[Funland] Trường Sa - khúc bi tráng 14-3

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ngày 20 tháng 2 năm 1988, các lực lượng đơn vị tàu chiến đấu, vận tải, công binh, bộ binh của Quân chủng vượt qua mọi sự ngăn cản khiêu khích của tàu Trung Quốc nhanh chóng triển khai các hoạt động bảo vệ Trường Sa, đã đóng giữ đảo Đá Lát.
Cũng trong ngày 20 tháng 2, sau khi quan sát thăm dò luồng, tàu 556 tiến vào phía nam đảo Đá Lớn an toàn. Cùng thời gian này, tàu Đại lãnh của công ty trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo tàu HQ-582 và pông-tông Đ02 đi Đá Lớn. Ngày 27 tháng 2, tàu xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 1 tháng 3, pông-tông Đ02 vào đến vị trí phía bắc đảo Đá Lớn. Ngày 21 tháng 2 năm 1988, Cán bộ, chiến sĩ trên pông-tông Đ02 và lực lượng trên tàu LCU đã đến triển khai lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ bảo vệ đảo Đá Lớn.


Ngày 21 tháng 2 năm 1988, Tư lệnh quân chủng ra lệnh cho Vùng III chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên tăng cường; riêng Lữ đoàn 162 và Hải đội tàu tên lửa 131 của Lữ đoàn 172 Vùng I vào tăng cường cho Vùng III từ thường 1 năm 1988, chuyển trạng thái từ thường xuyên lên cao.
Toàn vùng và các lực lượng tàu phóng lôi, tên lùa, tàu quét mìn nhanh chóng thực hiện các biện pháp chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu theo quy dình. Các trạm ra-đa chuyển sang hoạt động quan sát theo phương án tăng cường; các mặt công tác bảo đảm kỹ thuật: hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu được khẩn trương tiến hành.


Sau hai ngày, các tàu được bổ sung đủ định mức cơ bản về đạn, lương thực, thực phẩm và nhiên liệu Công tác bảo đảm kỹ thuật, đã hợp đồng với xưởng 50 và phát huy khả năng sửa chừa của các trạm của vùng, sự giúp đỡ chi viện của chuyên gia Liên Xô nhanh chóng khắc phục, sửa chừa những hư hỏng của các tàu chiến đấu và chuẩn bị vũ khí chiến đấu; đã bảo đảm tốt cho 4 tàu tên lửa 205E, (HQ-358, HQ-359, HQ-360, HQ-A61); 4 tàu phóng lôi 206ME (HQ-331, HQ-333, HQ-334, HQ-335); 2 tàu quét mìn 1265E, 1258E (HQ-861, HQ-816), 2 tàu cá HQ-669, HQ-670 và 2 tàu đổ bộ LCU 455, 458, sẵn sàng làm nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Quân chủng. Các trạm vũ khí 63, 67 chuẩn bị xong 11 quả ngư lôi trong đó có 4 quả nạp dầu T1 và 14 quả tên lửa chờ lệnh nạp khí ô-gơ.


Ngày 26 tháng 2, Trung Quốc chiếm thêm đảo Ga Ven. Ngày 26 tháng 2, Hải Quân Việt Nam đóng giữ đảo Tiên Nữ, và sang ngày 27 tháng 2, ta chốt giữ thêm đảo Tốc Tan.


Ngày 2 tháng 3, ta tổ chức đóng giữ thêm đảo Núi Le bước đầu tạo được thế đứng chân trên các khu vực quan trọng thuộc quần đảo Trường Sa để ngăn chặn được việc mở rộng phạm vi lấn chiếm của các đối phương. Như vậy đến tháng 3 năm 1988, lực lượng Hải quân ta đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông, Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên 16, trong đó gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Trong thời gian đầu tháng 3, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn với ý đồ chiếm giữ 3 đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao.


Ngày 4 tháng 3 năm 1988, Thường vụ **** ủy Quân chủng họp nhận định: Trung Quốc đã cho quân chiếm giữ Chữ Thập, Châu viên, Ga ven, Xu Bi, Huy Gơ. Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của Trung Quốc ra các đảo lân cận. Song đối phương có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và đông kinh tuyến 115 độ. Thường vụ xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để Trung Quốc chiếm giữ sẽ khống chế đường qua lại của ta tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa. Vì vậy, Thường vụ **** ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khẩn trương, bởi trong cùng một lúc hải quân ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện, trang bị của ta cũ, thô sơ, lực lượng hạn chế. Thường vụ **** ủy Quân chủng giao cho Lữ đoàn 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.


Lúc 19h ngày 11 tháng 3, tàu HQ-604 rời cảng ra đảo Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ trong chiến dịch CQ-88.
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ-605 thuộc Lữ 125 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6h ngày 14 tháng 3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu 605 đến Len Đao lúc 5h ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Việt Nam trên đảo Len Đao.Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9h ngày 13 tháng 3, tàu HQ-604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với 2 tàu 505 và 604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trần Đức Thông Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu). Sau khi hai tàu của Việt Nam thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Hải quân Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc đôi bên chỉ cách nhau 500 m.


17h ngày 13 tháng 3, tàu Trung Quốc áp sát tàu 604 và dùng loa gọi sang. Bị uy hiếp, 2 tàu 604 và 505 kiên trì neo giữ quanh đảo. Còn chiến hạm của Trung Quốc cùng 1 hộ vệ hạm, 2 hải vận hạm thay nhau cơ động, chạy quanh đảo Gạc Ma.


Trước tình hình căng thẳng do hải quân Trung Quốc gây ra, lúc 21h ngày 13 tháng 3, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam chỉ thị cho Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho lực lượng công binh khẩn trương dùng xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đảo ngay trong đêm ngày 13 tháng 3. Thực hiện mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng công binh trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma, tiếp đó lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo.


Lúc này, Trung Quốc điều thêm 2 hộ vệ hạm trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ lực lượng đã đến từ trước, yêu cầu phía VN rút khỏi đảo Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định: Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ngày 14 tháng 3, chiến sự diễn ra ác liệt tại khu vực các đảo Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao.


Tại đảo Gạc Ma, vào lúc 7 giờ sáng sớm ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, từ tàu HQ 604 đang thả neo phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3 người gồm thiếu úy Trần Văn Phương cùng hai thủy thủ là Nguyễn Văn Tư và Nguyễn Văn Lanh đang leo lên 4 gành đá cao tìm cách dựng cột cờ thì các chiến hạm Trung Quốc lúc đó đã tới gần đảo. Bốn Tàu chiến Trung Quốc loại trang bị hỏa tiễn bao quanh đảo và hú còi báo động , các thủy thủ của Trung Quốc trông rất dữ tợ, đầu cạo trọc nhảy lên các dàn súng đại liên quay mũi súng chỉa vào lính HQVN . Hai Chiếc Hải Quân Trung Quốc tiến gần sát hơn và chận đường rút lui của hai chiếc HQ605 và HQ505 . Hai chiếc xuồng máy chở 8 lính vũ trang mặc đồ rằn ri của Trung Quốc lao nhanh vào đảo . Thiếu tá Trần Ðức Thông lập tức ra lệnh cho các Thủy Thủ chiếc HQ604 lên đảo ứng chiến, bảo vệ cho thiếu úy Trần Văn Phương và hai thủy thủ không cho đối phương tiến lên. Các thủy thủ thuộc HQVN đã dàn súng chung quanh 4 ghềnh cao để bảo vệ , phòng thủ 4 hướng.


Trung Quốc thả thêm 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Lúc nầy tàu chỉ huy là chiếc HQ604 đã cho phóng loa , nói tiếng TQ với lính vũ trang Trung Quốc đang tràn lên bãi " Đây là đảo chủ quyền của VN, yêu cầu các đồng chí thuộc quân đội Nhân Dân Trung Quốc phải rời đảo" "Các đồng chí đã xâm phạm lãnh thổ VN" . Lời nói từ chiếc HQ604 chưa dứt thì Tàu Hải Quân Trung Quốc chiếc 502 khai hỏa đầu tiên. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy quân trên tàu sử dụng các loại súng AK, RPD, B-40, B-41 đánh trả quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu. Trung quốc thả thêm nhiều Ca Nô loại nhỏ chở hằng trăm lính vũ trang rằn ri khác tràn lên đảo Gạc Ma.Các cây đại liên trên tàu Trung Quốc đã bắn trực xạ vào thủy thủ VN trên đảo, người đứt tay, người đứt đầu, máu văng tung tóe đỏ lòm nước biển. 3 Chiến hạm Trung Quốc còn lại bất ngờ xã hết dàn hỏa tiễn vào 3 tàu chiến của HQVN bốc cháy nghiêng về một bên , các thủy thủ trên tàu hốt hoảng nhảy xuống nước để thoát thân . Lúc nầy hằng trăm lính Trung Quốc trên Đảo Gạc Ma nã súng bắn tỉa từng người của HQVN đang bơi lỏm ngỏm dưới nước . Những tiếng la kinh hoàng , những thân xác bỗng chốc chìm sâu xuống lòng đại dương , máu đỏ nhuộm nước biển lênh láng khắp nơi . Trung Quốc tiếp tục nã pháo, tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Vũ Phi Trừ - thuyền trưởng, Trần Đức Thông - lữ đoàn phó Lữ đoàn 146 hy sinh, Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương bị bắn tử thương, trước khi chết anh đã hô: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân".
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Tại đảo Cô Lin, 6h, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm hai lá cờ trên đảo. Khi thấy tàu 604 của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 đang lên bãi, 2 tàu của Trung Quốc quay sang tiến công tàu HQ-505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đảo thì bốc cháy.


Lúc 8h15, thủy thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, và đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay gần đó. Tàu HQ-505 bị phá huỷ nhưng cán bộ, chiến sĩ của tàu dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.
Tại đảo Len Đao, 8h20 ngày 14 tháng 3, Hải quân Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của Hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6h ngày 15/3, thủy thủ đoàn của tàu bơi về đảo Sinh Tồn.


Thượng uý Nguyễn Văn Chương và trung uý Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên bãi Cô Lin). Thi hài các chiến sĩ Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng các thương binh nặng được đặt trên xuồng. Số người còn sức một tay bám thành xuồng một tay làm mái chèo đưa xuồng lết trên mặt nước để tới bãi Cô Lin.


Trong trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam bị thiệt hại 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận. Việt Nam bị chiếm đảo Gạc Ma nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao cho đến nay. Các chiến sĩ Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy tặng và phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương Quân công, huân chương chiến công các loại.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ngày 23 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm đảo Xubi. Ngày 31 tháng 3 năm 1988, Tư lệnh Hải quân lệnh cho Vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146; các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao; đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ Tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1, Vùng 3, Vùng 5, Trường sĩ quan Hải quân, Nhà máy Ba Son, X51 tiếp nhận 3 tàu của nhà nước, 3 tàu của Tổng cục Hậu cần và 2 tàu của Quân khu 5 đến phối thuộc hoạt động khi cần thiết
Trải qua hơn 5 tháng, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, được sự chi viện của các lực lượng trong toàn quân, của các đơn vị ngành vận tải, cứu hộ của Nhà nước và nhân dân ở nhiều tỉnh, thành ven biển, Quân chủng Hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ CQ-88, đóng giữ và bảo vệ thắng lợi 11 đảo mới với 32 điểm đóng quân.


Ngày 7 tháng 5 năm 1988, tại lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân, Đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư **** ủy quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm cán bộ, chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa. Đại tướng biểu dương: "Hải quân đã tích cực, kiên trì thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về bảo vệ quần đảo Trường Sa. Mặc dù có nhiều khó khăn, song đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao".Tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa, Đại tướng phát biểu nhấn mạnh: "Nhân kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ các Tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".


Ngày 5 tháng 7 năm 1988, **** ủy Quân chủng họp nhận định: Sau những hành động khiêu khích quân sự vừa qua, Trung Quốc sẽ tiếp tục có những âm mưu cô lập hạn chế hoạt động của ta để mở rộng quyền kiểm soát, khống chế vùng biển Đông. Đúng như dự đoán của ta, trên vùng biển và xung quanh khu vực quần đảo Trường Sa, Trung Quốc thường xuyên duy trì từ 10-15 tàu, trong đó có 4-6 tàu chiến.


Đầu tháng 9 năm 1988, Trung Quốc đưa tàu trinh sát bằng vô tuyến điện xuống trinh sát 21 đảo ta đang đóng giữ, uy hiếp chiếm lại khi thời cơ thuận lợi và tuyên truyền về chiến lược biển và kinh tế biển, tập trung vào dầu khí thuộc khu vực thềm lục địa phía Nam của Việt Nam. Trước tình hình đó, **** và Nhà nước ta chủ trương xây dựng tại khu vực thềm lục địa phía Đông Nam thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cụm kinh tế, khoa học, dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế đất nước và giao nhiệm vụ cho Quân chủng Hải quân bảo vệ. Ngày 26 tháng 10 năm 1988, Phó đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 171 làm nhiệm vụ bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam (DK1). Đây là vùng có ý nghĩa chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh của đất nước.


Ngày 6 tháng 11 năm 1988, một biên đội hai tàu HQ-713 và HQ-688 thuộc Lữ đoàn 171, do các đồng chí Phạm Văn Thư, Nguyễn Hồng Thưởng chỉ huy rời cảng ra khơi. Sau hơn mười ngày hành quân trên biển, hai tàu đã đến vị trí tiến hành đo đạc khảo sát, đánh dấu, xác định vị trí thả neo làm nhà trên vùng biển rộng 60.000 km2. Trên cơ sở đó, ngày 26 tháng 11, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho hai tàu HQ-713 và HQ-668 (Hải đoàn l71), do trung tá Hoàng Kim Nông, Phó Lữ đoàn trưởng về chính trị chỉ huy và hai tàu HQ-727, HQ-723 (Lữ đoàn 129), do trung tá Trần Xuân Vọng, Hải đoàn trưởng chỉ huy trực sẵn sàng chiến đấu.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3


đảo Đá Lát tháng 5/1988


 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3


Đá Tây tháng 5/1988
Công việc hằng ngày của lính đảo: lau chùi súng đạn, tập phòng thủ dưới cái nắng gay gắt.


 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Trung tá, Chính trị viên Tiểu đoàn 3 Hoàng Văn Thạo nhớ lại:
Nhà cao cẳng - cách anh em vẫn gọi vui về thế hệ nhà gỗ năm 1988 ở Trường Sa. Nhà rộng chừng 30m2, lợp mái tôn. Sàn ghép gỗ. Các phòng không có vách ngăn. Chỉ khi nhân viên cơ yếu làm việc, anh em dùng miếng vải lau súng làm vách ngăn.
“Giường” là sàn gỗ. Tối, anh em trải chiếu nằm chung. Sóng và gió lay nhà rung từng phút. Quần áo anh em bị nước biển làm mục rất nhanh, dù mỗi người đã có thêm hai bộ “quần áo chống rách”. Rách chỗ nào cứ túm lại vá chằng vá đụp.
“Hồi đó không có điện thoại, thư từ cũng khó khăn vì một năm may ra mới có tàu ra một lần. 15 người mà 14 người có thư là một người kia sẽ bỏ ăn, ngồi một góc, mặt buồn hiu. Ai hỏi tới là khóc ngay. Có người đọc thư nhiều tới mức nhàu cả lá thư, bợt nhòa cả chữ”, anh Thạo kể. Có những tờ báo chưa đọc đã bị cắt lủng những miếng vuông hay hình chữ nhật rất cẩn thận. Sau này mới biết đó là hình ảnh những cô gái xinh tươi bị một vài anh chàng láu cá cắt giấu mất trong balô.
Năm 1989, anh em mới được cấp hai băng nhạc Bảo Yến và một máy cassette Philips. Mỗi lần máy hết điện, mọi người phải thay nhau quay gamônô mới có điện nghe tiếp. Cái thời còn đầy rẫy thiếu thốn, anh em chia sẻ cho nhau nghe từng băng nhạc. Một điểm đảo nghe 20-25 ngày rồi chuyển băng cho các điểm đảo khác nghe. Quanh đi quẩn lại chỉ có hai cái băng, anh em nghe cho đến lúc băng nhão nát mới thôi.
Ngày đó đi từ điểm này qua điểm kia trên một đảo hoặc từ đảo này qua đảo khác chỉ có xuồng cao su. Nhưng rồi xuồng cao su cũng bị sụt hơi hoặc bị thủng do va vào đá san hô nhiều lần. Ngoài đảo không có bơm. Thế là người chuyển băng phải đi bộ. Chỉ cần lương khô, bình tông nước và một que sắt làm gậy chống.
“Ớn nhất là đạp trúng san hô non. Nó giòn như bánh tráng, thụt xuống là chân tay bị cắt tơi tả. Đi từ đầu đến cuối đảo mất ba tiếng, còn từ điểm nọ qua điểm kia mất hai tiếng! Phải lựa lúc thủy triều cạn ban ngày mới được đi. Lúc đi nước rút xuống còn lấp xấp ngang đùi, đi một nửa đường thì nước cạn tới cổ chân. Tới nơi chuyển băng cho anh em thì nước đã lên tới đùi, phải ở lại”, anh Thạo kể.




Nhà cao cẳng trên đảo Đá Lát. Cờ Tổ quốc được sơn lên mái tôn như khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên đảo này. Xa xa là những gì còn lại của chiếc tàu Tuscany bị bão đánh dạt lên đảo từ năm 1962.


 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Bên phải là những gì còn lại của phần mũi tàu Tuscany,bị bão đánh lên đảo rồi mắc cạn từ năm 1962, không hiểu từ đâu các chiến sĩ ta cho rằng đây là chiếc tàu ma có từ thời Pháp. "Ma" vì bất kỳ chiếc tàu nào định kéo nó đi cũng sẽ bị mắc cạn. (?)
Thật ra vì chiếc tàu này nằm quá sâu trong đảo nên mọi nổ lực cứu nó đều vô vọng. Ngay từ năm 1962 chủ tàu đã đành phải bỏ tàu vì không có cách nào kéo nó trở lại với biển.







Từ trái qua phải trong ảnh là nhà cao cẳng của đảo Đá Lát, pông tông, một chiếc Petya và xác tàu Tuscany. HQ TQ không có Petya nên chiếc Petya này chỉ có thể là của HQ VN. Chiếc Petya này có thể là HQ-11 vì HQ-11 cũng xuất bến cuối tháng 4. Chiếc này đã có thễ đã được lệnh tuần tra khu vực Đá Lát và Đá Tây vài ngày trước khi phái đoàn ra đảo nhằm bảo vệ cho các sĩ quan cao cấp của Việt Nam. Sau đó HQ-11 đã đi thẳng ra Đá Lớn để bảo vệ Đảo này trong nhiều tháng trời. Ở Đá Lớn ngày 10/7/1988 HQ-11 đã cứu sống ba sĩ quan Mỹ khi máy bay họ bị rơi.



 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Đá Đông là một trong những đảo chìm của quần đảo Trường Sa. Đảo chìm - Như các bạn thấy trong hình, là một căn nhà Cao cẳng, đứng giữa mênh mông biển cả. Đây là một phần đá san hô có thể nhô lên khỏi mặt nước khoảng 50, 60 cm mỗi khi nước biển rút xuống. Những người lính sống ở đảo chìm cả ngày quanh quẩn trong vài chục mét vuông nhà. Khi triều xuống, họ cũng có thể xuống " dạo chơi" vài bước. Mỗi đảo, thường nuôi rất nhiều c hó. Những người lính đảo rất quý các chú khuyển này và coi chúng như những người bạn thân thiết. Đảo Đá Đông. tháng 5/1988









 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Cũng trong năm 1989 ở đảo Đá Đông, Trung tá, Chính trị viên Tiểu đoàn 3 Hoàng Văn Thạo và đồng đội đã chứng kiến cơn bão kinh hoàng nhất trong đời binh nghiệp. Bão và triều cường dồn dập ập đến. Mọi người khuân đá san hô vào các ngăn của pôngtông để đánh chìm nó xuống bãi san hô gần mép đảo.
Nhưng giữa cơn cuồng phong của đại dương, pôngtông mỏng manh như một hạt nước mưa. Anh em đứng trên nhà lâu bền (thế hệ đầu) lo lắng nhìn pôngtông vật lộn giữa mù mịt sóng nước. Chỉ huy đảo gọi qua điện tín: Anh em cố gắng bảo nhau chống chọi đến cùng, đoàn kết giữ vững niềm tin.
Đáp lại là giọng của trưởng pôngtông rất điềm tĩnh và dứt khoát: “Anh em trên đảo cứ yên tâm, còn pôngtông là còn đảo. Kể cả trôi ra biển chúng tôi cũng quyết giữ pôngtông!”.
Khi pôngtông trôi cách đảo 50m thì anh em trên pôngtông không bắt được sóng nữa. Gió bão và sóng bão cắt đứt đường truyền tín hiệu. Một đợt sóng dữ cùng với gió đẩy pôngtông trôi ra tận mép xanh (cách đảo 150m). Pôngtông cứ mờ mờ ảo ảo trôi xa dần, xa dần, cho đến lúc anh em trong đảo không thể nhìn thấy cả cái hình ảnh mờ ảo ấy được nữa.
Giữa những phút giây chết chóc, căng thẳng và ảm đạm đó, ngoài biển vang lên tiếng súng AK bắn chào vĩnh biệt! Trong đảo lặng đi...
Gần ba tiếng sau bão tan. Cả đảo rưng rưng nhìn ra phía biển xa rồi ánh mắt rực lên niềm sung sướng ngỡ ngàng... Pôngtông vẫn bập bềnh giữa nền trời và biển. Gần 180 phút căng thẳng tột độ và vật lộn với sóng, gió, bão, khoảnh khắc mà mọi người cứ ngỡ hãy sống những giây phút cuối vì Tổ quốc thì đột ngột triều cường rút. Gió nhẹ. Sóng dịu. Bão tan! Trên nhà lâu bền, anh em chạy túa ra reo hò, ôm nhau bật khóc.





Ảnh trên chụp từ pông tông
Đá Đông, tháng 5 năm 1988
Đá Đông, một đảo chìm rộng giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, trước đó Sở chỉ huy Quân chủng HQ đã lệnh cho tàu 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác; đồng thời lệnh cho tàu 605 chở vật liệu, bộ đội chốt giữ đảo của Lữ đoàn 146 và lực lượng công binh của Trung đoàn 83 ra xây dựng, bảo vệ. Trong bối cảnh hải quân nước ngoài có thể khiêu khích ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tàu, đảo, công binh, công việc triển khai xây dựng nhà, công sự đã hoàn thành theo đúng kế hoạch, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Ta triển khai lực lượng bảo vệ đảo. Các tàu 605, 604 tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài Đá Đông. Hai tàu này ngày 13/4/1988 đã được điều đến khu vực Gạc ma và bị TQ bắn chìm ở đây.










Trong ảnh trên bên cạnh nhà cao cẳng là một pông tông, Có thể đó là chiếc pôngtông DL10
“Hồi đó ra đảo chúng tôi thường ở một tăng (18 tháng), có người ở hai tăng mới được về phép. Còn tôi trải qua bốn cái tết liên tục ngoài đảo, từ lúc là trung úy (năm 1988) cho tới khi về bờ (năm 1991) thì sắp lên đại úy. Cả năm trời không có tàu ra thăm” - trung tá Phạm Hùng Vĩ, khi ấy là trưởng pôngtông (một loại sà lan được neo cạnh các bãi san hô) chốt giữ đảo Đá Đông từ tháng 8-1988, kể.
Thứ kết nối duy nhất với đất liền là đài Vec 206 của Liên Xô buộc vào ăngten cột trên “sân thượng” pôngtông. Pin hết lại trút ra, đổ nước muối vào phơi nắng đến tối rồi nghe tiếp. Trước tết năm 1989 nửa tháng, pôngtông DL10 mới có tàu ra cấp một con heo và ít kẹo, mứt ăn tết sớm.
Giao thừa, anh em quây quần bên chiếc đài Vec nghe Chủ tịch nước chúc tết. Nhưng sóng yếu quá, nghe tiếng được tiếng mất. Rồi mọi người thi nhau kể chuyện về quê hương mình, gia đình mình, cả những ước mơ và cùng nhau phá lên cười.
Anh Vĩ nhớ lại những giây phút buồn nhất và cũng lãng mạn nhất: “Cứ trời quang là anh em lên nóc pôngtông ngó qua đảo Trường Sa Đông. Tôi ngồi nhìn về hướng bắc, cố hình dung xa xa tận đường chân trời đó là đất liền. Bao nhiêu nỗi nhớ dành hết cho nhà, cho lũy tre, cho làng xóm, cho hình ảnh những người nông dân trên bờ đê đường làng...”.
Mỗi lần tàu ra chỉ cập đảo mấy tiếng, viết thư không kịp. Anh em buồn quá, nhớ nhà quá cứ viết sẵn thư nhưng không được đề ngày. Phần tái bút nhiều khi dài gấp mấy lần phần thư vì trong thời gian chờ tàu ra lâu quá. Có người gửi một lúc 12 lá thư.
Hồi ấy không có phong bì. Tem thư thì hiếm lắm. Bộ đội tự làm phong bì. Tem thì dặn người nào thân thân: “Nhớ dán giúp cái tem, tôi cho ông ốc nón, cá khô”. “Có người anh em, bố mẹ mất nhưng phải gần năm sau mới nhận được thư người nhà báo” - anh Vĩ khẽ lắc đầu khi nhớ lại quãng thời gian quá nhiều gian khổ ấy. Người chỉ huy ngày ấy chùng giọng khi kể về cô em gái mất hồi tháng 1-1990 nhưng đến cuối năm 1991 anh mới biết tin...
Giữa bốn bề là sóng nước, cách giải trí thông dụng nhất của anh em là đi bắt tôm bắt cá khi thủy triều xuống. “Ngày đó Trường Sa tôm cá nhiều vô kể - anh Vĩ nói - Cá bơi sát mép đảo. Tôm hùm một con 5-6kg, râu dài cả sải tay. Ăn nhiều quá cũng chán, anh em bỏ hết phần thịt, lấy phần vỏ tôm phơi khô làm quà cho tàu ra. Nước lên thì ngồi ngay trên pôngtông câu cá. Tha hồ băm làm chả, rán, luộc, nấu. Sau này anh em chế ra cối giã cá, xay gạo, làm bánh cuốn, chả cá, làm bún...”.
Thương đồng đội ở các đảo khác ăn uống kham khổ quá, nhiều bữa 3g sáng trưởng pôngtông Vĩ đã dậy, khi thì làm bún, khi thì làm bánh cuốn, chả cá... rồi gọi điện thoại để anh em tới hoặc chèo xuồng bơi qua quãng đường dài 3-5 tiếng mang đến cho anh em ở các điểm đảo.




 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Đảo Trường Sa Lớn (lúc này có tên gọi là đảo Trường Sa). Tháng 5/1988










Đại tướng Lê Đức Anh và các sỹ quan trên đảo Trường Sa Lớn. Tháng 5/1988.




Đảo Trường Sa Lớn được giải phóng ngày 28/4/1975


Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội. Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh hải quân xác định “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hi sinh đến tính mạng cũng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bề trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu”. Thế là hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu đưa ra đảo.


Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát, nguyên là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ chiến sĩ trẻ hành trình ra Trường Sa vào cuối tháng 4 năm 1976. Việc đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với cuộc chia ly sinh tử. Bởi đất nước mới trải qua chiến tranh, tàn tích đau thương chưa xóa nhòa, giờ lại phải ra Trường Sa xây dựng đảo-một thử thách lớn đối với những người lính công binh thời bình. Tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn vượt sóng ra Trường Sa từ cảng T thuộc Cam Ranh Phú Khánh (nay là Khánh Hòa) lúc chiều tối, sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa Lớn. Gần 4 ngày vật lộn với sóng gió, 80% cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng. Trong tim họ luôn nghĩ, ra đảo Trường Sa để xây nhà là nhiệm vụ vinh quang, khí thế hừng hực trong tim và không hề ngần ngại.


Đảo Trường Sa Lớn những ngày đầu sau giải phóng hoang sơ và ngổn ngang đất đá. Tất cả công trình quân sự, nhà ở, hầm hào của quân đội Sài gòn trước đây để lại hầu hết bị cày xới, tàn phá. Vài ngôi nhà cấp 4 còn lại không có gì ngoài 4 bức tường mục nát, cháy xém.Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ quần đùi áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo trên đá san hô. Quân bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi ngày. Ban ngày vận chuyển vật liệu, ban đêm đóng cọc dựng nhà che bạt ở tạm, cốt để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức. Nắng gió rát mặt, với chiếc mũ mềm sao vàng đỏ chói trên trên đầu, các chiến sĩ như những con ong chăm chỉ người vác đá, người khiêng xi, người trộn hồ, tung gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa Lớn hoàn thành cuối tháng 5 năm 1976. Loại nhà "sê-ri” thế hệ đầu tiên kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8 mét, trong đó 1,5 mét ẩn âm trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5 mét theo hình lục giác, có các cửa sổ, tiện cơ động quan sát, hứng gió 4 phía.


Ngày 7 tháng 5 năm 1988, tại lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân, Đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư **** ủy quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm cán bộ, chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa.


Đại tướng biểu dương: “Hải quân đã tích cực, kiên trì thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về bảo vệ quần đảo Trường Sa. Mặc dù có nhiều khó khăn, song đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao”.Tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa, Đại tướng phát biểu nhấn mạnh: “Nhân kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ các Tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên, Khánh Hoà), chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3







Đô đốc Giáp Văn cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân độc diễn văn tại cuộc mít tinh kỷ niệm ngày thành lập Quân chủng Hải quân tại Đảo Trường Sa, ngày 7 tháng 5 năm 1988.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Mít tinh kỷ niệm Ngày truyền thống Quân chủng Hải Quân ở Trường Sa, ngày 7/5/1988







 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3


Trạm Khí tượng Trường Sa. Tháng 5/1988.


Vào các giờ 7 giờ, 10 giờ, 13 giờ, 16 giờ, 19 giờ, 22 giờ, 1 giờ trong ngày, các thông tin về khí tượng và hải văn ở Trường Sa sẽ được gửi lên Tổ chức khí tượng thế giới
Mã số của Trường Sa và của cả Việt Nam là 48. Mã số ấy được cả thế giới thừa nhận và hàng ngày những thông tin của Trường Sa - Việt Nam được bạn bè quốc tế sử dụng để góp phần làm nên bản tin dự báo thời tiết toàn cầu.




Ca sỹ Anh Đào với cán bộ Trạm Khí tượng Thủy văn Trường Sa. Tháng 5/1988.
 

TRANGDC

Xe tăng
Biển số
OF-194434
Ngày cấp bằng
17/5/13
Số km
1,236
Động cơ
1,994,184 Mã lực
Nhà cháu st được bài thơ hay, gửi các cụ:

NHỮNG HUYẾT CẦU TỔ QUỐC

Xin lỗi con!
Khi hôm qua ôm con
Có một phút giây, ba chợt xiết con vào lòng hơi mạnh
Ba làm con đau!

Bởi hôm qua
Ba đọc câu chuyện về đồng bào mình – những huyết cầu* Tổ quốc.
Máu lại tuôn…, xô dập, mảnh ván tàu…

Con ơi
Ba sẽ kể con nghe
Câu chuyện những ngư dân
Đang hóa thân thành hồng cầu*
để Trường Sa, Hoàng Sa
Vẫn là thịt trong huyết hình Tổ quốc.

Con phải khắc tâm
Câu chuyện những bạch cầu*:
là 74 người lính Việt Nam chết giữa Hoàng Sa.
là 64 người lính Việt Nam chết giữa Trường Sa.
Những con số sẽ không là con số
Khi ngẩng đầu: Tổ quốc 4000 năm.

Mỗi con đường – mạch máu đất nước mình
Vết thương đạn bom vừa yên trong đất
Vọng phu còn trên nét mặt mồ côi.
Nhưng những mũi tàu vẫn xẻ trùng khơi
Nơi sóng rẽ cũng là nơi máu chuyển
Và trong mỗi người Việt mình có mạch máu nối liền với biển
Mạch máu này con phải thấy bằng tim
Nếu một ngày sóng nộ, cường lên
Giữa lòng Việt bốn nghìn năm cũng dậy.

Thứ lỗi cho ba
Khi bài thơ đầu đời cho con, không thể bình yên!
Kẻ thù lăm le cướp biển nước mình
Đất nước bốn nghìn năm trên sóng.
Đừng quên: sau lời thề, lông ngỗng…
Giai nhân, huyết ngọc đổ bên trời.

Một ngày
Khi con nếm trên môi,
Con sẽ thấy máu mình vị mặn.
Bởi trong máu luôn có phần nước mắt
Ta hiểu căm thù, ta biết yêu thương.

Con sinh ra rạng rỡ một huyết cầu
Của đất nước bốn nghìn năm không ngủ
Để điều này lớn lên con hiểu
Bây giờ, ba phải kể cùng con.

Đinh Vũ Hoàng Nguyên.

* Huyết cầu: tên gọi chung cho cả hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
* Hồng cầu: tế bào màu đỏ mang dinh dưỡng và oxi.
* Bạch cầu: tế bào mầu trắng, còn gọi là tế bào miễn dịch, chống lại vi khuẩn.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
21,348
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Tròn 26 năm. Xin nghiêng mình tưởng nhớ các anh!
 

T H Nguyễn

Xe máy
Biển số
OF-309507
Ngày cấp bằng
26/2/14
Số km
97
Động cơ
299,970 Mã lực
Muốn đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu trước hết phải làm sao cho giàu mạnh. Ở gần 1 thằng nhà giàu, đông con và ba trợn thì phải cố gắng vươn lên bằng mọi giá nếu ko muốn suốt ngày bị đè đầu cưỡi cổ. Lịch sử đã chứng minh cứ 100 năm thì gã láng giềng phương bắc lại đánh ta 1 lần!
 

Vịtxanh

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-11416
Ngày cấp bằng
4/11/07
Số km
23,822
Động cơ
752,102 Mã lực
Tròn 26 năm. Xin nghiêng mình tưởng nhớ các anh!
Trung đoàn 83 công binh hải quân đóng Đà nẵng.
Các anh ngã xuống sớm ngày 14-3-1988 tại bãi đá Gạc ma cũng phần lớn người Đà nẳng và các tỉnh lân cận.
Hiện Đà nẵng là thành phố trẻ đang mở mang phát triển.
Nên chăng chính quyền thành phố hãy đặt tên 1 con đường, 1 quảng trường, 1 công viên, lấy ngày 14-3 để tưởng nhớ các anh ???
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
10,891
Động cơ
73 Mã lực
Em có 1 cụ ( đang làm cùng em) đóng quân ở Quý ranh ( đã giải ngũ) có tham gia trận đánh năm 88 và làm lính trinh sát ngoài đó 1 năm. cụ ấy bảo có mấy cuốn nhật ký, em đang tìm cách xin để post mà chưa được. Cụ ấy bảo lúc đó thế giới phản đối tàu khựa quá trời nên nó cũng không giám làm liều thêm nữa, nó chiếm được đảo là gặp lính công binh nhà mình thôi chứ gặp lính chiến thì lúc đó khựa không có cửa ( em nghe cụ ấy kể vậy).
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top