý; phía tây đến núi Giá Cô Đề 180 lý, bên ngoài dân tộc Sinh Lê sinh sống; phía nam đến biển 25 lý, bắc đến biên giới huyện Lạc Hội 95 lý. Đông bắc đến Liên Chi Lãnh 70 lý, tây nam đến biên giới huyện Lăng Thuỷ 100 lý, tây bắc đến biên giới Hoành Lĩnh, Lê Động 160 lý, đông nam đến bờ biển 30 lý.”
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
2. Sách Tuyền Châu Phủ Chí [泉州府志] [của Hoàng Nhiệm đời Thanh, và Ðông An Huyện Chí [同安縣志]của Ngô Ðường đời Thanh đều kể việc Ngô Thăng tuần phòng vùng núi Ðồng Cổ tại châu Vạn và Thất Dương Châu như sau:

Ngô Thăng, tự Nguyên Trạch, người Ðồng An, nguyên họ Hoàng, giữ chức Tổng lữ, đánh giặc tại Quả Ðường thăng chức Thiên tổng. Lại đi đánh tại Kim Môn, Hạ Môn, Bành Hồ, Ðài Loan có công được giữ chức Du kích Thiểm Tây, thăng Phó tướng Quảng Ðông, được điều đến Quỳnh Nhai. Ðích thân tuần phòng thị sát từ Quỳnh Nhai, qua Ðồng Cổ, Thất Châu dương, Tứ Canh Sa vòng quanh đến 3000 lý; nhờ vậy địa phương được ninh thiếp.[4]

Biên giả Hối Biên lại một lần nữa khẳng định rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa]. Ðính chính sự sai lầm này, tại mục 5, ĐỜI MINH, chúng tôi đã trích dẫn Qùynh Châu Chí [瓊州志] chép rằng Thất Châu Dương cách huyện Văn Xương [Hải Nam] về phía đông 100 lý [58 km]. Nhìn qua bản đồ, thấy hài trình của Ngô Thăng là cuộc tuần hành xung quanh đảo Hải Nam, khởi hành từ Quỳnh Châu phía bắc đảo, lần lượt qua Ðồng Cổ, Thất Châu tại phía đông đảo, rồi vòng qua phía tây đảo đến Tứ Canh Sa thuộc huyện Xương Hóa, cuối cùng trở lại Quỳnh Châu. Cuộc hành trình như vậy hết 3000 lý [1740 km] là hợp lý vì đường kính đảo Hải Nam khoảng dưới 1000 lý; nếu còn đi đến Tây Sa [Hoàng Sa], như biên giả nêu thì phải tốn thêm 7,8 trăm cây số nữa. Hơn nữa Ngô Thăng muốn giữ an ninh cho đảo Hải Nam, tức Quỳnh Nhai, thì tuần hành xung quanh đảo này, còn vươn ra nơi xa xôi Tây Sa [Hoàng Sa] để làm gì?
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
3. Biên giả Hối Biên trưng tư liệu, từ Bắc Kinh Cố Cung Bác Vật Nguyên Minh Thanh Ðang Án [[北京故宮博物院明清档案][5] liên quan đến việc viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư tâu trình về việc cứu người ngoại quốc bị nạn trên biển, vào năm Càn Long thứ 30 [1765] như sau:

Ðề báo rằng viên Bố chính Quảng Ðông Thạch Trụ Tường xưng rằng vào năm Càn Long thứ 30 [1765] điều tra về việc bọn Phiên tên Liên Ðắc Lợi gồm 16 người đi thuyền chở hàng hóa như khăn tay, vải, từ nước họ đến Gia Lặc Ma buôn bán. Bị bão phiêu dạt đến biển Cửu Châu thuộc châu Vạn, thuyền hư nát, chết trôi 2 tên Phiên là Bạch Thiểu, Ni Bì; lại tiếp tục bị bệnh mất 2 tên là Bạch Nê Mẫu, Duy Gia la, còn lại 12 tên. Sau khi viên Tri châu tra rõ, bèn chu cấp lương thực, đưa đến huyện Hương Sơn, giao cho viên quan phụ trách về dân Di, để tìm thuyền tiện lợi, vào ngày 27 tháng 10 năm Càn Long thứ 20, và ngày 12 tháng 11, trước sau chở về nước[6]

Một sự kiện tương tự, tại nước ta lúc bấy giờ quân lính chúa Nguyễn bị nạn tại đảo Hoàng sa, trôi dạt đến đảo Hải Nam, được Lê Quí Ðôn chép trong Phủ Biên Tạp Lục [邊雜錄] như sau:

…. Quan Chính đường sưu tra công văn trong đó kể rằng vào tháng 7 năm Càn Long thứ 18 [1753], 10 người lính thuộc đội Cát Liêm, xã An Bình, huyện Chương Nghĩa[7] đến Vạn Lý Trường Sa [萬里長沙] thu thập các vật, 8 tên lính lên bờ thu thập, chỉ có 2 người lưu lại giữ thuyền. Chợt cuồng phong nỗi lên, đẩy thuyền xa đến cảng Thanh Lan [青瀾港][8] [Trung Quốc], viên quan tại đây điều tra sự thực bèn cho áp giải trở về. Nguyễn Phúc Chu sai Cai bạ Thuận Hóa Thức lượng hầu gửi thư phúc đáp.

Ðọc Thanh Thực Lục [清實錄], được biết thời đó những người nước ta đi thuyền đến vùng Quảng Ðông, Phúc Kiến thường bị giam giữ về tội xâm nhập bất hợp pháp; riêng việc 2 người lính của chúa Nguyễn từ đảo Hoàng Sa trôi dạt vảo cảng Thanh Lan, Hải Nam thì không gặp rắc rối gì. Lý do có thể hiểu được rằng lúc bấy giờ nhà Thanh không coi Hoàng Sa là lãnh thổ của họ, nên viên quan địa phương mới có thể tự tiện trao trả những người này cho chúa Nguyễn nước ta. Trường hợp chiếc thuyền buôn bị tai nạn tại Cửu Châu được Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư cho trả về nguyên quán, cũng theo một thông lệ tương tự. Cửu Châu Dương là biệt danh chỉ Thất Châu Dương, nhưng biên giả Hối Biên lại bảo triều đình nhà Thanh thi hành chủ quyền trên đảo Tây Sa [Hoàng Sa] cứu vớt người bị nạn, lập luận này không thể chấp nhận được.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
4. Lại một tư liệu từ Bắc Kinh Cố Cung Bác Vật Viện Minh Thanh Ðang Án [北京故宮博物院明清档案] chép về trường hợp thuyền của Cống sứ Tiêm La bị chìm tại Thất Châu dương, địa điểm tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý;[9] nhưng biên giả Hối Biên vẫn khẳng định Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] một cách vô lý. Tư liệu có đoạn như sau:

…Tuần phủ Quảng Ðông Thác Ân Ða Sơ xưng Quốc vương Tiêm La có lòng thành theo sự giáo hóa sai Sứ giả là bọn Bị Thải Trảo Ðề mang biểu văn, phương vật, voi thuần đến Quảng Ðông để tiến cống. Trước tiên nghe viên Tri huyện Tân Ðình trình báo, thuyền của viên Chánh sứ bị gió thổi chìm tại địa phương Trà Loan trong huyện; thuyền viên Phó sứ bị bão tại Thất Châu Dương gãy cột buồm đâm vào chỗ cạn. Ðã ban hịch cho quan địa phương trước sau cứu vớt thu hoạch những vật bị chìm…

5. Điều đáng lưu ý rằng từ trung điệp triều Minh cho đến triều Thanh; quân Nhật [sử Trung Quốc gọi là Nụy khấu] thao túng cướp phá vùng biển. Trung Quốc chỉ phòng thủ trên bờ và ven biển cũng không xong, nên không màng đến biển cả. Bằng cớ ngay cả đảo lớn giàu tài nguyên như Ðài Loan, được liệt vào ngoại quốc dưới triều Minh. Qua Minh Sử, bộ chánh sử cuối cùng của Trung Quốc trong Nhị Thập Tứ Sử, có thể tìm thấy lãnh thổ Ðài Loan dưới tên Kê Lung Sơn, tại mục “Ngoại quốc’’, phần Liệt truyện.
 

BM-27 Uragan

Xe buýt
Biển số
OF-382979
Ngày cấp bằng
16/9/15
Số km
872
Động cơ
249,456 Mã lực
Biển lúc bấy giờ là mối hệ lụy, nên Trung Quốc chủ trương phòng thủ thụ động trên bờ, bỏ mặc đại dương không chiếu cố đến. Mục Ngự Hải dương trong Quảng Đông Thông Chí [廣東通志] quyển 9, ghi lời chiến lược gia đời Minh, Ðàm Luân, nói về điểm bất lợi trong việc giao tranh ngoài biển như sau :

Hải đạo Phó sứ đời Minh, Ðàm Luân, nói rằng chống cự giặc biển không cho lên bờ là thượng sách, các sĩ phu ngày nay đều chủ trương như vậy. Sự thực biển rộng mênh mang, đánh dẹp giặc tại biển rất khó. Vì giặc thuận theo gió và thủy triều mà đến, ta đánh lại ngược theo gió và thủy triều rất khó. Khi giặc rời, chờ gió thuỷ triều thuận mà rút; ta nhờ gió và thủy triều thuận để đuổi, càng đuổi càng xa, và đã chắc gì đuổi kịp; nếu kịp thì ngược gió, ngược thủy triều rất khó trở về. Huống gì giặc thấy thuyền ta, tìm cách tránh né; bẻ tay lái trong gang tấc, có thể tránh xa ngàn dặm, ta làm sao có thể đánh kịp. Vả lại [hành quân trên biển], bọn tướng chỉ huy gian dối có thể dựa lời vì gió, thủy triều để tránh né, lấy gì căn cứ để tra xét.

Ðánh trên bộ không như thế, có thể thắng trong phút chốc, thế hai bên không cùng tồn tại, tướng sĩ không có mối tệ. Vậy giảng về đánh trên biển, không bằng giảng về đánh trên bộ…”

Tại mục Cố hải ngạn cũng trong Quảng Đông Thông Chí quyển 9 ghi lời Thông chính Ðường Thuận đời Minh đề cao việc chống cự ngay lúc giặc lúc mới đổ bộ lên bờ:

Giặc đến không thể chống trên biển, nên việc phòng trên bờ rất khẩn yếu. Ðối với điều thứ hai khi giặc mới đến, đói khát, sào huyệt chưa thành, đánh dễ hơn. Ðợi đến khi vào nội địa, nếu quét sạch được cũng tổn thất nhiều…”
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top