- Biển số
- OF-22239
- Ngày cấp bằng
- 10/10/08
- Số km
- 96
- Động cơ
- 496,450 Mã lực
- Nơi ở
- Láng Hạ
- Website
- www.phongthuyankhang.com
Em thấy nhiều cụ nhầm lẫn giữa ngũ hành bản mệnh và Nạp âm ngũ hành,đẫn đến nhầm lẫn về ngũ hành của mình, mà ứng dụng sai. Vậy em xin nói lại cho rõ là có 2 loại Ngũ Hành, các bác cần phân biệt cho rõ. Em coi trọng Ngũ hành của bản mệnh, xét quái mệnh theo 8 cung của Bát quái, mà coi nhẹ Nạp âm Ngũ hành thủ tượng, vốn chỉ có được ứng dụng rộng rãi trong khoa tử vi.
Đây em xin diễn giải cho các cụ 1 chút về Nạp âm ngũ hành thủ tượng nhá, để các cụ hiểu rõ hơn, ko lại bảo em ít học mà nói linh tinh.
Ngũ hành nạp âm: Mỗi một niên giáp gồm có 2 thành tố: thiên can và địa chi. Thiên can gồm Giáp Ất (Mộc), Bính Đinh (Hoả), Mậu Kỷ (Thổ), Canh Tân (Kim), Nhâm Quý (Thuỷ). Địa chi gồm Dần Mão (mộc), Thìn (Thổ), Tỵ Ngọ (Hoả), Mùi (Thổ), Thân Dậu (Kim), Tuất (Thổ), Hợi Tý (Thuỷ). Phối hợp của 10 can và 12 chi thành 60 hoa giáp, từ Giáp Tý đến Quý Hợi là 60 năm.
Sự phối hợp của Thiên can và Địa chi lại ra một ngũ hành mới, gọi là ngũ hành nạp âm. Nguyên lý của ngũ hành nạp âm của cổ nhân vẫn có nhiều điều chưa rõ, chỉ biết là nó được chia theo các cung của nhạc lý cổ (Cung Thương Cốc Chuỷ Vũ), nên gọi là nạp âm. Sự phối hợp này dẫn đến như tuổi 1972 là Nhâm (Thuỷ) Tý (Thuỷ) lại là Mộc, còn 1975 Ất (Mộc) Mão (Mộc) lại là Thuỷ.
Mỗi nạp âm còn có một "tượng" đi theo, như Mộc thì có Bình địa Mộc, Tùng bách Mộc, Tang đố Mộc..., Thuỷ thì có Giản hạ Thuỷ, Đại hải Thuỷ, Trường lưu Thuỷ...
Có người lý luận Sơn đầu Hoả (lửa trên núi) làm sao bị Đại hải Thuỷ (nước biển lớn) khắc được. Hay Kiếm phong Kim (vàng đầu lưỡi kiếm) làm sao bị Tích lịch Hoả (lửa sấm sét) khắc được. Hay lý luận Bình địa Mộc (cây cỏ) là một loại tiểu mộc nên không thể hưởng lợi từ Đại hải Thuỷ. Chưa có một nguyên lý nào ủng hộ những luận điểm này, và về nguyên tắc, không thể lấy tượng (tức là hình thức bề ngoài) để xét cho thể (là chất bên trong), nên đây là cách lý luận thiếu cơ sở.
Ngày nay, Nạp âm ngũ hành được dụng chủ yếu trong tử vi, cũng được các cụ sử dụng để chọn thuận hợp trong hôn nhân, nhưng không có giá trị ứng dụng trong đời sống như chọn màu sắc, phương hướng thuận hợp.
Đây em xin diễn giải cho các cụ 1 chút về Nạp âm ngũ hành thủ tượng nhá, để các cụ hiểu rõ hơn, ko lại bảo em ít học mà nói linh tinh.
Ngũ hành nạp âm: Mỗi một niên giáp gồm có 2 thành tố: thiên can và địa chi. Thiên can gồm Giáp Ất (Mộc), Bính Đinh (Hoả), Mậu Kỷ (Thổ), Canh Tân (Kim), Nhâm Quý (Thuỷ). Địa chi gồm Dần Mão (mộc), Thìn (Thổ), Tỵ Ngọ (Hoả), Mùi (Thổ), Thân Dậu (Kim), Tuất (Thổ), Hợi Tý (Thuỷ). Phối hợp của 10 can và 12 chi thành 60 hoa giáp, từ Giáp Tý đến Quý Hợi là 60 năm.
Sự phối hợp của Thiên can và Địa chi lại ra một ngũ hành mới, gọi là ngũ hành nạp âm. Nguyên lý của ngũ hành nạp âm của cổ nhân vẫn có nhiều điều chưa rõ, chỉ biết là nó được chia theo các cung của nhạc lý cổ (Cung Thương Cốc Chuỷ Vũ), nên gọi là nạp âm. Sự phối hợp này dẫn đến như tuổi 1972 là Nhâm (Thuỷ) Tý (Thuỷ) lại là Mộc, còn 1975 Ất (Mộc) Mão (Mộc) lại là Thuỷ.
Mỗi nạp âm còn có một "tượng" đi theo, như Mộc thì có Bình địa Mộc, Tùng bách Mộc, Tang đố Mộc..., Thuỷ thì có Giản hạ Thuỷ, Đại hải Thuỷ, Trường lưu Thuỷ...
Có người lý luận Sơn đầu Hoả (lửa trên núi) làm sao bị Đại hải Thuỷ (nước biển lớn) khắc được. Hay Kiếm phong Kim (vàng đầu lưỡi kiếm) làm sao bị Tích lịch Hoả (lửa sấm sét) khắc được. Hay lý luận Bình địa Mộc (cây cỏ) là một loại tiểu mộc nên không thể hưởng lợi từ Đại hải Thuỷ. Chưa có một nguyên lý nào ủng hộ những luận điểm này, và về nguyên tắc, không thể lấy tượng (tức là hình thức bề ngoài) để xét cho thể (là chất bên trong), nên đây là cách lý luận thiếu cơ sở.
Ngày nay, Nạp âm ngũ hành được dụng chủ yếu trong tử vi, cũng được các cụ sử dụng để chọn thuận hợp trong hôn nhân, nhưng không có giá trị ứng dụng trong đời sống như chọn màu sắc, phương hướng thuận hợp.