- Biển số
- OF-22710
- Ngày cấp bằng
- 21/10/08
- Số km
- 4,961
- Động cơ
- 635,045 Mã lực
Núi Bình Đỉnh, Động Liên Hoa, Anh em Kim Giác, Ngân Giác.
Kim Ngân vốn là 2 đồng tử coi lò vàng, lò bạc của Thái Thượng Lão Quân. Quán Âm 3 lần nhờ Thái Thượng Lão Quân sai 2 đồng tử xuống thử thách 5 thầy trò. Kim, Ngân có nhiều bảo bối như gươm Thất Tinh, quạt Ba Tiêu, Tịnh Bình, Hồng Hồ Lô, dây Hoàng Kim...
Bình Đỉnh Sơn là gì: Bách Hội là huyệt ở đỉnh đầu, phía trước là Tiền Đỉnh, phía sau là hậu Đỉnh. Bình Đỉnh có nghĩa là ngang giữa 2 đỉnh, tức là ám chỉ Bách Hội - Nê Hoàn Cung.
Động Liên Hoa là gì: luân xa thứ 7, Sahasrara, vị trí ngay trên đỉnh đầu, ứng với huyệt Bách hội, biểu hiện bằng bông sen nghìn cánh màu tím, trắng, vàng.
Thu phục Kim giác, Ngân giác có ý nghĩa gì, tại sao Kim Ngân không chết mà được TTLQ cứu?
Kim dương, Ngân âm tượng trưng cho 2 mạch Nhâm (âm) Đốc (dương). Thu phục Kim Ngân mang ý nghĩa hoàn tất vận chuyển Thần Khí trong cơ thể. Người luyện khí vận Chu Thiên Hỏa Hầu từ mạch Đốc LÊN đến Nê Hoàn, sau đó lại từ Nê Hoàn đưa XUỐNG qua mạch Nhâm thông qua 2 giao điểm:
Cong lưỡi nối huyệt Ngân giao (cuối mạch Đốc, nướu răng trên), Thừa tương (cuối mạch Nhâm, chỗ lõm ở môi dưới).
Nhíu hậu môn nối huyệt Trường Cương (Đốc), Hội Âm (Nhâm)
Vạn Thượng Phụ viết trong quyển Thính Tâm Trai khách vấn: Đạo gia lấy phép Bế Đoài (Khóa Miệng) làm công, lợi răng khép kín (tức là cong lưỡi nối Ngân Giao và Thừa Tương). Cốt để cho 2 mạch Nhâm Đốc giao nhau. Vòng Nhâm Đốc cốt để vận chuyển Âm Dương (Thần, Khí), khi nào Thần Khí hợp nhất, thì là luyện đan đã thành.
Theo luyện nội đan : Tụ khí toàn thân vào Bách hội, tưởng tượng Thiên khí vào Nê hoàn cung nổi lên vòng Vô Vi to bằng hạt đậu xoay tròn theo kim đồng hồ. Đó là “ Phản bổn hoàn nguyên “ (về nguồn).
Kim Ngân mà chết tức là đứt đoạn kinh mạch nên được TTLQ cứu.
Tham khảo thêm về kỳ kinh bát mạch
Kỳ Kinh Bát Mạch: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Kiều, Dương Kiều, Âm Duy, Dương Duy.
Nhâm, Đốc là hai mạch quan trọng trên cơ thể con người (một mạch thâu tóm các kinh dương và một mạch thâu tóm các kinh âm).
Mạch Nhâm là mạch của của các kinh âm, khởi đầu từ huyệt Hội Âm (nơi giao nhau của mạch Nhâm với mạch Đốc), mạch Nhâm đi ngược lên bụng qua giữa vùng mu, giữa bụng, giữa ngực, giữa cổ rồi kết thúc ở huyệt Thừa Tương (chỗ lõm môi dưới). Mạch Đốc thâu tóm tất cả các kinh dương, bắt đầu từ chỗ huyệt Trường Cường chạy ngược lên theo cột sống, qua giữa gáy lên đỉnh đầu rồi vòng xuống giữa mặt và kết thúc ở huyệt Ngân Giao (gần nướu răng trên).
24 Huyệt mạch Nhâm: Hội Âm, Khúc Cốt, Trung Cực, Quan Nguyên,Thạch Môn, Khí Hải, Âm Giao, Thần Khuyết, Thủy Phân, Hạ Hoãn, Kiến Lý, Trung Hoãn, Thượng Hoãn, Cự Khuyết, Cưu Vỹ, Trung Đình, Đàn Trung, Ngọc Đường,Tử Cung, Hoa cái, Triền Cơ, Thiên Đột, Liêm Tuyền, Thừa Tương.
27 Huyệt mạch Đốc: Trường Cương, Yên Du, Dương Quang, Mệnh Môn, Huyền Môn, Huyền Khu, Cân Súc, Chí Dương, Linh Đài, Thần Đạo, Thân Tru, Đào Đạo. Đại Chùy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ, Ngọc Chẩm, Cường Giang, Hậu Đỉnh, Bách Hội, Tiền Đỉnh, Tín Hội, Thượng Tinh, Thần Đình, Tố Giao, Thủy Câu, Đài Đoan, Ngân Giao
Kim Ngân vốn là 2 đồng tử coi lò vàng, lò bạc của Thái Thượng Lão Quân. Quán Âm 3 lần nhờ Thái Thượng Lão Quân sai 2 đồng tử xuống thử thách 5 thầy trò. Kim, Ngân có nhiều bảo bối như gươm Thất Tinh, quạt Ba Tiêu, Tịnh Bình, Hồng Hồ Lô, dây Hoàng Kim...
Bình Đỉnh Sơn là gì: Bách Hội là huyệt ở đỉnh đầu, phía trước là Tiền Đỉnh, phía sau là hậu Đỉnh. Bình Đỉnh có nghĩa là ngang giữa 2 đỉnh, tức là ám chỉ Bách Hội - Nê Hoàn Cung.
Động Liên Hoa là gì: luân xa thứ 7, Sahasrara, vị trí ngay trên đỉnh đầu, ứng với huyệt Bách hội, biểu hiện bằng bông sen nghìn cánh màu tím, trắng, vàng.
Thu phục Kim giác, Ngân giác có ý nghĩa gì, tại sao Kim Ngân không chết mà được TTLQ cứu?
Kim dương, Ngân âm tượng trưng cho 2 mạch Nhâm (âm) Đốc (dương). Thu phục Kim Ngân mang ý nghĩa hoàn tất vận chuyển Thần Khí trong cơ thể. Người luyện khí vận Chu Thiên Hỏa Hầu từ mạch Đốc LÊN đến Nê Hoàn, sau đó lại từ Nê Hoàn đưa XUỐNG qua mạch Nhâm thông qua 2 giao điểm:
Cong lưỡi nối huyệt Ngân giao (cuối mạch Đốc, nướu răng trên), Thừa tương (cuối mạch Nhâm, chỗ lõm ở môi dưới).
Nhíu hậu môn nối huyệt Trường Cương (Đốc), Hội Âm (Nhâm)
Vạn Thượng Phụ viết trong quyển Thính Tâm Trai khách vấn: Đạo gia lấy phép Bế Đoài (Khóa Miệng) làm công, lợi răng khép kín (tức là cong lưỡi nối Ngân Giao và Thừa Tương). Cốt để cho 2 mạch Nhâm Đốc giao nhau. Vòng Nhâm Đốc cốt để vận chuyển Âm Dương (Thần, Khí), khi nào Thần Khí hợp nhất, thì là luyện đan đã thành.
Theo luyện nội đan : Tụ khí toàn thân vào Bách hội, tưởng tượng Thiên khí vào Nê hoàn cung nổi lên vòng Vô Vi to bằng hạt đậu xoay tròn theo kim đồng hồ. Đó là “ Phản bổn hoàn nguyên “ (về nguồn).
Kim Ngân mà chết tức là đứt đoạn kinh mạch nên được TTLQ cứu.
Tham khảo thêm về kỳ kinh bát mạch
Kỳ Kinh Bát Mạch: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Kiều, Dương Kiều, Âm Duy, Dương Duy.
Nhâm, Đốc là hai mạch quan trọng trên cơ thể con người (một mạch thâu tóm các kinh dương và một mạch thâu tóm các kinh âm).
Mạch Nhâm là mạch của của các kinh âm, khởi đầu từ huyệt Hội Âm (nơi giao nhau của mạch Nhâm với mạch Đốc), mạch Nhâm đi ngược lên bụng qua giữa vùng mu, giữa bụng, giữa ngực, giữa cổ rồi kết thúc ở huyệt Thừa Tương (chỗ lõm môi dưới). Mạch Đốc thâu tóm tất cả các kinh dương, bắt đầu từ chỗ huyệt Trường Cường chạy ngược lên theo cột sống, qua giữa gáy lên đỉnh đầu rồi vòng xuống giữa mặt và kết thúc ở huyệt Ngân Giao (gần nướu răng trên).
24 Huyệt mạch Nhâm: Hội Âm, Khúc Cốt, Trung Cực, Quan Nguyên,Thạch Môn, Khí Hải, Âm Giao, Thần Khuyết, Thủy Phân, Hạ Hoãn, Kiến Lý, Trung Hoãn, Thượng Hoãn, Cự Khuyết, Cưu Vỹ, Trung Đình, Đàn Trung, Ngọc Đường,Tử Cung, Hoa cái, Triền Cơ, Thiên Đột, Liêm Tuyền, Thừa Tương.
27 Huyệt mạch Đốc: Trường Cương, Yên Du, Dương Quang, Mệnh Môn, Huyền Môn, Huyền Khu, Cân Súc, Chí Dương, Linh Đài, Thần Đạo, Thân Tru, Đào Đạo. Đại Chùy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ, Ngọc Chẩm, Cường Giang, Hậu Đỉnh, Bách Hội, Tiền Đỉnh, Tín Hội, Thượng Tinh, Thần Đình, Tố Giao, Thủy Câu, Đài Đoan, Ngân Giao
Chỉnh sửa cuối: