[Funland] Các bài nhạc tụng ưa thích

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
2. CA-NẶC-CA-PHẠT-SA
( La Hán Khánh Hỷ)

Tôn giả Ca-nặc-ca-phạt-sa là vị La-hán thứ hai trong mười sáu vị La-hán, có người gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Ðức Thế Tôn thường xưng tán ngài là vị La-hán phân biệt thị phi, thiện ác rõ ràng nhất. Hiện tại, ngài cùng năm trăm vị đệ tử trú ở nước Thấp-di-la.

Khi chưa xuất gia, Ca-nặc-ca-phạt-sa là người rất tuân thủ khuôn phép. Dù nói năng hay làm việc, ngài đều nhất nhất giữ gìn, thậm chí ngay cả một ý nghĩ xấu cũng không dám nghĩ. Có nhân duyên được xuất gia, tiếp nhận lời Phật dạy, Ca-nặc-ca-phạt-sa càng nỗ lực tinh tấn tu tập. Nhờ những thiện căn công đức gieo trồng được lúc trước nên ngài chứng quả La-hán rất mau.
Sau khi ngộ đạo, Ca-nặc-ca-phạt-sa du hóa khắp nơi hoằng pháp độ sanh. Ngài thấy trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người thường vô ý gây nhiều nghiệp ác, tương lai phải chiêu cảm khổ báo trong địa ngục mà nguyên nhân là do những tạo tác vô minh của chính bản thân. Cho nên, mỗi khi đến các nơi thuyết pháp, ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả, thiện ác để chúng sanh phân biệt rõ ràng cái nào thiện, cái nào ác.
Có lần, đi ngang qua thôn trang nọ, ngài thấy một gia đình đang giết vô số trâu, dê, gà, vịt để làm yến tiệc mừng thọ nhân ngày sinh nhật. Ca-nặc-ca-phạt-sa cố ý đến trước nhà hóa duyên.Gia đình này cũng tin Phật nên tiếp đãi ngài rất thân thiết, nồng hậu.
- Chúc mừng, chúc mừng! – Ca-nặc-ca-phạt-sa chắp tay chúc phúc.
- Cảm ơn sư phụ chúc thọ. – Ông cụ vui vẻ đáp lễ.
Nhân đó, Ca-nặc-ca-phạt-sa chuyển đề tài hỏi:
- Nhưng mà, này ông cụ! Sao ông muốn tổ chức mừng sinh nhật? Có phải vì muốn sống lâu trăm tuổi không?
Ông cụ cười ha hả đáp:
- Ðúng vậy, con cháu tôi tổ chức mừng thọ đúng là muốn tôi sống lâu trăm tuổi.
- Nhưng, này ông cụ! Ông có biết cách tổ chức mừng thọ như thế chẳng những không làm ông sống lâu, trái lại còn khiến ông mau chết không? – Ca-nặc-ca-phạt-sa nghiêm giọng hỏi.
- Thật sao? Sao vậy? – Ông cụ giật mình kinh sợ, nét mặt tươi cười biến mất.
Ca-nặc-ca-phạt-sa nghiêm nghị nói:
- Vì trên đời này chỉ có người có lòng vị tha, nhân ái mới trường thọ diên niên. Nếu như ích kỷ vì muốn bản thân mình sống lâu hạnh phúc mà giết hại vô số sinh mạng, khiến chúng đau đớn rên xiết thống thiết, người tàn nhẫn như vậy sao có thể trường thọ được?
- Ồ, ra là vậy, xin hỏi sư phụ, tôi phải làm thế nào mới phải? – Ông lão hỏi.
- Ðức Phật từng dạy rằng, sinh nhật là ngày khó khăn của mẹ, ngày mà mẹ chúng ta chịu nhiều đau đớn khó nhọc. Vì vậy, bổn phận làm con phải ghi nhớ công ơn trời biển của mẹ, phải biết chia xẻ cảm thông với nỗi đớn đau của mẹ. Do đó, hôm nay chẳng những không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ơn đức cha mẹ, quyết chí tinh tấn tu tập để thành tựu đạo nghiệp. Có như thế mới an ủi được lòng mẹ trong muôn một.
Nghe Ca-nặc-ca-phạt-sa giảng dạy, ông lão vô cùng cảm động.
Suốt cuộc đời, Tôn giả Ca-nặc-ca-phạt-sa du hóa khắp nơi, hoằng dương Phật pháp. Ngài như ngọn hải đăng soi đường dẫn dắt chúng sanh trong biển khổ quay về bến bờ thanh tịnh giải thoát.
(có giai thoại
Ông nguyên là một nhà hùng biện của Ấn Độ cổ đại. Có người từng hỏi ông: “Thế nào là vui?” Ông giải thích rằng: “Từ thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác mà cảm nhận được vị của niềm vui.” Người ta lại hỏi ông: “Thế nào là khánh (mừng)?” Ông trả lời rằng: “Không do tai mắt mũi miệng tay mà cảm thấy vui thì đó là khánh, ví dụ như thành tâm hướng Phật, tâm cảm nhận thấy Phật thì vui.” Cho nên, người đời gọi ông là Hỉ Khánh La Hán.)
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (nay là vùng Kashmir).
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
3. CA-NẶC-CA-BẠT-LY-NỌA-XÀ





La Hán Cử Bát


Tôn giả Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà là vị La-hán thứ ba trong mười sáu vị La-hán. Ngài là vị đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Ðông Thắng Thần Châu.

Ðông Thắng Thần Châu nằm trong biển Hàm Hải phía đông núi Tu Di. Tôn Ngộ Không trong “Tây du ký” sinh tại Hoa Quả sơn nước Ngạo Lai chính là thuộc Ðông Thắng Thần Châu.
Thuở quá khứ khi còn tu hành hạnh Bồ-tát, Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà từng đầu thai làm con chim ưng rất thâm tín, ủng hộ Phật pháp.
Một hôm, đang đậu nghỉ trên cây, chim nghe mấy vị Hòa thượng ở dưới nói chuyện.
- Ôi, đã mười ngày chúng ta không ăn gì rồi.
- Tôi đói đi không nổi nữa.
- Kỳ lạ, thần Hộ Pháp già lam đi đâu hết rồi nhỉ?
Nghe thấy hoàn cảnh đáng thương ấy, chim quyết định hy sinh thân mình để làm thực phẩm cúng dường các vị hòa thượng. Vì thế, chim lập tức bay lên không, rồi bổ nhào xuống ngay trước mặt hai vị Hòa thượng kia.
Cảm kích trước nghĩa cử cao đẹp đó, các vị Hòa thượng chẳng những không ăn thịt mà trái lại còn tụng kinh niệm Phật siêu độ cho chim.
Ðiều đó cho thấy, Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà xưa nay luôn là bậc thánh dũng khí ngất trời, tiết nghĩa vẹn toàn, sẵn sàng xả thân vì nghĩa để cứu giúp muôn loài.
Lúc bấy giờ, quốc vương nước Tăng-già-la1 ở Nam Hải không tin Phật pháp. Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà liền nghĩ ra một cách đến độ ông ta.
Sáng hôm nọ, đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ lớn tiếng gọi to:
- Người đâu đến đây mau! Sao ta không thấy ta, người trong gương kia là ai?
Quần thần vội chạy đến nhìn vào gương quả thật chẳng thấy quốc vương, trong gương là một vị bạch y Ðại sĩ tay cầm cành dương chi và bình nước cam lồ, khuôn mặt nở nụ cười từ ái.
Quốc vương sắc mặt tái nhợt hỏi:
- Người này là ai?
Trong quần thần có người tin Phật đến trước cung kính thưa:
- Tâu đại vương! Xin Người đừng sợ. Vị trong gương là đức Bồ-tát đại từ bi Quán Thế Âm.
- Ðược rồi, hãy chiếu theo ảnh trong gương tạc một bức tượng giống vị Bồ-tát ấy! - Quốc vương hạ lệnh.
Từ đó về sau, nhân dân nước Tăng-già-la hết lòng tín ngưỡng Phật giáo.
Khi sang Ấn Ðộ, pháp sư Huyền Trang trú ở chùa Na-lan-đà2 và nghe các vị Hòa thượng trong chùa kể câu chuyện:
Sau khi đức Phật Niết-bàn vài trăm năm, vua Bà-la-a-điệt-đa3 nước Ma-kiệt-đà4 xây dựng chùa Ðại Phật. Hôm nọ, đến ngày lễ lạc thành chùa, vua thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường.
Lúc mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống đứng trên nóc điện Phật. Cả chúng hội ai cũng cảm thấy kỳ lạ và kinh ngạc.
- Xin hỏi các ngài từ đâu đến? - Vua hỏi.
- Ta từ Tây-cù-đà-ni Châu đến. - Vị lông mày trắng đáp.
- Ta từ Ðông Thắng Thần Châu đến. - Vị kia đáp.
- Các ngài có phải là hai vị đại A-la-hán Tân-đầu-lô và Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà không? - Vua hỏi tiếp.
- Ðúng vậy, chính chúng tôi đây!
- Xin thỉnh các Ngài xuống. Không ngờ hôm nay đã cách Phật diệt độ mấy trăm năm rồi mà Phật tử đời sau chúng con vẫn còn có nhân duyên được thấy các Ngài.- Quốc vương vui mừng, nét mặt rạng rỡ.
- Này các vị, mười sáu vị La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau. - Tân-đầu-lô và Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà cười nói.
Thọ trai xong, hai ngài bay lên trời, chớp mắt thì biến mất.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ 3, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.

Ghi Chú
1 Nước Tăng Già La: Tên một nước thời xưa thuộc Trung Quốc, còn gọi là nước Sư Tử, đảo Lăng Gia; ngày nay là nước Tích Lan.
2 Chùa Na-lan-đà: Tên một ngôi chùa lớn ở nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Ðộ, nằm cách về phía đông chùa Ðại Giác thuộc Bồ đề đạo tràng bảy trạm đường do vua Ðế Nhật xây sau ngày đức Phật Niết-bàn.
3 Vua Bà-la-a-điệt-đa: Theo Tây vực ký quyển 9 thì đây là vị vua nước Ma-kiệt-đà ở Ấn Ðộ thâm tín Phật pháp, xây dựng rất nhiều chùa tháp. Nhưng theo Bà Tẩu Ban Ðậu pháp sư truyện thì đây là vị vua thống trị nước A-du-xà ở Ấn Ðộ thời ngài Thế Thân. Về cuộc đời vua, theo học giả V.A.Smith thì đây là vua Sa-mỗ-đà-la-cấp-đa thuộc dòng vua Cấp-đa.
4 Nước Ma-kiệt-đà: Là một trong mười sáu nước lớn và là trung tâm văn hóa chính trị thời đức Phật, vị trí hiện nay là quận Patna, thủ phủ của bang Behar phía đông bắc bộ Ấn Ðộ.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
4. TÔ-TẦN-ÐÀ
Subinda




Thác Tháp La Hán (La-hán Nâng Tháp).



Tôn giả Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng bảy trăm vị đệ tử trú tại Bắc-câu-lô Châu. Bắc-câu-lô Châu còn gọi là Bắc-uất-đơn-việt nằm phía bắc núi Tu Di.

Cá tánh Tô-tần-đà tương đối hướng nội. Thường ngày, ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình, nhưng ít thích nói chuyện.
Mỗi lần đức Phật có việc ra ngoài, Tô-tần-đà hiếm khi đi theo. Ngài chỉ thích ở lại tịnh thất yên lặng đọc sách hoặc quét dọn sân tinh xá.
Có người phê bình cách nói chuyện của ngài không hay. Ðức Phật biết được, Ngài an ủi:
- Này Tô-tần-đà, cách nói chuyện hay hay không hay không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ, giải thoát. Mọi người chỉ cần y theo những pháp môn ta đã giảng dạy mà thực hành thì dù không nói câu nào cũng thành tựu đời sống thanh tịnh giải thoát.
Có lẽ đúng thật là ít thích nói chuyện, nên Tô-tần-đà hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu. Ngài dành trọn thời giờ để đọc sách, tọa thiền. Do đó, ngài chứng quả La-hán rất sớm.
Ðương thời, vua nước Án-đạt-la1 muốn xây một tinh xá u tịch thoáng mát tại núi Hắc Phong2, nhưng ngặt nỗi tìm không ra những tảng đá cực lớn kiên cố. Thấy vậy, Tô-tần-đà liền vận thần thông chỉ trong một đêm từ bên kia sông Hằng mang đến vô số đá lớn.
Khi tinh xá đã xây hoàn thành thì quốc vương lại chau mày than thở. Hóa ra quốc vương muốn dùng vàng tôn tạo một tượng Phật lớn đặt trong tinh xá nhưng tiếc thay kho lẫm quốc gia không có nhiều vàng đến thế.
Khi ấy, Tô-tần-đà lấy trong đẫy ra một bình nước thuốc. Chỉ thấy ngài nhỏ vài giọt xuống phiến đá; phiến đá lập tức biến thành vàng.
Quốc vương thấy vậy trong lòng rất vui, liền cho gọi một người thợ giỏi nhất đến lấy vàng tạc tượng Phật để nhân dân chiêm ngưỡng lễ bái.
Năm trăm năm sau khi đức Phật diệt độ, Tô-tần-đà hiện thân nhiều lần tại thành Bà-la-đổ-la nước Kiện-đà-la3 ở Ấn Ðộ thời bấy giờ.
Có lần, trên đường du hóa từ nước Ca-thấp-di-la4 đến nước Kiện-đà-la, ngài gặp một ông Bà-la-môn đang cầm roi đánh đập con mình. Ðứa bé bị đánh mình đầy vết roi, la khóc rất đáng thương.
Tô-tần-đà hỏi Bà-la-môn:
- Dạy dỗ con cái, việc gì phải dùng tới đánh đập?
- Không đánh không nên người được!
- Muốn con cái nên người không phải đánh đập là thượng sách, mà phải biết tùy theo khả năng, trình độ của con để dạy mới đúng.
- Không bao giờ có chuyện đó! - Bà-la-môn không đồng ý.
Tô-tần-đà lấy ví dụ để giải thích:
- Ông chưa rõ phải không? Ông thử nghĩ xem tại sao cây khế kia liên tiếp mấy mùa không đơm hoa kết trái và tại sao cây táo lại ra quả èo ọt như nho? Chúng ta chỉ cần siêng năng chăm sóc tưới nước, bón phân thì chắc chắn cây khế và cây táo sẽ đơm hoa kết trái tốt hơn.
Bà-la-môn nghe lời Tô-tần-đà nói có lý hỏi:
- Như vậy, ngài bảo tôi phải dạy con như thế nào?
- Theo tôi thấy, con ông có duyên với Phật, ông nên cho nó xuất gia. Công đức xuất gia không thể dùng ngôn ngữ văn tự nghĩ bàn được đâu!
Bà-la-môn liền chấp thuận cho đứa con yêu quí của mình xuất gia.
Có thể thấy, sau khi chứng quả, biện tài của ngài chẳng thua kém ai! Ngay cả ông Bà-la-môn lời lẽ sắc bén kia cũng không phải là đối thủ của ngài.

Hình tượng ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Ông là vị đệ tử cuối cùng của Phật Đà. Bởi vì tháp là tượng trưng cho Phật, vì tưởng niệm đã đi theo Phật Tổ nên ông tự đặc chế ra một cái tháp và mang theo bên mình. Vì vậy, người đời sau này gọi ông là Thác Tháp La Hán.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ 4, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu

Ghi Chú
1 Nước Án-đạt-la: còn gọi là vương triều Án-đà-la, là vương triều thống lĩnh phía nam Ấn Ðộ sau khi vua A-dục băng hà. Vị vua đầu tiên là Thi-ma-ca, họ là Bà-đa-bà-ha. Vương triều này có cống hiến rất lớn trong việc chấn hưng Phật giáo Ðại thừa. Theo Tây Vực ký, quyển 9 thì thủ phủ là thành Bình-kỳ-la. Ngài Trần Na làm ra bộ Nhân minh luận chính là ở nước này.
2 Núi Hắc Phong: một ngọn núi nằm ở phía nam Ấn Ðộ.
3 Kiện-đà-la: Tên một nước xưa ở Ấn Ðộ, vị trí hiện nay thuộc vùng hạ lưu sông Khách-bố-nhĩ (Kabul) phía tây bắc Ấn Ðộ, phía bắc lưu vực Ngũ hà. Theo Tây Vực ký, quyển 2 thì nước này chiều ngang hơn ngàn dặm, chiều dài hơn tám trăm dặm, phía đông giáp sông Tín Ðộ, kinh đô là Bố-lộ-sa-bố tức vùng Bạch-sa-ngõa (Peshawar) thuộc vùng tây bắc Ấn ngày nay.
4 Nước Ca-thấp-di-la: Nay là nước Kashmir, nằm phía tây bắc Ấn Ðộ. Ðời Hán gọi là nước Kế Tân, đời Ðường gọi là Ca-thấp-di-la, thủ đô là Srinagar hiện nay do Ấn Ðộ quản lý.
 

hoalocvung

Xe điện
Biển số
OF-106549
Ngày cấp bằng
23/7/11
Số km
4,145
Động cơ
433,754 Mã lực
18- TÔN GIẢ MA HA CA DIẾP





A Di Đà Phật cảm ơn cụ Slaz, ấn tống kinh sách về Ngài - có lẽ cũng chính vì vậy mà Ngài có danh hiệu - Đầu Đà

Ở Ấn, nhiều bức tranh khắc họa về Ngài trong lễ trà tỳ Đức Phật - Ngài ngồi nghiêm trang chắp tay lậy Phật
Ngay khi nghe tin dữ đã vội vã trở về từ núi Linh Sơn để có mặt trong buổi lễ đó (ghi chép lại từ Kinh Niết Bàn)

Thế Tôn cũng như các Đệ tử của Ngài luôn hiện tiền - bên cạnh chúng ta trên con đường hướng tới chân như
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
A Di Đà Phật cảm ơn cụ Slaz, ấn tống kinh sách về Ngài - có lẽ cũng chính vì vậy mà Ngài có danh hiệu - Đầu Đà

Ở Ấn, nhiều bức tranh khắc họa về Ngài trong lễ trà tỳ Đức Phật - Ngài ngồi nghiêm trang chắp tay lậy Phật
Ngay khi nghe tin dữ đã vội vã trở về từ núi Linh Sơn để có mặt trong buổi lễ đó (ghi chép lại từ Kinh Niết Bàn)

Thế Tôn cũng như các Đệ tử của Ngài luôn hiện tiền - bên cạnh chúng ta trên con đường hướng tới chân như
Ngày nay chúng sinh thường bị 6 căn dẫn hướng, dính mắc vào 6 trần. Thời Đức Phật ngài còn tại thế đã tạo ra những Pháp môn giúp người học có phương pháp lìa được các ái nhiễm này.
Nhưng ngày nay, kinh sách bị tam sao thất bản, minh sư khó gặp, Tà ma mượn lốt tu hành phá hoại Phật Pháp nhan nhản. Chúng dùng đủ mọi thủ đoạn, nên người tu phải noi gương các tổ, phải tự đốt đuốc răn mình.
Thực ra như cá nhân em thì cảm thấy là đang cố chống chọi chứ chưa đủ cấp gọi là "TU". Nhưng em vẫn còn chỗ dựa trong cái góc nhỏ này, còn 2 cụ đang ngược dòng để em dõi theo. cảm ơn các cụ!
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
5. NẶC CỰ LA.



Tôn giả Nặc-cự-la là vị La-hán thứ năm trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng hơn tám trăm vị đệ tử trú tại Nam Thiệm-bộ Châu.

Nam Thiệm-bộ Châu còn gọi là Nam Diêm-phù-đề nằm trong biển lớn phía nam núi Tu Di.
Tên của Ngài là Nặc-cù-la (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc gia cấp Sát-đế-lợi sức mạnhvô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa. nên tranh tượng tạc thêo tư thế này còn gọi là Tĩnh Tọa La Hán
Nặc-cự-la chứng quả rất sớm. Ðương thời, có vị ngoại đạo tên Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định của ông ta rất cao, có thể tọa thiền suốt ba tháng.
Có lần, Uất-đầu-lam-tử nói với Nặc-cự-la:
- Tôi không tin Phật pháp cũng không cần tu theo phương pháp của Phật nhưng vẫn đắc được định lực, đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn.

- Ồ không, ông sai rồi! Thiền định nhà Phật không giống cách tọa thiền của ngoại đạo. Công phu nhà Phật vượt qua sự quán chiếu bằng trí tuệ, nhẫn nhục thử thách, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được, vả lại khi đạt đến rồi thì không bao giờ thối chuyển. Còn ông theo phương pháp tu luyện của ngoại đạo, tuy đạt được định lực, song chỉ là tạm thời không thể an trú vĩnh viễn trong pháp lạc thanh tịnh giải thoát, một khi bị hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu, định lực sẽ hủy hoại, tán loạn.

- Hừ, ông còn kém lắm! - Uất-đầu-lam-tử không tin.
Thấy Uất-đầu-lam-tử không tin, Nặc-cự-la cũng không phản bác lại. Ngài lặng lẽ bỏ đi. Dù sao thì sự thật sẽ chứng minh tất cả.
Ðương thời, vua nước Ma-kiệt-đà rất tôn kính Uất-đầu-lam-tử. Vua cho rằng pháp thuật và công phu thiền định của ông ta hơn hẳn Nặc-cự-la nên cứ cách mỗi nửa tháng thì tổ chức một lần trai diên để cúng dường Uất-đầu-lam-tử. Mỗi lần đến, ông ta đều bay từ không trung xuống, thần khí phi thường.
Lần nọ, vua có việc đi xa có thể phải mất ba tháng mới về. Sắp đi, vua gọi đến một thể nữ vừa đẹp, vừa biết hầu hạ dặn cứ cách năm ngày phải luộc rau thật ngon chiêu đãi Uất-đầu-lam-tử.
Ðược thể nữ tiếp đãi tận tình chu đáo, Uất-đầu-lam-tử vô cùng thích thú, trong lòng bỗng nảy ra ý nghĩ: "Thể nữ này vừa xinh vừa luộc rau ngon, hầu hạ lại hết lòng, nếu như được bầu bạn luôn bên ta, điều đó há chẳng phải là sung sướng biết chừng nào sao?!"
Do mống khởi ý niệm này mà công phu thiền định bấy lâu của Uất-đầu-lam-tử đều tiêu mất, không bay được nữa. Ông ta đành đi bộ về lại chỗ mình ở.
Uất-đầu-lam-tử kinh sợ, thấy không thể coi thường nên vội kiết già tọa thiền để công lực khôi phục lại. Nhưng khi mới ngồi xuống thì trong đầu hiện lên toàn giọng nói và hình bóng của thể nữ, ông ta không thể nhập định được.
Uất-đầu-lam-tử chạy đến rừng ngồi thì tiếng kêu rú của chim thú vang lên trong tai. Ông ta chạy đến bên sông thì lại nghe tiếng huyên náo của các loài cá, ba ba dưới nước. Không nhập định được, ông ta căm ghét bọn chúng, giận dữ lập một ác nguyện: "Ta nguyện đời sau đầu thai làm một quái vật, trên trời quắp hết các loài chim, dưới đất vồ chụp hết dã thú, trong nước túm bắt tất cả cá, ba ba."
Vì khởi ác niệm như thế nên toàn bộ công phu thiền định trước kia của ông ta đều tiêu mất. Ðáng thương hơn là sau khi chết, ông ta bị đọa vào địa ngục thọ khổ.
Nặc-cự-la dùng thiên nhãn thông thấy Uất-đầu-lam-tử đọa địa ngục. Ngài than, rồi nói với vua:
- Ðó chính là chỗ pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não cơ bản của con người, ông ta chưa diệt trừ hết.
- Ngài nói sao? - Vua hỏi.
- Tôi ví dụ phiền não giống như cỏ độc, chúng ta nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nếu chỉ dùng lưỡi liềm cắt thì không lâu nó sẽ mọc dài ra lại.
- À, Ngài nói có lý.
Lúc này, vua mới hiểu Phật pháp chân chánh đáng quý và phát khởi niềm tôn kính Tôn giả Nặc-cự-la vô hạn. Từ đó, vua dốc lòng ủng hộ hoằng dương Phật giáo.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
6. BẠT-ÐÀ-LA





Tên của Ngài là Bạt-đà-la (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.Còn có cái tên khác là La Hán Qua Giang vì ngài thường giong thuyền giáo hóa
Tôn giả Bạt-đà-la là vị La-hán thứ sáu trong mười sáu vị La-hán, là vị đại đệ tử thường theo hầu đức Phật lúc Ngài ở tinh xá cũng như khi ra ngoài.
Hiện tại, ngài cùng 900 đệ tử trú tại Ðam-một-la Châu.

Trong các tự viện ở Trung Quốc, Bạt-đà-la thường được thờ trong nhà tắm. Vì sao như vậy? Giai thoại kể về ngài như sau:

Bạt-đà-la là người chuộng sạch sẽ, rất thích tắm. Khí hậu Ấn Ðộ lại nóng nên mỗi ngày hễ có thời gian rảnh là ngài nhảy xuống sông tắm; nếu không thì ngồi xổm bên giếng xách nước xối ào ào từ đầu xuống chân.

Tắm vốn là việc tốt, nhưng tắm kiểu Bạt-đà-la một ngày từ một, hai đến mười lần như vậy thật quá lãng phí thời gian. Do đó, ngài thường vì tắm mà trễ nãi rất nhiều công việc khác phải làm và hay bị mọi người quở trách.

Chẳng hạn như đến giờ thọ trai, ai nấy đều xếp hàng ngay ngắn ôm bát vào trai đường nhưng chỉ có một mình ngài vắng mặt. Khi ngài tắm xong, cơm rau cũng bị người khác dùng hết. Vì thế, ngài thường bị đói.

Nhiều buổi công phu tối, mọi người đang xướng tán, tụng kinh, tọa thiền trong chánh điện thì ngài lại lén ra ngoài đi tắm, mỗi lần tắm mất cả buổi. Thậm chí ngủ nửa đêm, ngài còn thức dậy đi tắm. Nghe nói có khi một đêm, ngài tắm đến năm, sáu lần.

Có người đem thói quen kỳ quặc này bạch lên đức Phật. Ðức Phật gọi ngài đến hỏi:

- Này Bạt-đà-la, ông thích tắm lắm phải không?

- Dạ phải, bạch Thế Tôn! Con rất thích tắm.

Ðức Phật hỏi tiếp:

- Vì sao ông thích tắm?

- Dạ vì tắm tẩy sạch được mồ hôi xú uế, khiến thân thể cảm thấy mát mẻ, sảng khoái, nhẹ nhàng.

- Ðúng vậy, này Bạt-đà-la! Tắm có 5 điều tốt: một, tẩy sạch các cấu bẩn; hai, khiến thân thể thanh khiết; ba, trị được cảm mạo; bốn, giúp thân thể khỏe mạnh; năm, thân tâm được thanh tịnh vui vẻ, cởi mở. Nhưng ông biết tắm phải như thế nào không?

- Dạ đương nhiên là con biết. Mỗi lần tắm, con đều dùng nước kỳ sạch sẽ những chỗ dơ trên thân. - Bạt-đà-la nói rất chắc chắn.

Ðức Phật cười nói:

- Không đâu, này Bạt-đà-la! Cách tắm đó chỉ tẩy được những cấu uế trên thân không tẩy được cấu uế trong tâm.

Trước đây chưa từng nghe cách tẩy tâm, Bạt-đà-la thấy lạ hỏi:

- Bạch đức Thế Tôn! Tắm còn có thể tẩy được cấu uế trong tâm sao?

- Ðúng vậy! Ai hiểu đúng cách tắm ấy thì người đó tẩy sạch được cả trong lẫn ngoài.

Bạt-đà-la sốt ruột muốn biết, bèn hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Con phải tắm như thế nào mới được?

Ðức Phật từ ái dạy:

- Này Bạt-đà-la! Khi tắm phải nghĩ như vầy: "tâm ta thường bị phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ích kỷ, đố kỵ, ganh tỵ, vị kỷ... làm nhiễm ô, do đó phải dùng nước thanh tịnh tẩy chúng. Tuy không thể một, hai lần là tẩy sạch, nhưng ngày nào cũng tinh tấn thì ắt có ngày thân tâm sẽ được thanh tịnh an lạc."

Sau khi tiếp nhận lời Phật dạy, ngài hiểu đúng phương pháp và ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa rồi theo đó hành trì, không lâu thì giác ngộ chứng quả A-la-hán.

Thấy lợi ích thiết thực của việc tắm, ngài bảo mọi người:

- Này các vị! Ngày nào cũng tắm rửa, chúng ta thấy việc ấy rất bình thường, nhưng đó lại là một pháp tu hữu dụng, gần gũi thiết thực nhất trong cuộc sống đấy!

Từ đó, ngài quyết định phụng sự cho chúng sanh hậu thế, dạy họ cách tắm, giúp hàng vạn người cũng giác ngộ như ngài. Nghe nói, người đời sau nếu như khi tắm không khéo phản tỉnh tư duy, nhớ nghĩ điều thiện thì ngài sẽ lén gãi vào tai hoặc đánh vào người họ.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
7. CA-LÝ-CA





Còn gọi là La Hán Cưỡi Voi

Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng môt ngàn vị đệ tử trú tại Tăng-già-trà Châu. Tăng-già-trà Châu tức Tích Lan (Srilanka) ngày nay.
Tên của Ngài là Ca-lý-ca (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.

Phần trước, chúng tôi đã giới thiệu Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la cũng là người Tích Lan. Tích lan chỉ là một hòn đảo nhưng lại có hai vị đại A-la-hán đản sanh. Thật là một điều vinh hạnh đáng tự hào.

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, đức Phật từng bảo:
- Này Ca-lý-ca! Ông là bậc A-la-hán đạo cao đức trọng. Ông sẽ cùng mười lăm vị La-hán kia lưu lại nhân gian mãi đến khi nào Bồ-tát Di Lặc ra đời, các ông mới được ra đi.
Ca-lý-ca thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Nhưng thế gian rộng lớn như vậy con biết ở nơi nào?

Ðức Phật bảo:

- Ồ, ông nên ở lại Tăng-già-trà Châu, quê hương của ông.

Từ đó, ngài đưa một ngàn vị đệ tử đến trú tại Tăng-già-trà Châu.

Khi còn tại thế, đức Phật từng đến đảo Tích Lan thuyết pháp, giảng kinh cho vua Dạ Xoa nghe. Bộ "kinh Lăng già" nổi tiếng được giảng tại đây. Ca-lý-ca cũng là một trong số đệ tử theo Phật đến Tích Lan.

Lúc đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ Xoa theo hầu không rời nửa bước, rồi quỳ sát đất cung kính thưa:

- Kính lạy đấng Từ bi giáo chủ của trời người, xin thương xót chúng sanh ở đảo chúng con mà lưu lại một vật kỉ niệm gì đó có giá trị để cho hậu thế tin Ngài đã từng đến đây thuyết pháp, giảng kinh.

Cảm động trước lòng thành kính của Dạ Xoa, đức Phật hứa khả lời thỉnh cầu.

Khi ấy mọi người suy đoán: " Ðức Thế Tôn sẽ để lại gì đây?"

- Có thể là chiếc áo cà sa!

- Có lẽ là một đôi dép!

- Chắc là một chuỗi hạt!

Nhưng không ai đoán đúng cả, chỉ thấy đức Phật từ từ đưa chân phải lên rồi nhẹ nhàng để xuống. Bỗng nhiên, đại địa chấn động, núi non rung chuyển.

Lát sau, đức Phật chỉ xuống chân nói:

- Ta để lại cái này!

Mọi người trố mắt nhìn, chẳng biết từ lúc nào trên đất đã in một dấu chân thật lớn.

- Chúng con xin đê đầu đảnh lễ thành kính tri ơn Thế Tôn. Bạch đức Thế Tôn! Sau này, chúng con sẽ gọi núi này là núi "Phật Túc Sơn" [1] được không? - Vua Dạ Xoa thưa.

- Tốt lắm! Cứ gọi núi này là "Phật Túc Sơn".

Ðáp lời Dạ Xoa xong, đức Phật quay sang Ca-lý-ca bảo:

- Ðúng rồi, Ca-lý-ca! Sau này, ông nên lưu lại nơi đây dạy bảo mọi người hằng ngày đến lễ bái, gìn giữ thánh tích này cho trang nghiêm.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con nhất định sẽ phụng hành. - Ca-lý-ca cung kính đáp.

Phật Túc Sơn lúc bấy giờ là thánh địa nổi tiếng khắp nơi, dân chúng chen nhau đến lễ bái. Nhưng trải qua một thời gian, nó dần dần chìm vào quên lãng. Con đường nhỏ lên núi cũng bị cỏ hoang phủ kín.

- Phải làm sao đây? - Ca-lý-ca tự hỏi.

Trong thời gian đó, vua Tích Lan là Ba-đạt-gia-mã-ni-a-ba-á bị bại trận, vì trốn chạy kẻ địch truy đuổi nên núp trong sơn động. Một hôm, quốc vương thấy một con nai hoa rất đẹp xuất hiện trước cửa động nhìn mình không chớp mắt, không cầm lòng được vua thốt:

- Ô, nai rừng đẹp quá!

Thế mà lạ thay, vua bỗng như người bị mộng du bước đi theo nai. Khi gần lên núi, nai biến mất. Ðang còn cảm thấy kỳ lạ thì vua phát hiện trên đỉnh núi cách đó không xa có ánh hào quang lấp lánh.

Quốc vương giật mình kinh sợ nghĩ trên đó có địch mai phục vội chạy núp vào bụi cỏ. Nhưng qua cả buổi mà vẫn không thấy động tĩnh gì, lúc này vua mới mạnh dạn bước ra, tiến về phía trước nhìn xung quanh, cuối cùng phát hiện dấu chân Phật. Thế là danh tiếng Phật Túc Sơn được tiếp tục lưu truyền. Thì ra, con nai hoa kia chính là do Tôn giả Ca-lý-ca biến.

Trải qua không biết bao nhiêu triều đại, Phật Túc Sơn lại bị trôi dần vào quên lãng. Do không có người lên núi nên nó đã bị cỏ hoang phủ kín lối đi.

- Phải làm gì đây? - Ca-lý-ca trăn trở.

Khi đó, dưới chân Phật Túc Sơn có một vườn hoa của vua Tích Lan rất lớn; trong vườn trồng nhiều loài hoa quí hiếm. Những lúc rảnh rỗi, vua thường dạo chơi ngắm hoa, thưởng thức cảnh ong bướm bay đầy trời với muôn màu hoa thơm cỏ lạ.

Nhưng sáng hôm nọ, khi đến vườn hoa, vua phát hiện mấy cành hồng mà mình yêu thích bị ai đó bẻ đi rất nhiều. Vua giận dữ quát:

- Ðáng ghét! Ðứa nào dám bẻ hoa của ta hả?

Liên tiếp mấy ngày, hoa trong vườn không ngừng bị kẻ trộm ngắt bẻ. Cuối cùng, vua phái người mai phục bốn phía vườn hoa suốt đêm và bắt được tên trộm bẻ hoa. Thì ra là một thiếu nữ xinh đẹp.

Quốc vương chỉ vào thiếu nữ mắng:

- Con bé chết tiệt kia, sao ngươi dám trộm hoa của ta!?

- Dạ thưa bệ hạ, con bẻ hoa để cúng Phật. - Thiếu nữ chắp tay đáp.

- Láo toét! Gần đây không có chùa lấy đâu ra Phật mà lễ bái cúng dường! - Quốc vương cho rằng thiếu nữ nói dối.

- Thưa bệ hạ! Con không gạt ngài đâu. Trên núi này có dấu chân Phật để lại. - Thiếu nữ đưa tay chỉ vào đám sương mù mờ mịt và những ngọn cây cao hơn hai ngàn ba trăm thước trên núi nói.

Quốc vương bán tín bán nghi, nhưng vì muốn vạch trần lời nói dối của thiếu nữ nên ngài đích thân lên núi. Khi lên tới nơi, bất chợt vua giật mình kinh sợ vì quả nhiên thấy dấu chân Phật. Quốc vương vội đảnh lễ dấu chân Phật. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì không biết thiếu nữ kia đã biến đi về hướng nào.

Hóa ra, thiếu nữ xinh đẹp kia chính là do Ca-lý-ca biến thành. Ngài dẫn vua Tích Lan phát hiện ra Phật Túc Sơn một lần nữa. Từ đó, Phật Túc Sơn luôn được khắc sâu trong lòng người dân Tích Lan không còn bị lãng quên nữa.

Cho đến nay, lúc nào cũng có người lên núi. Nhất là mỗi năm đến ngày mười lăm tháng ba âm lịch, phong trào quần chúng đến lễ bái thánh tích càng rầm rộ không ngớt. Có được như vậy là nhờ ơn đức của Tôn giả Ca-lý-ca vâng lời phó chúc của Phật trú tại Tích Lan hoằng dương Phật pháp.

Ghi Chú:
Phật Túc Sơn: Theo hai chương mở đầu của hai cuốn sách Ðảo Sử và Ðại Sử của Tích Lan có ghi truyền thuyết rằng đức Phật từng ba lần đến thăm đảo Tích Lan. Lần thứ nhất là vào tháng chín sau khi thành đạo, Ngài đến Ma-hê-ương-dà-na tháp thuộc vùng cư trú của thổ dân tộc Dạ Xoa. Lần thứ hai là vào năm thứ năm sau khi thành đạo. Lần thứ ba là vào năm thứ tám sau khi thành đạo, đức Phật cùng năm trăm vị tỳ kheo tới Ca-lê-da (Kalyani) nhận sự cúng dường của vua Long vương Ma-ni. Sau đó, Ngài tới đỉnh Tu-ma-na và để lại dấu chân tại đó (Phật Túc sơn?). Người Tây phương gọi là núi Á Dương (Adam's Peak).
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
8. PHẠT-XÀ-LA-PHẤT-ÐA-LA




Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la là vị La-hán thứ tám trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng một ngàn một trăm vị đệ tử trú ở Bát-thích-noa Châu. Có người nói ngài chính là Kim Cang Tử trong Mật tông Phật giáo Trung Quốc.
Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quít bên Ngài, do đó Ngài biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.


Có lần, Ðề-bà-đạt-đa và vua Vị Sanh Oán (tức vua A-xà-thế) bày mưu sát hại đức Phật. Họ dùng rượu phục cho mười mấy con voi lớn uống say, đợi khi đức Phật đi qua đường rồi đem thả chúng ra.

Ðám voi say lồng lên như điên, chạy sồng sộc khắp nơi. Khi chúng sắp xông đến đức Phật, Phạt-xà-la-phất-đa-la liền nhảy tới trừng vào chúng, không chút sợ hãi. Nhờ thể lực và dũng khí hơn người, ngài xách đầu con voi chúa chế phục, rồi bảo toàn bộ đám voi quỳ xuống thành kính sám hối đức Phật .

Phía bắc tinh xá Trúc Lâm ở nước Ma-kiệt-đà tại Ấn Ðộ có ao Ca-lan-đà, đức Phật thường đến đó giảng kinh thuyết pháp. Nước trong ao rất trong có thể uống và nấu nướng. Uống nước ao này không những trị được bệnh mà còn khiến tinh thần thoải mái sảng khoái. Nhưng sau khi đức Phật diệt độ, nước trong ao khô dần và cuối cùng không còn giọt nào. Thấy thế, tín đồ ngoại đạo phao tin nhảm:

- Phật pháp suy vi rồi! Phật pháp sắp diệt rồi!

Nghe tin, Phạt-xà-la-phất-đa-la từ Bát-thích-noa Châu tức tốc trở về. Ngài đưa tay chỉ xuống ao, lập tức nước trong ao đầy trở lại. Dân chúng đứng xem xung quanh rất đông ai cũng cảm thấy kỳ lạ. Phạt-xà-la-phất-đa-la nói với mọi người:

- Này các vị, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nước sông Hằng có thể khô cạn, nhưng chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không bao giờ thay đổi. Các vị có biết vì sao nước trong ao khô không? Ðó là vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp, không ai chịu dốc sức hộ trì nên nước trong ao ngọt ngào mát mẻ như thế mới khô cạn. Nếu như tất cả đều vâng theo lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như lúc Ngài còn tại thế thì tôi bảo đảm rằng nước trong ao sẽ không bao giờ khô.

Nghe Phạt-xà-la-phất-đa-la nói, mọi người vô cùng xúc động, ngọn lửa thâm tín Phật pháp tiếp tục được thắp lên. Quả nhiên từ đó, nước trong ao luôn trong xanh, tràn đầy không bao giờ cạn.

Sau đức Phật diệt độ hơn chín trăm năm, Phạt-xà-la-phất-đa-la chuyển kiếp đầu thai làm thái tử nước Ma-kiệt-đà tên là Phạt-xà-la, phụ vương là vua Bà-la-a-điệt-đa.

Trong thời gian tại vị, ngài dốc sức hoằng dương Phật pháp, kiến lập rất nhiều tự viện. Ðiều đó cho thấy, Tôn giả thường xuyên lưu lại nhân gian hộ trì Phật pháp, hóa độ chúng sanh.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
9. THÚ-BÁC-CA




Khai Tâm La Hán

Tôn giả Thú-bát-ca là vị La-hán thứ chín trong mười sáu vị La-hán. Ngài cùng 900 đệ tử trú trong núi Hương Túy. Ngài còn một tên nữa là Tôn-đà-la nhưng người đời thường gọi ngài là Thú-bát-ca.
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca (Jivaka). Thú-bác-ca
Có giai thoại nói là
Ông vốn là Thái tử Trung Thiên Trúc. Khi người em của ông muốn tranh đoạt ngôi vua với ông, ông nói: “Trong tâm ta chỉ có Phật, chứ không có Vương vị.” Hơn nữa, ông còn mở lồng ngực của mình ra, người em nhìn thấy quả nhiên trong tim ông có một vị Phật nên không làm loạn nữa. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “Khai Tâm La Hán”
.

Trước khi tin Phật, Thú-bát-ca là một vị Bà-la-môn đạo cao đức trọng. Ngài nghe nói thân Phật cao một trượng sáu thì trong lòng hoài nghi nên đến rừng trúc chặt cây trúc dài một trượng sáu, rồi đi tới chỗ Phật. Ngài muốn đích thân mình đo mới tin.

- Ông muốn đo thân tôi cao bao nhiêu phải không? - Ðức Phật ôn tồn hỏi.

- Ðúng vậy, tôi không tin Ngài cao đến thế. - Thú-bát-ca đáp.

- Ðược thôi, ông đo đi!

Ðược đức Phật đồng ý, Thú-bát-ca cầm sào đến đo. Lạ thay, ngài đo bất cứ cách nào thân Phật cũng cao hơn sào một chút. Chưa chịu tin, ngài đi tìm một cái thang dài rồi leo lên thang đo lại. Thế nhưng, thân Phật cũng cao hơn sào một chút. Ðo đến mười mấy lần như vậy, không còn cái thang nào dài hơn nữa mà thân Phật vẫn cao hơn sào. Lúc này, ngài mới tâm phục khẩu phục, thừa nhận đức Phật có thân cao trượng sáu và xin qui y làm đệ tử.

Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh tu hành, cuối cùng Ngài cũng chứng quả A-la-hán.

Vì muốn kỉ niệm chuyện tin Phật ngộ đạo của mình, ngài tìm lại cây sào lúc trước dùng đo thân Phật, rồi đi đến chỗ cũ nói:

- Nếu như Phật pháp là chân lý bất di bất dịch thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng nơi đây để làm chứng tích cho muôn đời sau.

Nói xong, ngài dùng sức cắm mạnh sào xuống đất, lập tức cây sào ra lá xanh biếc. Về sau nó mọc thêm rất nhiều măng, măng lớn lên thành trúc. Ðến nay mọc lan thành cả một rừng trúc lớn tại phía đông bắc núi Kê-túc. Có được rừng trúc như bây giờ là do từ cây trúc ngày trước của ngài cắm xuống. Thế nên có người còn gọi đây là Trượng Lâm (rừng gậy).

Tin này lập tức được truyền khắp bán đảo Ấn Ðộ. Hay tin nhiều quốc vương đại thần, chư Tăng, Phật tử tấp nập kéo đến chiêm bái. Nhưng lân cận vùng này là một hoang dã, cỏ cây thưa thớt không đủ che mát, nghiêm trọng nhất là không có nước uống, do đó rất nhiều người ngã bệnh. Thấy vậy, Thú-bát-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước, một nóng một lạnh để mọi người giải khát, nấu nướng, tắm rửa, giặt giũ. Vì vậy, ai cũng hoan hỷ tán thán cho rằng rất tiện lợi.

Hai suối nước này nằm cách hơn mười dặm về hướng tây nam rừng Trượng Lâm. Mãi đến nay, dân chúng gần đó vẫn còn nhớ mãi ân đức cao dày của Thú-bát-ca.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
10. BÁN-THÁC-CA





La Hán Thám Thủ

Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau khi xả thiền. Ngài tên là Bán-thác-ca (Panthaka),
Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười trong mười sáu vị La-hán và cũng chính là anh của Chú-trà-bán-thác-ca ( Châu Lợi Bàn Đà). Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn ba trăm vị đệ tử trú tại cõi trời Ðao-lợi, nơi thân mẫu đức Phật ở. Vì ra đời ngay bên đường nên ngài được đặt tên là Bán-thác-ca, tên này tiếng Hán dịch là Ðại Lộ Biên Sanh (sanh bên đường lớn). Vì sao ngài bị sanh bên đường? Nguyên nhân như vầy:

Mẹ ngài vốn là một thiên kim tiểu thư, con nhà hào phú trong thành Vương-xá ở Ấn Ðộ. Cô ta đem lòng yêu một người đầy tớ trong nhà mình, nhưng cha mẹ không đồng ý hôn sự của họ. Không còn cách nào hơn, cô ta bỏ nhà đi theo chàng đầy tớ đến nơi khác cưới nhau. Sau một thời gian sống bên nhau, mẹ ngài mang thai ngài. Theo phong tục Ấn Ðộ đương thời thì người phụ nữ khi sanh nhất định phải về lại nhà mẹ mình. Nhưng vì bỏ nhà đi, về lại sợ cha mẹ mắng nên mẹ ngài không dám về.

- Làm sao đây? - Vì chuyện này mà ngày nào mẹ ngài cũng sầu muộn lo âu.

- Ðợi qua một tuần nữa hãy hay! - Lần nào cha ngài cũng trả lời như vậy. Thật ra, ông ta cũng không biết phải làm sao.

Thấy bụng ngày càng lớn, mẹ ngài sốt ruột lo lắng. Nhưng cách tính dây dưa kéo dài ngày này qua ngày kia ra thì còn có thể làm gì bây giờ?! Cuối cùng, cận kề ngày sanh không thể nấn ná thêm nữa, mẹ ngài quyết định về lại nhà. Nhưng khi vừa đi đến nửa đường thì sanh ngài, nên chẳng bao lâu họ quay về lại chỗ cũ.

Năm năm sau, mẹ ngài tiếp tục mang thai, lần này chính là Châu-lợi-bàn-đà-già. Giống như anh mình, Châu-lợi-bàn-đà-già cũng được sanh giữa đường lúc mẹ về nhà ngoại. Do đó, gia đình họ lại dọn về chỗ cũ, rốt cuộc không đến thành Vương-xá.

Vì mưu sinh nơi tha phương khó khăn, sinh hoạt thường nhật vất vả, cha ngài không lo nổi cuộc sống cho gia đình, nên mẹ ngài quyết định đưa hai anh em ngài về nhà ông bà ngoại.

Ông ngoại ngài nghe tin con gái về, bực tức trong lòng chưa nguôi nên cự tuyệt không cho vào nhà. Tuy nhiên, ông đồng ý cho cô ta để lại hai đứa cháu và bằng lòng nuôi chúng tử tế. Như vậy, hai anh em ngài từ nhỏ đã theo sống với ông bà ngoại. Vì ông ngoại là một hào phú nên cuộc sống hai huynh đệ ngài rất sung túc thoải mái. Mặc dù là anh em ruột nhưng họ lại khác nhau rất xa. Bán-thác-ca thì thông minh lanh lợi, nhiều kinh sách chỉ xem qua một lần là thuộc lòng, không bao giờ quên. Còn Châu-lợi-bàn-đà-già thì ngu đần ngốc nghếch ngay cả cây chổi cũng không nhớ.

Năm tháng thắm thoát trôi qua, mới đó mà Bán-thác-ca đã là một thanh niên trí thức. Ngài thường theo ông ngoại đến nghe đức Phật thuyết pháp, rồi trong lòng ôm ấp ý định xuất gia.

Một hôm, ngài quyết định thưa với ngoại:

- Thưa ông, cháu muốn xuất gia, ông cho phép cháu đi nha!?

- Tốt lắm! Xuất gia tu hành được là phước báo nhiều kiếp, ông vui mừng không gì bằng, sao lại không đồng ý cơ chứ!.

Không ngờ mới nói qua một tiếng mà ông ngoại ngài liền chấp thuận. Sau khi xuất gia, nhờ tư chất thông minh cộng với sự dũng mãnh tinh tấn đêm ngày, nên không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.

Sau khi chứng quả, ngài nhớ đến đứa em ngu dốt ở nhà, trong lòng nghĩ: "Nếu như Châu-lợi-bàn-đà-già cũng được xuất gia thì hay biết mấy nhỉ?". Vì thế nên, sau khi thưa thỉnh và được ông ngoại đồng ý, ngài dẫn Châu-lợi-bàn-đà-già đến Phật xin quy y xuất gia làm Sa-môn.

Mặc dù đã xuất gia nhưng vì quá tối trí nên đạo nghiệp Châu-lợi-bàn-đà-già vẫn không chút tiến triển. Do đó, Bán-thác-ca khuyên ngài nên hoàn tục (chuyện này xin xem phần Tôn giả Chú-trà-bán-thác-ca). Bán-thác-ca đối xử với em mình như thế cũng là vì tình thương và trách nhiệm sâu sắc. Huống gì sau này Châu-lợi-bàn-đà-già cũng chứng quả, công dẫn dắt ngài đầu tiên đến với Phật của Bán-thác-ca không phải không có.

Có lần danh y thành Vương-xá là Kỳ-bà thỉnh đức Phật và các vị đã chứng quả A-la-hán đến nhà thọ trai. Bán-thác-ca được giao phụ trách việc kiểm số lượng xem có bao nhiêu vị La-hán tham gia buổi trai tăng này, còn Kỳ-bà chỉ căn cứ vào danh sách mà Bán-thác-ca đưa ra để chuẩn bị chỗ ngồi.

Lúc đó, Châu-lợi-bàn-đà-già vừa ngộ đạo nhờ pháp tu quét rác. Nhưng ngài không thích phô trương nên chẳng ai biết, ngay cả Bán-thác-ca cũng không hay. Do đó, khi lên danh sách, Bán-thác-ca không ghi Châu-lợi-bàn-đà-già. Vì vậy, đến ngày trai tăng chỉ có một mình Châu-lợi-bàn-đà-già ở lại tinh xá.

Ðợi mọi người đều ngồi vào đại sảnh nhà Kỳ-bà, khi chuẩn bị thọ trai thì đức Phật bảo:

- Chờ một chút, còn một vị La-hán chưa đến.

Nghe đức Phật nói, Bán-thác-ca thấy lạ hỏi:

- Dạ sao? Ðể con kiểm tra lại một tí.

Bán-thác-ca đối chiếu danh sách cẩn thận một lần nữa thấy những người có tên đều đến đầy đủ, ngài cung kính bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Tất cả đã đến đầy đủ rồi.

- Có thật tất cả đã đến đầy đủ rồi không? - Ðức Phật từ ái hỏi.

- Dạ vâng, không sót một ai! - Bán-thác-ca đáp rất chắc chắn.

- Ông về lại tinh xá xem còn vị La-hán nào chưa đến không!

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! - Nói xong, Bán-thác-ca vội ra đi.

Biết trước anh mình sẽ về nên Châu-lợi-bàn-đà-già muốn bày trò đùa với anh, và luôn tiện để cho anh biết sự bất ngờ rằng đứa em ngu ngốc cũng ngộ đạo. Do đó em ngài vận thần thông biến ra hơn một ngàn vị Hòa thượng khác nhau, mỗi vị tọa thiền mỗi nơi.

Khi trở về, Bán-thác-ca thấy ngạc nhiên, thầm nghĩ: "Sao lại có nhiều vị Hòa thượng đến thế này?". Ngài liền tọa thiền nhập định dùng thiên nhãn quán xét tường tận thì mới vỡ lẽ: "Ồ, thì ra là em mình bày trò đây!". Bán-thác-ca vui mừng khôn xiết, liền xuất định đứng dậy ôm chầm lấy em xúc động nói:

- Sư đệ! Chúc mừng! Chúc mừng! Hóa ra em đã chứng quả.

Châu-lợi-bàn-đà-già cũng vui mừng ôm lấy anh xúc động nói:

- Sư huynh! Cảm ơn anh! Cảm ơn anh đã lân mẫn dẫn dắt, dạy bảo em!

Khi hai anh em ngài cùng đến đại sảnh, cả pháp hội ai cũng cảm động, nhiệt liệt tán thán ngợi khen.

Ngay lúc ấy, đức Phật bảo:

- Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đà-già! Thật khó ai được như hai anh em các ông vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ tất cả phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán, thọ hưởng pháp lạc thanh tịnh vô thượng, thật đáng mừng đáng quí. Sau này, hai ông nên đồng tâm hiệp lực cùng nhau lưu lại nhân gian hoằng dương Phật pháp, tạm thời không được rời xa!.

Khi đức Phật tuyên bố hai ngài được chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại thế gian thì bầu không khí pháp hội càng trở nên tưng bừng hân hoan.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
11. LA-HỖ-LA(La Hầu La)



Còn gọi La Hán Trầm Tư. Gai thoại về ngài rất nhiều, cá nhân tôi cho răng ngài là nhân vật chính trong Kinh La Vân
Mật Hạnh Đệ Nhất (Rahula)

Tôn giả La-hỗ-la chính là La-hầu-la, con của thái tử Tất-đạt-đa.
Ngài là vị La-hán thứ mười một trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn một trăm đệ tử trú tại Tất-lợi-dương-cù châu. Trong "Thập đại đệ tử Phật", ngài được xưng tán là vị Mật hạnh đệ nhất.

Về cuộc đời Ngài, chúng tôi đã giới thiệu rất nhiều trong quyển "Thập đại đệ tử Phật" của Từ ân Phật giáo nhi đồng tùng thư, ở đây chỉ nói thêm vài mẫu chuyện thú vị khác.

Ba chữ "La-hầu-la" hán dịch là Phú Chướng. Vì sao đức Phật đặt cho ngài tên này? Câu chuyện được tương truyền:

Khi chưa ra đời, ngài ở trong bụng vương phi Da-du-đà-la suốt sáu năm. Thông thường, trẻ con ở trong bụng mẹ lâu nhất cũng chỉ có mười tháng, thế mà ngài lại ở đến sáu năm, thật kỳ lạ! Nguyên nhân là vì sao? Chuyện kể rằng vì tiền kiếp của ngài lúc còn là một đứa trẻ ngây thơ chưa biết gì, có lần nghịch ngợm lấy đá và bùn lấp một cái hang chuột khiến lũ chuột trong hang khốn đốn sáu ngày không ăn uống gì cả. Do đó, đời này ngài mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm.

Khi ngài lên chín tuổi, đức Phật sai Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đại đệ tử thần thông đệ nhất, về vương cung dẫn ngài đến sống bên mình; rồi bảo Tôn giả Xá-lợi-phất thế độ cho ngài xuất gia. Vì vậy, trong sử Phật giáo, ngài là vị tiểu Sa-di đầu tiên.

Thời làm Sa-di, vì nghĩ mình là thái tử một nước nên ban đầu ngài chưa thoát khỏi tập quán xấu của thời quí tộc, đã bướng bỉnh lại còn hay gây sự phá rối, không chịu dụng tâm tinh tấn tu hành đàng hoàng.

Một hôm, đức Phật không chịu được bèn gọi ngài đến và kể cho ngài nghe câu chuyện:

- Thuở quá khứ, có một vị vua nuôi một con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi lần giao chiến với kẻ địch không lần nào nó không đánh thắng.

Vua rất thương mến voi nên mặc cho toàn thân nó giáp sắt rất dày, tai, chân cũng bịt sắt, nhưng riêng vòi thì không. Vòi của nó là phần mềm nhất toàn thân, nếu không cẩn thận để bị trúng tên hay bị chém thì sẽ tử vong. Vì thế, để bảo vệ mạng sống mỗi lần tác chiến voi đều đặc biệt chú ý đến vòi.

- Này La-hầu-la, con cũng nên bắt chước như con voi bảo vệ cái vòi vậy, phải hết sức thận trọng trong lời nói, việc làm. Con thấy đó, đời trước con nhỏ dại nghịch ngợm lấp hang chuột mà bị mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm không thấy ánh sáng. Nếu như bây giờ con cũng như vậy, suốt ngày chỉ biết ăn chơi lêu lỏng quậy phá làm nhiều việc xấu, không chịu nỗ lực tinh tấn tu tập, con không sợ hậu quả sẽ là một chuỗi ngày dài bất hạnh sao?!

La-hầu-la nghe lời Phật dạy tỉnh ngộ. Từ đó, ngài hạ thủ công phu dụng công tu tập không dám biếng nhác nữa. Phát tâm dụng công tu tập, La-hầu-la thể hiện trọn vẹn những mỹ đức khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua nên phòng của ngài thường bị người khác chiếm ở; lắm lúc ngài phải vào nhà xí ngủ qua đêm. Một hôm, vì truyền đạo ngài bị tín đồ ngoại đạo đánh vỡ đầu. Thế nhưng, ngài vẫn không một lời than oán, lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch máu dơ rồi dùng khăn băng vết thương lại.

Có lần, có một tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất làm nơi tu tập tọa thiền, giảng kinh thuyết pháp. Nhưng chẳng bao lâu tín chủ đó đòi lại rồi đem cúng cho người khác, ngài vẫn bình thản dọn ra khỏi phòng không chút giận hờn. Như thế đủ chứng minh hạnh nhẫn nhục của ngài thật sự là nhẫn nhục Ba-la-mật.

Năm hai mươi tuổi, ngài chứng quả A-la-hán. Tuy đã chứng quả nhưng sống trong chúng, ngài không thích phô trương mà chỉ lặng lẽ tu tập, lặng lẽ hoằng pháp nên được đức Phật Ðặc biệt chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại nhân gian.

Mấy trăm năm sau, vua Thiết-thưởng-ca nước Câu-thi-na-la không tin Phật pháp đến độ đập phá chùa chiền, thiêu kinh hủy tượng, số người xuất gia ngày càng giảm thiểu.

Hôm nọ, có một vị Hòa thượng già chống gậy ôm bát vào thành đến từng nhà khất thực. Nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp được một gia đình tin Phật. Họ cung kính cúng cho ngài một bát cháo nóng. Sau khi hớp xong miếng cháo, ngài thở dài. Vị thí chủ thấy vậy liền hỏi:

- Thưa ngài! cháo không ngon sao?

- Ồ không, thời Phật pháp suy vi mà có một bát cháo để ăn là tốt lắm rồi.

- Không phải thế, vậy sao ngài thở dài?

- À, tôi chợt nhớ lại thuở xưa, lúc đức Thế Tôn còn tại thế, tôi thường ôm bát theo Ngài đến đây. Thời ấy, nhà nào cũng tin Phật, mọi người tranh nhau cúng dường, nhưng bây giờ thì khác hẳn, người tin Phật ngày càng ít, thật là chúng sanh phước mỏng nghiệp dày! - Vị Hòa thượng già không ngăn được nước mắt.

Người thí chủ thấy lạ hỏi:

- Thưa hòa thượng! Ngài nói chính mắt ngài thấy đức Phật và từng ôm bát theo Ngài sao?

- Ðúng vậy!

- Xin hỏi ngài là ai?

- Này thí chủ, người có từng nghe nói La-hầu-la con của thái tử Tất-đạt-đa không?

- Dạ có nghe.

- Tôi chính là La-hầu-la. Suốt mấy trăm năm nay, tôi luôn dốc sức hoằng dương Phật pháp. - Nói xong, Hòa thượng biến mất.

Chuyện này được ngài Huyền Trang ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng "Ðại Ðường Tây Vực ký". Ðiều đó chứng tỏ việc ngài La-hầu-la lưu lại nhân gian là không chút ngụy biện.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
Nói thêm về ngài Mật Hạnh Đệ Nhất Rahula...
http://www.thuongchieu.net/index.php?option=com_content&view=article&id=2026
...
Đức Phật đích thân đến vườn Ôn tuyền khiển trách La Hầu La.

Phật Răn Dạy La Hầu La

Khi nghe tin Phật đến, La Hầu La vội vàng ra nghinh đón. Thấy Đức Phật rất oai nghiêm từ xa mới đến, La Hầu La đem nước đến để Phật rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ nước trong chậu hỏi La Hầu La:

· Này La Hầu La! Nước này có thể uống được không?

· Bạch Thế Tôn! Không thể uống.

· Tại sao?

· Vì nước đã ô uế.

· Này La Hầu La! Ông cũng giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm Sa di khá dài, gần 10 năm nhưng với lề thói xấu xa, ông chưa dứt được.Nước ô uế không uống được, thân tâm những người còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình thức xuất gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể thăng hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh, hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, nói năng ngọt ngào, lựa lời mà nói. Xuất gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác gì nước dơ, nước không sạch người ta sẽ đem đổ, con người mang nhiều tật xấu ắt sẽ sa đọa tương lai đen tối.

Nói xong, Đức Phật bảo La Hầu La mang chậu đi đổ nước dơ rồi mang chậu về, khi trở lại Phật hỏi:

· Này La Hầu La! Chậu này có đựng thức ăn được không?

· Thưa không.

· Tại sao?

· Vì vết dơ bám đầy chậu.

· Này La Hầu La! Chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ông chỉ là một hình đồng Sa di mà thân, khẩu, ý không đồng, không tu tập giới, định, huệ, tâm không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết oai nghi, như thế khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng không được thì giữ lại làm gì?

· Nói vừa dứt lời, Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu khiến chậu vỡ đôi, Người lại hỏi tiếp:

· Này La Hầu La! Ngươi có tiếc cái chậu không?

· Thưa không.

· Tại sao?

· Vì chậu dơ, có gì phải tiếc!

· Này La Hầu La! Vì chậu dơ ngươi không tiếc khi nó vỡ. Giống như mọi người không thương kính ngươi, vì ngươi còn nhiều lầm lỗi, kể cả việc nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không được thật thà, oai nghi thiếu chững chạc, phỉnh gạt người khác, ai mà thương mến ngươi được? ...

...Có học có tu, có thực tài, có đức hạnh, vị thể của chúng ta trong giáo đoàn và ngoài xã hội mới vững, mới lâu dài. Người xưa có nói: "Hữu hoạn bất tài, hà hoạn vô vị" (chỉ sợ không tài, lo gì không có địa vị). Đối với cuộc đời, người có tài đức nếu vì một lý do nào đó không thành công thì cũng thành nhân". Riêng tu sĩvấn đềtiến tuđạo nghiệp là chính. Tôn giả La Hầu La nhờ âm thầm bỏ công rèn luyệnoai nghitế hạnh nên đã trở thành vị Mật Hạnh Đệ Nhất ngay lúc tuổi còn trẻ. Trong công tác của giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên... nhưng đã chứng Thánh quảA La Hán, Mật Hạnh đệ nhất, La Hầu La đã có vị thế lâu dài trong hàng Thánh chúngThập đại đệ tử của Đức Phật.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
12. NA-GIÀ-TÊ-NA

Còn gọi là NA TIÊN


La Hán Khoái Nhĩ

Tôn giả Na-già-tê-na là vị La-hán thứ mười hai trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn hai trăm vị đệ tử trú tại núi Bán-độ-ba. Trong kinh, tên ngài được gọi tắt là Na-tiên. Thật ra hai tên này chỉ là một nhưng do phiên âm khác nhau.
Ngài tên là Na-già-tê-na (Nagasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nagasena theo tiếng phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh thiên nhiên.

Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tay một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.

Tôn giả sinh ra và lớn lên ở phía bắc Ấn Ðộ, nhằm thời vua Di-lan cai trị. Vua Di-lan là người Hy Lạp rất thâm tín Phật pháp. Do đó, vua thường lui tới Na-tiên thỉnh vấn Phật pháp.

Là một người bác học đa văn, bản thân lại khắc khổ tu tập nên Tôn giả chứng quả A-la-hán rất sớm.

Có lần, vua Di-lan hỏi:

- Thưa tôn giả! Ngài là bậc thánh xuất gia chứng quả, vậy còn hàng Phật tử chúng tôi không xuất gia rốt cuộc có thể đắc quả A-la-hán không?

Na-tiên không do dự đáp:

- Ðương nhiên là có thể. Bất kỳ người nào chỉ cần chịu hạ thủ công phu nghiên cứu nghĩa lý Phật pháp, tinh tấn tu hành trang nghiêm, lâu ngày đạo hạnh ắt tự cao thâm, lúc đó lo gì mà không chứng quả!

- Thật không?- Vua bán tín bán nghi hỏi.

- Ðương nhiên là thật!

- Nhưng theo trẫm biết thì sao các bậc A-la-hán hầu như toàn bộ đều là người xuất gia?

- À, vì người xuất gia tu hành ít bị các tạp niệm thế gian chi phối nên dễ thành tựu hơn.

Vua Di-lan nghe nói, đối với người lúc sắp lâm chung chỉ cần chí thành niệm Phật sẽ được vãng sanh cực lạc, không bị đọa địa ngục thì cảm thấy nghi ngờ nên nói:

- Trẫm không tin pháp môn niệm Phật.

- Này đại vương! Giả sử có người lấy một viên đá ném xuống nước, viên đá sẽ nổi hay chìm?

- Ðương nhiên sẽ chìm!

- Còn nếu đem viên đá thả trong thuyền thì đá nổi hay chìm?

- Vậy thì sẽ không chìm.

- Vì sao không chìm?

- Vì đã có thuyền chở!

- Thế thì đúng rồi, đức Phật A Di Ðà từng phát đại nguyện làm thuyền từ cứu độ chúng sanh. Do đó, nếu chúng ta nhứt tâm niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc không còn bị trầm luân trong biển khổ.

- Ồ, thì ra là vậy, trẫm thật cảm phục ví dụ của ngài, nó đã giúp trẫm hiểu được pháp môn niệm Phật thật thù thắng vi diệu, là chỗ dựa vững chắc không chút hư dối.

Cách mấy ngày sau, vua lại đến thăm Na-tiên và hỏi một vấn đề khác:

- Thưa tôn giả! Ngài chưa chứng Niết-bàn sao biết Niết-bàn là cảnh giới an lạc giải thoát.

- Tâu đại vương! Tuy tôi chưa chứng Niết-bàn nhưng chư Phật quá khứ đều nói Niết-bàn là cảnh giới an lạc giải thoát nên tôi biết.

- Ðiều đó liệu có đáng tin không?

- Ðáng lắm chứ đại vương!

Tôi xin hỏi đại vương: chặt tay chân có đau không?

- Ðương nhiên là đau!

- Ðại vương! Từ trước tới giờ ngài chưa bị chặt tay chân sao biết chặt tay chân là đau?

- Vì trẫm thấy người bị chặt tay, chặt chân họ ngã nhào xuống đất kêu la rên xiết thống thiết nên trẫm biết.

- Cũng vậy đó, đại vương! Ðức Phật là bậc đã thành Phật. Ngài nói Niết-bàn rất an lạc, tất nhiên là đáng tin lắm chứ.

Vua Di-lan cười liễu ngộ:

- Ồ, rất có lý!

Vua Di-lan rất cảm phục sự đa tài bác học của Na-tiên. Vì thế, họ nghiễm nhiên trở thành đôi bạn chí thân. Cuối cùng vua xin qui y làm đệ tử Na-tiên.

Vào một buổi chiều xuân ấm áp, hoa nở ngát hương, vua lại đến thỉnh giáo Na-tiên. Họ ngồi dưới gốc tùng đàm đạo với nhau rất vui vẻ tâm đầu ý hợp.

Vua hỏi:

- Thưa tôn giả, trẫm luôn thắc mắc không hiểu vì sao cũng là người mà có kẻ sống lâu, người chết yểu; kẻ đẹp, người xấu; kẻ giàu, người nghèo; kẻ thông minh, người ngu dốt?

- Tâu đại vương! Có gì lạ đâu. Ngài xem cũng là nho nhưng lại có trái ngọt, trái chua, trái to, trái nhỏ, trái tròn, trái méo, trái đen, trái hồng, nguyên nhân là do hạt giống khác nhau. Cũng vậy, con người vì chỗ tạo nghiệp lành dữ sai khác nên quả báo chiêu cảm không giống nhau.

- Tôn giả nói chí lý, khúc mắc của trẫm tợ mây đen được gió cuốn trôi không còn lưu dấu. - Vua Di-lan vội rời tọa sụp lạy để tỏ niềm tôn kính.

Nội dung đàm luận Phật pháp giữa Na-tiên và vua Di-lan được người đời sau kết tập, viết thành quyển kinh gọi là "kinh Na-tiên tỳ-kheo". Ðây là vị La-hán duy nhất trong mười tám vị La-hán có kinh sách lưu truyền đến đời sau.

Nhờ sự chỉ dạy của Na-tiên mà cuối cùng vua Di-lan trở thành một quân vương anh minh, dốc lòng ủng hộ Phật pháp, khiến Phật giáo ngày càng huy hoàng rực rỡ.

Một hôm, Na-tiên nói với vua:

- Ðại vương! Nay tôi muốn đi.

- Dạ đi đâu?

- Tôi muốn đến núi Bán-độ-ba.

- Sao ngài muốn đến đó?

- Khi đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài dạy tôi phải đến đó.

- Khi nào ngài đi?

- Bây giờ.

- Bây giờ ư ?

- Ðúng vậy!

Nói xong, Na-tiên nhảy lên một ngọn núi cao rồi bay về hướng núi Bán-độ-ba.
 
Chỉnh sửa cuối:

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
Tôn giả Na Tiên còn để lại 1 bộ kinh vô cùng quý báu đối với các Phật tử thời nay.
http://www.budsas.org/uni/u-natien/natien00.htm

Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
Cao Hữu Ðính dịch Việt
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là một bộ kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy. Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không đáng được có một địa vị Tam Tạng Thánh Giáo.

Ðặc sắc của kinh này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Ðặc tánh của nó là chính ở những ví dụ rất khế lý và khế cơ mà Ngài Na Tiên đã khéo sử dụng để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do ngài sáng chế để đóng góp vào chánh pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.

Kinh này xuất hiện vào thời kỳ nào? Căn cứ vào tiểu sử vua Di Lan Ðà, người mà Na Tiên đã đối thoại và trực tiếp giáo hóa, thì Na Tiên sống vào tiền bán thế kỷ II trước Tây lịch. Cuộc đối thoại về giáo lý giữa Thầy (Na Tiên) và trò (Di Lan Ðà), nếu xét sâu vào nội dung thì thấy quả thật là thú vị và hấp dẫn. Vì vậy, nội dung đối thoại nầy bấy giờ được truyền tụng, được các giới Phật Tử tôn thờ gần ngang hàng với các kinh do kim khẩu Phật nói ra. Cũng nên biết rằng, đặc biệt với Phật Giáo Miến Ðiện, kinh này được nhiếp thâu vào Tiểu Bộ Kinh tức bộ thứ năm trong Ngũ Bộ Kinh của Giáo điển Nguyên Thủy. Vậy niên đại xuất hiện của kinh nầy, sớm nhất là vào khoảng thế kỷ I trước Tây lịch. Và nơi chốn xuất hiện lần đầu tiên hẳn phải là miền Tây Bắc Ấn Ðộ, trên lưu vực Ngũ Hà, nơi đã xảy ra cuộc đối thoại ấy.

Vì nội dung kinh này là một lợi khí truyền bá Phật giáo rất mạnh, nên không bao lâu sau, lan rất nhanh sang lưu vực sông Hằng rồi từ đấy tràn lan khắp Ấn Ðộ, cho đến Tích Lan. Do đó mà tuy nội dung vốn một nhưng kỹ thuật kiết tập thì lại mỗi địa phương một khác. Các bản kiết tập tại lưu vực sông Hằng về sau thành kinh Milindapanhà (Di Lan Ðà vấn kinh), được truyền bá sang Tích Lan và các nước Nam Phương Phật giáo. Các bản kiét tập tại Tây Bắc Ấn Ðộ thì được truyền bá lên Trung Á rồi sang Trung Hoa và Tây Tạng, mệnh danh là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh.

Riêng Na Tiên Tỳ Kheo Kinh truyền qua Trung Hoa cũng đã có ba bản dịch khác nhau. Cả ba bản đều mất tên người dịch nên không rõ là đã dịch vào thời đại nào. Chỉ thấy Ðại Tạng ghi là "Phụ Ðông Tấn Lục". Văn dịch rất xưa và hơi tối nghĩa. Căn cứ vào đó, ta có thể suy đoán rằng các bản dịch nầy có lẽ đã được thực hiện vào khoảng đời Tam Quốc hay đời Tây Tấn, nghĩa là khi Phật Giáo mới du nhập Trung Hoa.

Hiện trong Ðại Tạng chỉ thấy có hai bản, ghi số 1670 A va 1670 B. Bản 1670 A phóng theo các bản in đời Tống, đời Nguyên mà hiệu đính lại. Bản 1067 B căn cứ vào bản in đời Minh nhưng cũng có đối chiếu với hai bản đời Tống và đời Nguyên mà hiệu đính. tuy đã có hiệu đính rồi mà cả hai bản vẫn còn tối nghĩa.

Nay nhân đạo hữu Cao Hữu Ðính phụ trách dạy kinh này tại Phật Học Viện Nha Trang, đạo hữu bèn gia công sưu khảo nghiên cứu, nhằm mục đích làm sáng tỏ thêm nghĩa kinh. Ông căn cứ vào cả hai bản nhất là bản 1670 B rồi tham khảo với Kinh Milindapanhà của Phật giáo Nam Phương và bản dịch Pháp văn kinh này, soạn thành bài học dạy cho Học Tăng ở Phật Học Viện, Trung Phần tại Nha Trang do tôi điều khiển.

Xét thấy phần đầu, tức duyên khởi của kinh Milindapanhà và của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hai bên không giống nhau nên đạo hữu đã cho lướt qua, đợi tham cứu sau. Thay vào đó, ông viết một "Lời Nói Ðầu" ghi lại tiểu sử vua Di Lan Ðà và ngài Na Tiên, cùng là bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Nội dung đối thoại thì giữ lại trọn vẹn và gắng diễn dịch thế nào trung thành với ý kinh. Trong trường hợp gặp những danh từ mà nay đã biến nghĩa, đạo hữu đã tùy nghi châm chế cải đổi chút đỉnh, để độc giả dễ dàng lãnh hội ý chính.

Ðọc hết loại bài của đạo hữu biên soạn, tôi lấy làm vừa ý, nên vội cho xuất bản, hầu mong cung cấp món ăn giáo lý cần thiết cho Phật tử bốn phương.

Vậy, xin có mấy lời giới thiệu với chư Phật tử và thiện hữu tri thức hằng lưu tâm đến tiền đồ Phật giáo nước nhà...
Thật là may mắn khi nghe ngài Na Tiên nói
"
- Này đại vương! Giả sử có người lấy một viên đá ném xuống nước, viên đá sẽ nổi hay chìm?

- Ðương nhiên sẽ chìm!

- Còn nếu đem viên đá thả trong thuyền thì đá nổi hay chìm?

- Vậy thì sẽ không chìm.

- Vì sao không chìm?

- Vì đã có thuyền chở!

- Thế thì đúng rồi, đức Phật A Di Ðà từng phát đại nguyện làm thuyền từ cứu độ chúng sanh. Do đó, nếu chúng ta nhứt tâm niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc không còn bị trầm luân trong biển khổ..."


Các vị có thể nghiên cứu trong đây
https://thuvienhoasen.org/images/file/UF8cdp1G0QgQAHpv/kinh-ty-kheo-na-tien-doan-trung-con-nguyen-minh-tien-dich.pdf
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
13. NHÂN-YẾT-ÐÀ






Tôn giả Nhân-yết-đà là vị La-hán thứ mười ba trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng một ngàn ba trăm vị đệ tử trú trong núi Quảng Hiếp.
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà – Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.

Tiền kiếp ngài là một con dơi sống trong hang núi.Một hôm, có đoàn lái buôn đi ngang qua núi, vì bên ngoài gió rét gào thét, tuyết bay đầy trời nên họ vào hang nhen lửa sưởi ấm.

Trong đoàn buôn này có một người thâm tín Phật pháp, dù ở trong hang núi nhưng vẫn gõ mõ tụng kinh, niệm Phật; âm thanh du dương trang nghiêm khiến dơi vô cùng thích thú.

Ðêm càng khuya, khí trời càng lạnh, người lái buôn bỏ thêm nhiều củi vào để đủ ấm. Do đó, thoáng chốc củi khô hết sạch, ông ta đành ra ngoài chặt ít củi tươi mang vào để châm thêm lửa. Vì củi tươi khó cháy nên kết quả bốc lên một đám khói đen ngịt.

Dơi trong hang bị khói xông lên hít thở khó khăn, nhưng vì thích nghe tiếng tụng kinh nên không muốn bay đi. Cuối cùng, do hít quá nhiều khói nên dơi trúng độc chết ngay trong hang.

Sau khi chết, Nhân-yết-đà chuyển kiếp đầu thai làm người, được xuất gia tu hành theo Phật và chứng quả A-la-hán.

Có lần, có một người ở nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng vì chưa từng thấy diện mạo của Bồ-tát nên chần chừ không dám làm.

Một hôm, ông ta lập một hương án trong vườn hoa chí thành cầu nguyện:

- Kính bạch chư hiền thánh! Con nghe nói khi đức Thế Tôn sắp niết-bàn, ngài đã phó chúc cho mười sáu vị La-hán vĩnh viễn lưu lại thế gian hoằng dương Phật pháp, sao giờ đây con muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc mà không có vị nào đến giúp con?

Ông ta vừa nói xong, thì có một vị La-hán xuất hiện nói:

- Ta đến giúp ông đây!

- Thưa, ngài là ai?

- Ta là Nhân-yết-đà có ý đến đưa ông lên cõi trời Ðâu suất để gặp Bồ-tát Di Lặc.

Nhân-yết-đà đưa người này lên cung trời Ðâu Suất để ông ta chiêm ngưỡng pháp tướng trang nghiêm của Bồ-tát, trước sau cả thảy ba lần rồi biến mất.

Tượng Bồ-tát Di Lặc này được bảo tồn tại Ðạt-lệ-la môn nước Ô-trượng-na. Nơi đây, trước kia là thủ đô của cả nước.

Sức ăn của Nhân-yết-đà rất mạnh. Nghe nói mỗi bữa, ngài ăn gấp ba lần voi mà vẫn không no. Khi ngài du hóa đến nước Thấp-di-la, vì không biết ngài là La-hán nên mọi người chế giễu:

- Mỗi ngày chỉ biết ăn, sống vậy có ích gì chứ?

Nghe vậy, ngài nói:

- Này các vị, bởi kiếp trước tôi là một con dơi, kiếp trước nữa là một con voi, ưa ăn, biếng làm, do đó đời này ăn rất nhiều mà cũng không thấy no.

Mọi người cho rằng ngài nói khoác lác nên cười ồ lên:

- Ha ha, chúng tôi không nghe ông bào chữa bậy đâu.

- Nếu các vị không tin thì cứ tự nghiệm đi, Phật pháp không bao giờ dối gạt ai cả. Hy vọng các vị luôn luôn làm một Phật tử chơn chánh.

Nói xong, ngài bay lên không trung dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân; Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống dồn dập. Lúc này, mọi người mới tin ngài là một vị đại A-la-hán.

A-la-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại. Vì vậy, sau đó không lâu mọi người lại thấy ngài ở nước Kiếp-tỷ-tha theo đức Phật lên cung trời Ðao-lợi thuyết pháp cho hoàng hậu Ma-da, ba tháng sau mới trở về.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
14. PHẠT-NA-BÀ-TƯ





Còn gọi Ba Tiêu La Hán
Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư (Vanavàsin).
Ông vốn là một người buôn bán. Ngày ông ra đời trời mưa rất to. Lá cây chuối ở hậu viện bị mưa rơi xuống kêu sột soạt nên mẹ ông đặt ông là Phạt Na Ba Tư (Tiếng Phạn có nghĩa là mưa). Sau này khi ông xuất gia thường hay đứng dưới cây chuối dụng công nên có tên là Ba Tiêu La Hán.
Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn bốn trăm vị đệ tử trú tại núi Khả Trụ.

Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu ở nước Na-yết-la-hạt. Cảm phục ơn đức Phật, yêu long quỳ sát đất cung kính thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Bấy lâu nay con làm sóng, gió gây hại nhân dân, nay nhờ Thế Tôn dạy bảo, con đã tỉnh ngộ. Con xin Thế Tôn lưu lại đây cho con được cúng dường, gần gũi dạy bảo con để con khỏi làm sóng gió gây hại nhân dân nữa.

Ðức Phật dạy:

- Này yêu long! Công việc hoằng pháp lợi sanh của ta còn chưa xong, không thể ở lại lâu được. Thế này vậy, ta sẽ cử năm vị đại A-la-hán thay nhau đến đây nhận đồ cúng dường của ông. Ông thấy thế nào?

Yêu long vui mừng khôn xiết hỏi:

- Dạ, là năm vị nào, thưa Thế Tôn?

- À, là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân Kiệt Ðà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư.

- Dạ, thế thì tốt quá! Cảm ơn đức Thế Tôn.

Thế là năm vị đại A-la-hán này thay nhau đến đó tiếp nhận đồ cúng dường của yêu long và vị thứ năm, Phạt-na-bà-tư, chính là vị mà chúng ta đang nói.

Khi đến tiếp nhận cúng dường của yêu long, Phạt-na-bà-tư thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc thì ngồi cả nửa tháng. Mãi đến nay, những di tích đó vẫn còn được lưu giữ.

Lúc đức Thế Tôn sắp niết-bàn, Ngài phó chúc cho Phạt-na-bà-tư:

- Này Phạt-na-bà-tư! Sau khi ta diệt độ bốn trăm năm, tại nước Na-kiện-đà-la sẽ xuất hiện một vị vua tên Ca-nị-sắc-ca. Ban đầu, ông ta không tin Phật pháp, do đó ông phải dốc sức hóa độ để ông ta trở thành vị quân vương anh minh hộ trì Phật pháp.

Quả nhiên, đến công nguyên năm 128, vua Ca-nị-sắc-ca ra đời. Ông ta không chút tin Phật, làm nhiều việc sai trái phá hoại Phật giáo.

Một hôm, vua ra ngoài săn bắn, vì mãi lo đuổi bắt một con thỏ nên bị lạc đường. Trong rừng cây hoang vắng, lúc đang tìm lối ra, vua thấy một mục đồng đang dùng bùn nắn tháp Phật.

Vua hỏi:

- Ngươi đang làm gì vậy?

Mục đồng đáp:

- Tôi đang thay vua làm tháp Phật.

Vua giật mình kinh sợ:

- Sao, thay ta làm tháp Phật ư ?

- Ðúng vậy! Trước kia đức Thế Tôn từng nói bốn trăm năm sau vua sẽ xây tháp Phật ở đây. Hôm nay là lúc ngài tới nên tôi đến đây đợi ngài.

- Thật sao? Vậy ngươi là ai?

- Tôi chính là Phạt-na-bà-tư, đại đệ tử của Phật. Tôi đã đợi ngài đã bốn trăm năm nay, con thỏ trắng vừa rồi là do tôi biến ra đó.

Nói xong, mục đồng biến mất.

Từ đó, vua Ca-nị-sắc-ca chí thành tin Phật. Trong thời gian tại vị, vua tôn tạo rất nhiều tự viện, tháp Phật, tượng Phật, là một đại quân vương hoằng dương Phật pháp. Có được như thế không thể không kể đến thâm ơn giáo hóa của Phạt-na-bà-tư.
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
15. A-THỊ-ÐA




Trường Mi La Hán.
Tên của Ngài là A-thị-đa (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
Tôn giả A-thị-đa là vị La-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang trú trong núi Thứu Phong ở Ấn Ðộ. Núi Thứu Phong còn gọi là núi Linh Thứu, nơi đức Phật thường giảng kinh.

A-thị-đa là vị thị giả thường theo hầu bên cạnh đức Phật. Mọi người thường hiểu nhầm cho rằng ngài chính là Bồ-tát A-dật-đa. Thật ra không phải, A-dật-đa là Bồ-tát Di Lặc hay còn gọi là Bố Ðại hòa thượng, hai vị này khác nhau chỉ một chữ.

Ấn Ðộ thời đó, có một nước tên Ðạt-ma-tất-thiết-đế nằm giáp sông Phược-sô [1] thủ đô là Hôn-đà-la. Nhân dân nước này không tin Phật pháp, họ chỉ thờ một số quỷ thần sông núi.

Có lần, thái tử mà vua yêu quí nhất ngã bệnh rất nặng. Vua cho mời danh y khắp nước về chữa trị mà cũng không thấy thuyên giảm. Do đó, vua đi thỉnh giáo những vị tu hành ngoại đạo và được họ trả lời: "Ðại vương! Xin ngài chớ lo, bệnh của thái tử không cần uống thuốc, sớm muộn gì cũng sẽ khỏi thôi".

Khi ấy, A-thị-đa vừa du hóa đến nước này. Ngài đã chứng quả từ mấy năm trước.

Một hôm, giữa đường đi, ngài gặp vua với vẻ mặt lo âu đang hối hả ra ngoài tìm thuốc cho thái tử. Thấy vậy, ngài hỏi:

- Thưa đại vương! Tôi là đệ tử của đức Như lai tên là A-thị-đa. Ngài có gì muốn hỏi tôi không?

- Ðệ tử Như lai? Tôi chưa từng nghe cũng không cần sự giúp đỡ của ông. - Vì trong lòng không vui, bình thường lại không tin Phật nên quốc vương lạnh nhạt đáp.

A-thị-đa khuyên:

- Thật không có chuyện gì sao? Xin ngài nói đi, chớ khách khí làm gì!

Quốc vương vốn đã thấy khó chịu, song nghĩ lại thôi cứ hỏi thử xem bệnh của con mình có thể qua khỏi không:

- Ông xem bệnh con ta có qua khỏi không?

A-thị-đa ưu tư nói:

- À, bệnh của thái tử hết hy vọng rồi, hãy mau niệm Phật cầu vãng sanh đi!

- Hứ, tên Hòa thượng điên này chưa súc miệng hay sao mà nói những lời không tốt như vậy hả! - Quốc vương tức giận bỏ đi thẳng một mạch.

Một tuần sau, thái tử chết thật. Vua tạm thời không tổ chức tang lễ, cả tin thái tử mất cũng không tiết lộ ra ngoài.

Ngày thứ hai, vua đi tìm A-thị-đa. Thấy vua, A-thị-đa nói với giọng cảm thông:

- Ðại vương, xin chớ quá bi thương.

Quốc vương giả vờ không biết.

- Ta bi thương chuyện gì?

- Ðại vương chớ giấu, hôm qua thái tử đã mất, người mất thì không thể sống lại chỉ nên thường xuyên niệm Phật để cầu được vãng sanh!

- Ôi, Ngài thật là thần cơ diệu toán! - Quốc vương cảm phục A-thị-đa đã biết trước mọi việc.

Sau đó, vua tức tốc đi tìm bọn ngoại đạo. Thấy vua đến, bọn chúng chúc mừng:

- Chúc mừng, chúc mừng đại vương!

- Chúc mừng ta chuyện gì?

- Ðại vương không cần nói chúng tôi cũng đã biết rồi.

- Biết gì?

- Biết bệnh của thái tử đã khỏi!

- Hứ, bọn ngoại đạo đáng ghét, bản thân bất tài vô học, lại chuyên môn đi buôn thần bán thánh, gạt dân hại người.

Càng nói vua càng tức giận liền hạ lệnh:

- Bắt hết bọn chúng, rồi phá sạch tất cả thần miếu của chúng cho ta.

Xong chuyện, vua vội quay về chỗ ngài A-thị-đa xin sám hối.

- Thưa tôn giả, bậc Sa-môn đáng kính! Ngài mới là vị đạo sư mà trẫm cần quy ngưỡng, tôn kính, thỉnh giáo, lễ bái.

Nhờ những khởi xướng hoằng dương Phật pháp của A-thị-đa mà Phật giáo được thịnh hành ở nước Ðạt-ma-tất-thiết-đế.

Ðã hơn hai ngàn năm rồi nhưng tại Ấn Ðộ vẫn còn có người nhìn thấy Tôn giả trị bệnh cho mọi người, có người thấy ngài tọa thiền trên núi Thánh Mẫu.

Sông Phược Sô: Một trong bốn con sông lớn xuất phát từ hồ A Nậu Ðạt phía bắc núi Tuyết và phía nam núi Hương Túy.
 
Chỉnh sửa cuối:

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
16. CHÚ-TRÀ-BÁN-THÁC-CA





Còn gọi Khán Môn La Hán
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc (Cullapatka).

Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Tôn giả Chú-trà-bán-thác-ca là vị La-hán cuối cùng trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng một ngàn sáu trăm vị đệ tử trú tại núi Trì Trục. Tên vị La-hán này rất lạ bởi dịch tiếng Hán là Lộ Biên Sanh (sanh bên đường). Trong kinh A Di Ðà tên ngài là Châu-lợi-bàn-đà-già. Ðây chỉ do dịch âm không đồng mà thôi. Vì tên này tương đối quen thuộc với mọi người hơn nên chúng ta gọi ngài là Châu-lợi-bàn-đà-già.

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, theo phong tục Ấn Ðộ đương thời, người phụ nữ mang thai sắp đến ngày "mãn nguyệt khai hoa" đều phải về lại nhà mẹ mình để sanh. Có một sự trùng hợp đặc biệt là Châu-lợi-bàn-đà-già và anh ngài đều sanh giữa đường lúc mẹ chưa kịp về đến nhà ngoại. Do đó, người đời sau gọi ngài là Tiểu Lộ Biên Sanh (sanh bên đường nhỏ) và gọi anh Ngài là Ðại Lộ Biên Sanh (sanh bên đường lớn).

Anh Ngài tên Bán-thác-ca tư chất thông minh, xuất gia theo Phật rất sớm, đạt nhiều thành tựu trong tu tập. Lớn lên, ngài cũng theo anh xuất gia. Mặc dù đã xuất gia nhưng ngài tối dạ không ai bằng, trí nhớ kém, thường mặc đồ trái, mang dép trái, sư phụ bảo đi lấy kinh thì ngài lại đi lấy mõ.

- Ðồ ngốc!

- Ðồ ngu! - Ngài thường bị chúng điệu mắng.

Bán-thác-ca thấy em mình ngu như thế, trong lòng rất cảm thông muốn giúp đỡ nhưng cũng không biết làm cách nào hơn.

Nhiều năm trôi qua vậy mà chỉ một danh hiệu Phật, ngài niệm không xong, một câu kinh cũng nhớ không nổi. Thậm chí khi đại chúng ngồi thiền, cả đến ngồi xếp bằng, ngài làm cũng không được.

Một hôm, Bán-thác-ca chịu không được nữa bảo:

- Em à! Em quả thật quá ngu. Tu tập ngoài ý chí nghị lực còn cần có trí tuệ thông minh mẫn tiệp. Em đã khờ khạo thế này thì dứt khoát nên về nhà cuốc đất làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm đi, chứ theo Phật mà như thế này chỉ uổng phí công phu, sẽ không có kết quả.

- Thưa anh, em không muốn xa đức Thế Tôn, em cũng không muốn xa anh, xin cho em tiếp tục ở đây đi. - Châu-lợi-bàn-đà-già khẩn khoản xin.

- Không được! Em ở đây chỉ gây nhiều phiền phức cho mọi người. Em không biết tụng kinh, không biết tọa thiền, không biết niệm Phật, em nên về nhà đi! - Bán-thác-ca vẫn không đồng ý.

Thấy anh kiên quyết không chấp thuận, ngài vô cùng đau khổ. Tuy không muốn về nhưng lại không dám trái lời anh nên ngài đành phải thu dọn đồ đạc rời vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc, nơi chúng Tăng ở và cũng là nơi đức Phật thường giảng kinh thuyết pháp.

Rời khỏi vườn, Châu-lợi-bàn-đà-già vừa đi vừa khóc. Khóc xong, ngài đến ngồi dưới gốc cây Bồ-đề suy tư tự hỏi:

- Sao mình lại ngu thế này? Sao mình không thông minh như anh nhỉ? Mình không nên xa đức Thế Tôn, mình không nên về nhà. - Nghĩ đến cảnh bị đuổi về, ngài tủi thân òa khóc sướt mướt.

Sự tình lúc đó may sao gặp đức Phật ra ngoài vừa về. Nghe trong rừng có người đang khóc, ngài bảo một vị đệ tử đến đó xem thử là ai.

- Bạch đức Thế Tôn! Người đang khóc là Châu-lợi-bàn-đà-già.

- Ðến gọi ông ấy tới đây. - Ðức Phật ôn tồn bảo.

Châu-lợi-bàn-đà-già đến bên Phật như đứa trẻ thơ được về bên cha. Khi ấy, những uẩn khúc trong lòng chợt hiện lên, ngài lại khóc nức nở.

- Có chuyện gì buồn vậy? Nói cho ta nghe được không? - Ðức Phật hỏi.

- Dạ, bạch Thế Tôn! Anh con đuổi con về, không cho con ở đây tu học nữa... - Châu-lợi-bàn-đà-già vừa nói vừa khóc.

- Sao vậy?

- Dạ vì con quá ngu, ngay cả áo mặc cũng không nên, một câu kinh cũng thuộc không nổi. - Châu-lợi-bàn-đà-già u buồn thưa.

- À, ra là vậy. - Ðức Phật cười rồi an ủi:

- Châu-lợi-bàn-đà-già này! Thật ra ông đâu có ngu chút nào đâu!

- Dạ, thật sao? - Nghe đức Phật nói mình không ngu, Châu-lợi-bàn-đà-già thấy vui hẳn lên.

- Ðương nhiên là thật rồi. - Ðức Phật nói nghiêm nghị, nét mặt không chút trêu đùa khiến Châu-lợi-bàn-đà-già thấy rất an ủi.

Ðức Phật từ ái nói tiếp:

- Vậy là được rồi. Này Châu-lợi-bàn-đà-già! Tạm thời ông cứ ở lại đây, sau này ta sẽ đích thân đến dạy ông tu tập!

- Cảm ơn đức Thế Tôn! Cảm ơn đức Thế Tôn! - Châu-lợi-bàn-đà-già vội sụp lạy đức Phật, bày tỏ niềm biết ơn vô hạn.

Ngày đầu đến dạy, đức Phật cầm theo một cây chổi, hỏi Châu-lợi-bàn-đà-già:

- Này Châu-lợi-bàn-đà-già, ông biết đây là cái gì không?

- Dạ đây là... là... - Không ngờ ngay cả chổi mà ngài nói cũng không ra, còn luống cuống đến toát mồ hôi trán.

- Ðừng vội, Châu-lợi-bàn-đà-già, đây là cây chổi, ông nói lại xem thử được không? - Ðức Phật an ủi.

- Cây... cây...- Châu-lợi-bàn-đà-già chỉ đọc được chữ đầu.

- Cây chổi!- Ðức Phật nhắc lại.

- Là... chổi... chổi...- Lần này thì ngài lại quên chữ đầu.

- Ðừng hấp tấp, ghép hai chữ cây và chổi lại rồi đọc cây chổi, cây chổi, ông đọc thử xem.

- Cây... chổi... cây... chổi, cây chổi cây chổi.

- Ðúng rồi, ông đọc đúng rồi, sau này phải nhớ đây là cây chổi. - Ðức Phật thấy mừng cho Châu-lợi-bàn-đà-già.

Khích lệ ngài mấy câu xong, đức Phật hỏi tiếp:

- Cây chổi dùng làm gì ông biết không?

- Dạ dùng để quét rác! - Châu-lợi-bàn-đà-già cẩn thận đáp nhưng tiếng rất nhỏ vì ngài sợ sai.

- Hay lắm, Châu-lợi-bàn-đà-già! Ta đã nói là ông chẳng hề ngu chút nào mà! Sau này, ông khỏi phải tụng kinh, ngồi thiền, mỗi ngày chỉ cần cầm chổi quét vườn cho sạch là được rồi. Ðức Phật tấm tắc khen và giao công tác cho ngài.

Nghe đức Thế Tôn khen, còn nói mình không ngu, Châu-lợi-bàn-đà-già vui mừng khôn xiết, tín tâm đã mất cũng được khôi phục lại.

Trước kia, Bán-thác-ca tuy thường đích thân dạy ngài nhưng nội dung giảng quá cao siêu phức tạp, nghĩa lý lại thâm áo, do đó, ngài nghe không hiểu, dù có tâm tha thiết muốn học đi nữa cũng không thể nào học vô. Còn lần này, đức Phật đích thân đến dạy, ngài chỉ yêu cầu nhớ hai chữ "cây chổi" và hiểu công dụng của nó dùng để quét rác là được rồi.

- Thì ra cầu học đâu có khó! - Châu-lợi-bàn-đà-già tự nhủ.

Lần thứ hai vào học, đức Phật hỏi lại:

- Này Châu-lợi-bàn-đà-già, dùng chổi có thể quét sạch rác được không?

- Dạ được, bạch Thế Tôn. Châu-lợi-bàn-đà-già trả lời rất chắc chắn vì công việc mỗi ngày của ngài làm là quét dọn.

- Châu-lợi-bàn-đà-già này! Ông có biết trong tâm chúng ta cũng có rất nhiều thứ cấu bẩn không? - Ðức Phật hỏi.

- Thứ gì nhỉ?- Châu-lợi-bàn-đà-già không rõ, ngài nghĩ đi nghĩ lại, một lát sau mới nói:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có phải tham, sân, si, mạn, nghi, phẫn hận, tật đố... khiến tâm chúng ta bất an không?

- Ðúng rồi! Ông trả lời rất tốt, những thứ đó giống như bụi trần làm ô nhiễm bản tâm vốn thanh tịnh sáng suốt của chúng ta. - Ðức Phật kiên nhẫn giảng dạy.

- Dạ, sao không trừ bỏ chúng? Châu-lợi-bàn-đà-già hỏi.

Ðức Phật dạy:

- Mục đích của ta chính là muốn dạy ông phương pháp trừ bỏ chúng. Này Châu-lợi-bàn-đà-già! Dùng chổi có thể quét sạch những thứ cấu bẩn trên đất, cũng vậy, nếu như ông biết dùng "cây chổi Phật pháp" để quét sạch những uế trược trong tâm thì một ngày kia tâm ông cũng sẽ sáng suốt thanh tịnh như gương sáng.

Biện tài của đức Phật thật hiếm thấy ở đời, ví dụ ngài nêu vừa rõ ràng đơn giản vừa thiết thực gần gũi với cuộc sống nên người khác nghe rất dễ hiểu.

- À, bạch đức Thế Tôn! Con hiểu ý Ngài rồi, có phải Ngài muốn dạy con trong công việc quét dọn không nên chỉ quét rác suông mà phải luôn chánh niệm tỉnh giác tịnh hóa nội tâm nữa phải không?

Sau khi được đức Phật tận tình chỉ dạy, thoáng chốc Châu-lợi-bàn-đà-già thông minh hẳn lên.

- Ðúng vậy, Châu-lợi-bàn-đà-già! Ðó chính là lý do ta bảo ông quét rác, chỉ cần ông kiên tâm trì chí, dụng tâm nỗ lực tinh tấn thì có ngày ông sẽ ngẩng đầu lên theo kịp với chúng bạn, không còn bị người khác chê cười khinh khi. - Ðức Phật tiếp tục khích lệ.

Từ đó, Châu-lợi-bàn-đà-già dốc sức chuyên tâm tu tập theo pháp môn quét rác - quét vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc. Bất kể gió mưa nóng lạnh, ngày nào ngài cũng làm việc rất siêng năng. Thật là ông trời không phụ người khổ công, cuối cùng ngài cũng chứng quả A-la-hán. Câu chuyện của Tôn giả Châu-lợi-bàn-đà-già chứng tỏ câu "cần cù bù thông minh" thật chẳng ngoa chút nào.

Vốn là một người ngu đần ngốc nghếch ai trông cũng thấy chán, ngay cả cây chổi cũng không biết. Thế mà dưới sự chỉ dạy của đức Phật, dựa vào ý chí nghị lực và lòng kiên trì, Tôn giả đã khắc phục cái ngu bẩm sinh, trở thành vị đại đệ tử, được đức Phật chọn vào trong số mười sáu vị La-hán lưu lại thế gian hoằng dương Phật pháp.
Bàn Thêm
Ngài CHÂU LỢI BÀN ĐÀ là tấm gương sáng cho đời sau nương vào mà tu hành ở thời nay. Nguyên nhân chúng ta tuệ mỏng chướng dày, các trần cấu lôi cuốn bởi vô vàn hình thức. + với công việc cực kỳ bận rộn, không có nhiều thơi gian để nhớ nghĩ tới hành trì Phật Pháp.
Ngài Cullapatka đã chỉ niệm 1 câu mà đắc quả , thì chúng ta nên noi gương ngài mà niệm Phật.
Hi vọng có ngày sẽ được khai ngộ.

Nam Mô A DI ĐÀ Phật!
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,206 Mã lực
Em lại tiếp tục con đường của mình. A Di Đà Phật
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo


http://www.tinhthuc.net/2012/01/kinh-na-tien-ty-kheo.html

Na Tiên Tỳ kheo Kinh là một bộ Kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy

Bên cạnh đó những ví dụ rất linh động trong Kinh đã đóng góp phần không nhỏ vào chính pháp và thúc đẩy bánh xe Chính Pháp chuyển mau thêm cũng là nét đặc sắc của Bộ Kinh này. (*)
QUOTE="Hồng Ca, post: 61159266, member: 644805"]
:) thực tế thì quan điểm của Phật giáo về thế giới này đúng hay sai cũng ko dễ mà chứng minh được, cái thực chứng của Phật Giáo hoàn toàn mang tính kinh nghiệm của cá nhân và cũng không chắc chắn đấy có phải là bản lai diện mục của thế gian hay chỉ là trạng thái tâm lý khác lạ của con người mà thôi. Phật giáo cũng chỉ là một tôn giáo như các tôn giáo khác của con người, hơn nữa cũng chịu ảnh hưởng lớn của các tôn giáo lâu đời hơn ở Ấn Độ và tư tưởng của bộ kinh vĩ đại Áo Nghĩa Thư, vì vậy không thể lấy quan điểm Phật Giáo làm tiêu chuẩn để đánh giá đúng sai. Quan điểm dân gian của Việt Nam không hề có nói đến ma bị chết, đấy là của Tàu, trong Liêu trai thì ma chết biến thành mị, định nghĩa về Linh hồn cũng có nhiều chứ không chỉ duy nhất theo cách của Kito giáo. Dòng Nghiệp thức như một mạng lưới nhỏ đan bằng các thức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành với nút giao là giọt sương A Lại Da Thức, mạng lưới nhỏ ấy nằm trong một mạng lưới vô cùng tận của hằng hà sa số thế giới, mỗi rung động của Sắc, Thọ, Hành, Tưởng theo nghiệp và cộng nghiệp sẽ đưa giọt sương A Lại Da Thức vào một trong 6 cách rung động (6 nẻo luân hồi), cái A Lại Da Thức ấy cũng có thể coi là "Linh hồn". Khi Sắc, Thọ, Hành, Tưởng đứt tung vì hết nghiệp , hạt sương A Lại Da Thức bốc hơi lên hòa nhập với biển mây trắng chân như, ở đó nó nhìn xuống thông suốt hết thảy bản lai diện mục của cái mạng lưới luân hồi, nếu muốn nó có thể tự do lựa chọn và rơi xuống mạng lưới như một hạt sương có chủ đích, không phải do nghiệp dẫn dắt, khi đó gọi là Bồ Tát :).
[/QUOTE
Cái tôi viết ra là đưa ra các quan điểm nhìn nhận khách quan của tôi, không áp đặt nhé
Cái tôi viết ra, là thông kê có kiểm chứng của những tôn giáo lớn. ( ít nhất là 4 tôn giáo đứng đầu thế giới, với lượng giáo đồ chiếm phần lớn dân sô thế giới) có quan điểm như vậy.
Với 3 tôn giáo đứng đầu TG, thì cho rằng con người sau khi chết có linh hồn và về với đáng sáng thế, hoặc hầu hạ đấng sáng thế.
Với PG tôn giáo đứng thứ 4 TG, thì sau khi chết vẵn tái sinh, chết chỉ đổi thân. Cá biệt. ai tu chứng thì thoát khỏi Luân Hồi( có thể không cần đợi đến thân 4 đại tan rã họ vẫn thoát khỏi Luân hồi ngay khi đang sống)
Quan điểm của cụ về các tôn giáo trên là không đúng? nên cụ viết "đúng hay sai cũng ko dễ mà chứng minh"? Nếu vậy cụ là vô thần. mà vô thần thì cụ đúng tất. tôi không còn gì để bàn với cụ
Cụ " đứng ở đâu" trong thế giới tâm linh? Hưu thần hay vô thần?
Còn nếu cụ cho rằng tín ngưỡng dân gian VN đúng, thì cụ cứ nêu quan điểm
1/ "Quan điểm dân gian VN". là quan điểm gì? Nếu là quan điểm về tín ngưỡng của dân gian VN, đề nghị cụ cũng cấp quan điểm này để phân biệt rõ. cụ đúc rút ra được thì tốt. chứ QDTN của dân gian VN tôi thấy nó hổ lốn trăm dòng, các tư tưởng chống trái nhau, mạnh ai nấy chạy. ( ví dụ khái niệm "ma", khác hoàn toàn với "Ma" của TQ và "Ma" trong PG...)
Nếu cụ không dưa ra được quan điểm thống nhất của tín ngưỡng dân gian VN và giải thích rõ, thì mảng này cụ cũng nói chơi. và tôi cũng dừng ở đây với cụ
2/ Nếu cụ muốn chia sẻ học thuật bàn về tôn giáo. Tôi chỉ ra vài điểm
- Phật giáo = Ấn giáo?( Liệu PG có giống Ấn giáo)
+ Ấn giáo với bộ kinh Áo Nghĩa Thư (ANT), là đúc rút từ tất cả các nền minh triết của các tôn giáo trên lục địa Ấn cổ. Nhưng ANT lại vẫn phân chia giai cấp. ANT vẫn có thần chủ. ANT bắt con người phải nô lệ cho dẳng cấp, cho thần quyền, Nên mấu chôt luân hồi trong ANT là quá trình về với Đại ngã.( lưu ý ANT Phải sau khi con người chết, mới về với đại ngã) Áo nghĩa thư vĩ đại quá
+ Phật giáo. Không chấp nhận thần quyền, Lấy con ngươi làm mốc, con người có thể nỗ lực thay đổi vận mệnh. Không có giai cấp. Thần thánh cũng là 1 chúng sanh đang hưởng phươc của họ đã tạo. Và con người có thể thoát khỏi Luân Hồi, bằng tu tập( Luân Hồi trong PG hoàn toàn khác. Con người vẫn còn đủ thân tứ đại, không cần phải chết mới được vào niết bàn. mà vào được niết bàn ngay cả khi đang sống)
- Qua các điểm trên, cụ lấy đâu ra cái tư tưởng "Phật giáo cũng chỉ là một tôn giáo như các tôn giáo khác của con người, hơn nữa cũng chịu ảnh hưởng lớn của các tôn giáo lâu đời hơn ở Ấn Độ và tư tưởng của bộ kinh vĩ đại Áo Nghĩa Thư," Hay cụ nghe người ta đồn?

3/ Cụ nói là " Dòng Nghiệp thức như một mạng lưới nhỏ đan bằng các thức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành với nút giao là giọt sương A Lại Da Thức"
Qua đây đủ hiểu cụ hiểu sai hoàn toàn về PG. Nên cụ bàn về PG không đúng
Trong PG Dòng Nghiệp thức Nó không đan bằng cái gì cả, Cụ nói nó đan bằng Sắc thọ..., vậy cụ có biết Sắc trong PG nó là cái gì chưa?
Dòng nghiệp thức không bao giờ có Sắc, vì thêm Sắc vào nó không còn gọi là dòng nghiệp thức nữa.
Dòng nghiêp thức chính là = Chủng tử, = Alaida thức. Nên dòng nghiệp thức không thể đan bằng cái gì đó để thành "giọt sương Alaida thức" như cụ lầm tưởng. nên không lạ khi cụ đồng hóa Alại da thức = Linh Hồn
Trích đoan này "cái A Lại Da Thức ấy cũng có thể coi là "Linh hồn". Khi Sắc, Thọ, Hành, Tưởng đứt tung vì hết nghiệp , hạt sương A Lại Da Thức bốc hơi lên hòa nhập với biển mây trắng chân như..."
Đây là cop pate không hiểu gì về PG mới viết như này.
Trong PG khi chặt đứt 1 trong 12 mắt xích nhân duyên thì thoát khỏi Luân Hồi
Khi duyên giả hợp tan rã--> sắc thọ tưởng hành thức tan rã, chỉ còn Alại da thức= chính là Dòng nghiệp thức đi luân hồi.
Nên một khi còn Alạida thức thì vẫn luân hồi.
Bàn về bồ tát
Bồ tát từ bát- thập địa đều hoá thân vào các cõi để hóa độ. Khi họ hóa thân để nhiếp pháp thì không ai biết đó là Bồ tát, nếu ai tự xưng là Bồ tát thì đó là giả.( như vậy Bồ tát hiện hình tướng ở đâu đó thì thân họ vẫn ở niết bàn (hữu dư y), còn cái mà con người nhìn thấy chỉ là hóa thân của họ. Ví như là hình chiếu 4D trong khoa học vậy)
Bồ tát có nhiều cấp từ sơ địa đến thập địa. tương ứng với năng lực và đạo hạnh của họ. Khi đủ duyên, họ có thể nhập thai.
Lưu ý , các vị Bồ tát 10 địa có đủ công hạnh như Phật, có tam minh, nên thông suốt mọi việc trên đời. Do vậy họ biết trước họ sẽ sinh vào đâu.
Sau khi bỏ thân Dòng nghiệp thức theo nghiệp lực của nó để tái sinh,chứ không phải dòng nghiệp thức "có mắt" chọn nơi để đến. Bồ tát đã vào thai Sinh ra và tu lại từ đầu như 1 người thường để thành Phật toàn giác.( như Phật Thích Ca Mâu Ni)
Phật là "người không còn tự ngã" = không còn Alaidathức> < khác với chúng sinh vẫn có Alaida thức
Trên đây là tôi chỉ ra các điểm cụ hiểu sai về các tôn giáo. Cụ có thể tìm trong Kinh Điển của cácTG để chứng minh nếu cụ cho rằng tôi nói sai
Còn cụ có thể tin hay không tin.
ví như người vô thần vậy.
Không có đức tin sao họ vẫn tồn tại , vẫn mạnh khỏe và giàu có? Nếu không dùng luật nhân quả nghiệp báo thì dùng tôn giáo nào đẻ giải thích cho hợp lý đây?
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top