Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hợp Quốc
Ngày
29 tháng 11 năm
1947, Đại hội đồng
Liên hiệp quốc chấp thuận nghị quyết số 181, giải quyết cuộc xung đột Ả rập-Do thái bằng cách phân chia Palestine thành hai quốc gia, Do thái và Ả rập. Mỗi quốc gia sẽ bao gồm 3 vùng lãnh thổ chính, liên kết bởi các dải lãnh thổ đặc quyền hẹp; người Ả rập cũng sẽ được vùng đất
Jaffa nằm lọt trong lãnh thổ của người Do thái. Với chừng 32% dân số, người Do thái sẽ được 56% lãnh thổ, trong đó có 499.000 người Do thái và 438.000 người Palestine cư ngụ, mặc dù phần lãnh thổ này tính cả hoang mạc Negev ở phía nam. Người Palestine được 42% lãnh thổ, với dân cư gồm 818.000 người Palestine và 10.000 người Do thái. Vì tính chất tôn giáo thiêng liêng của
Jerusalem, nên vùng này, bao gồm cả
Bethlehem, với 100.000 dân Do thái và cũng khoảng chừng ấy dân Ả rập sẽ được quản trị bởi Liên hiệp quốc
[30].
Mặc dù một số người Do thái chỉ trích kế hoạch này, bản nghị quyết được đông đảo nhân dân Do thái ủng hộ. Ban lãnh đạo Zion chấp nhận nghị quyết như là "sự cần thiết tối thiểu"
[31], vui mừng là họ nhận được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế, dù rằng họ vẫn lấy làm tiếc là họ không được chia nhiều lãnh thổ hơn
[32].
Cho rằng kế hoạch phân chia không công bằng với người Ả rập, khi tính đến tỷ trọng dân cư, đại diện của người Ả rập Palestine và
Liên đoàn Ả rập chống đối quyết liệt kế hoạch của Liên hiệp quốc, thậm chí bác bỏ quyền của Liên hiệp quốc can thiệp vào cuộc xung đột
[33]. Họ nhất định cho rằng "quyền cai quản Palestine phải thuộc về cư dân của nó, theo các điều khoản
Hiến chương Liên hiệp quốc"
[34]. Theo
Điều 73b của Hiến chương, Liên hiệp quốc phải dựng lên chính quyền tự quản của chính dân cư sống trong lãnh thổ.
Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị
Ngay sau khi Liên hợp quốc chấp thuận kế hoạch phân chia, cộng đồng Do thái như vỡ tung lên vì hoan hỉ, trong khi cộng đồng Ả rập tỏ ra hết sức bất mãn. Chẳng bao lâu sau, xung đột nổ ra và ngày càng lan rộng, chém giết, báo thù và phản báo trả thù nối tiếp nhau, khiến cho hàng chục người ở cả hai phe thiệt mạng.
Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1947 cho tới hết tháng 1 năm 1948, ước tính có khoảng 1000 người bị giết và 2000 người bị thương
[35]. Tới cuối tháng 3, thương vong đã lên tới 2000 người chết và 4000 người bị thương
[36], tương đương với khoảng 100 người chết và 200 người bị thương mỗi tuần, với dân số chỉ vỏn vẹn 2 triệu người.
Từ tháng 1 trở đi, các hoạt động ngày càng mang tính quân sự, với hàng trung đoàn Quân giải phóng Ả rập can thiệp vào phía người Palestine, bố trí quanh một số thị trấn ven biển cũng như củng cố các vùng
Galilee và
Samaria[37].
Abd al-Qadir al-Husayni cũng đến từ Ai Cập tham chiến với vài trăm thành viên của Quân đội thánh chiến.
Sau khi tuyển mộ được vài ngàn quân tình nguyện, al-Husayni tổ chức phong tỏa 100.000 cư dân Do thái ở Jerusalem
[38]. Để đáp lại, ban lãnh đạo Yishuv tìm cách tiếp tế cho thành phố với đoàn xe tiếp viện lên tới 100 xe bọc thép, nhưng chiến dịch tiếp viện ngày càng trở nên thiếu thực tế, vì càng ngày càng có nhiều người bị giết trong chiến dịch tiếp tế. Tới tháng 3, chiến thuật của Al-Hussayni mang lại thành công, hầu hết đoàn xe tiếp tế bị phá hủy, cuộc phong tỏa trở nên toàn diện, và hàng trăm thành viên Haganah tham gia cứu viện thành phố bị giết
[39]. Tình hình những người bị kẹt lại trong các khu Do thái ở vùng hoang mạc
Negev và miền bắc trở nên khốn quẫn.
Vì những người Do thái được chỉ thị phải bám trụ bằng mọi giá
[40], tình hình bất ổn trên toàn quốc ảnh hưởng đến người Ả rập còn nặng nề hơn, chừng 100.000 Palestine, chủ yếu là những người ở tầng lớp trung lưu khá giá, chạy ra nước ngoài hoặc chuyển đến
Samaria để tránh chiến tranh.
[41]
Tình hình này buộc nước Mỹ phải xem xét lại sự ủng hộ mà họ dành cho kế hoạch Phân chia, làm cho Liên đoàn Ả rập tin rằng, người Palestine, với sự hỗ trợ của Quân giải phóng Ẩ rập, có thể phá hỏng kế hoạch Phân chia. Mặc khác, người Anh lại ra quyết định ngày 17 tháng 2 năm
1948 ủng hộ việc sáp nhập các lãnh thổ Ả rập vào Jordan
[42].
Thủ lĩnh người Do thái
Ben-Gurion tái tổ chức
Haganah, ban hành nghĩa vụ quân sự bắt buộc, tất cả phụ nữ và đàn ông đều phải tham gia huấn luyện quân sự. Nhờ vào nguồn tài chính do
Golda Meir quyên góp được từ những cảm tình viên ở Mỹ, và sự hỗ trợ của
Stalin cho phong trào Zion, đại diện Do thái ký được những hợp đồng mua vũ khí quan trọng. Các nhân viên
Haganah thu mua vũ khí tồn kho từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai để góp phần trang bị cho quân đội. Cuối tháng ba, lần đầu tiên họ tiến hành chiến dịch Balak để chuyển vũ khí và trang thiết bị về Palestine.
Ben-Gurion cũng giao nhiệm vụ cho
Yigal Yadin lên kế hoạch đối phó trong trường hợp các quốc gia Ả rập can thiệp vũ trang. Kết quả là kế hoạch Dalet ra đời và được đưa vào thực hiện kể từ tháng 4, mà với kế hoạch đó, kể từ giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Haganah chuyển từ thế phòng ngự sang phản công.
Chiến dịch đầu tiên, mật danh
Nachshon, bao gồm việc phá vỡ cuộc phong tỏa
Jerusalem. 1.500 chiến sĩ lữ đoàn Guivati thuộc Haganah và lữ đoàn Harel thuộc
Palmach tham gia chiến dịch mở đường từ ngày
5 tháng 4 tới ngày
20 tháng 4. Chiến dịch thành công với khoảng hai tháng lương thực được chuyển tới Jerusalem để phân phát cho dân chúng
[43] Thành công của chiến dịch càng lớn bởi
Al-Hassayni bị chết trận. Cùng thời gian, binh sĩ thuộc
Irgun và
Lehi (ngoài vòng kiểm soát của Haganah) tiến hành thảm sát hơn một trăm người Ả rập, đa phần là dân thường tại Deir Yassin, gây chấn động cộng đồng Ả rập, khiến cho các thủ lĩnh Do thái phải lo ngại và lên tiếng chỉ trích
Cũng trong thời gian đó, chiến dịch lớn đầu tiên của Quân giải phóng Ả rập bị "thất bại thảm hại", vì bị đánh tơi tả tại Mishmar Ha'emek
[44], và còn bị đồng minh là bộ tộc người
Druze đào ngũ bỏ sang phe Do thái
[45].
Theo kế hoạch Dalet, các lực lượng
Haganah,
Palmach và
Irgun tiến chiếm các khu vực dân cư hỗn hợp Ả rập-Do thái. Các thành phố
Tiberias,
Haifa,
Safed,
Beisan,
Jaffa và
Acre lần lượt thất thủ, khiến cho hơn 250.000 người Palestine phải chạy tị nạn
[46].
Cùng thời gian, người Anh về cơ bản đã rút quân, tình hình khiến cho lãnh đạo các quốc gia Ẩ rập phải can thiệp, nhưng họ chưa hoàn toàn sẵn sàng, và không thể tập trung kịp lực lược cần thiết để đảo ngược tình hình chiến sự. Đa phần người Palestine kỳ vọng vào đạo quân Lê Dương Ả rập của vua Jordan là Abdullah I, nhưng ông không muốn tạo ra một quốc gia của người Palestine, mà chỉ muốn sáp nhập lãnh thổ ủy nhiệm Palestine vào Jordan, nên tiến hành bắt cá hai tay, giữ liên lạc với cả ban lãnh đạo người Do thái và Liên đoàn Ẩ rập.
Để chuẩn bị phản công,
Haganah mở chiến dịch Yiftah
[47] và Ben-'Ami
[48] để củng cố các khu định cư Do thái tại
Galilee, và chiến dịch Kilshon, thiết lập một mặt trận liên tục quanh Jerusalem.
Bà
Golda Meir và vua Abdullah I gặp mặt ngày 10 tháng 5 để thảo luận, nhưng cuộc họp không mang lại kết quả cụ thể gì, mà cả những thỏa thuận trước đó cũng không được xác lập lại. Ngày 13 tháng 5, quân Lê Dương Ả rập, được dân quân hỗ trợ, tấn công và đánh chiếm
Kfar Etzion. Trong tổng số 131 người Do thái tham gia phòng thủ có 127 người tử trận, quân Ả rập tàn sát hết số người sống sót bị bắt làm
tù binh.
Ngày 14 tháng 5 năm 1948,
David Ben-Gurion tuyên bố quốc gia độc lập Israel ra đời, ngày hôm sau quân đội các quốc gia Ả rập can thiệp, cuộc chiến tranh 1948 bước vào giai đoạn hai.