- Biển số
- OF-16170
- Ngày cấp bằng
- 10/5/08
- Số km
- 5,344
- Động cơ
- 552,758 Mã lực
Khi Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa năm 1988, chính quyền Gorbachev đã dội vào Việt Nam một gáo nước lạnh. Họ đã đánh mất đi tất cả những gì mà các thế hệ lãnh đạo Liên Xô tiền nhiệm đã từng tạo dựng được ở Việt Nam.
Canh co
Gorbachev và Đặng Bình Tiểu
Trung Quốc bất ngờ trước quyết tâm của Việt Nam
Sau này, một báo cáo giải mật năm 2015 của CIA đã nhận xét rằng, Việt Nam đã không hề sợ trước sức mạnh của hải quân Trung Quốc. Việc huy động cả không quân và tên lửa bờ đối hạm đã phát tín hiệu rằng Hà Nội sẽ bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa bằng bất kỳ giá nào.
Tài liệu CIA soạn thảo ngày 8/8/1988 cho biết, cuộc xung đột tại Trường Sa vào tháng 3/1988 giữa Việt Nam với Trung Quốc và bất đồng dai dẳng trên toàn bộ các lĩnh vực giữa hai bên có thể dẫn tới các đụng độ quân sự khác trong tương lai.
“Việc Trung Quốc chiếm các đảo đá gần nơi Việt Nam đóng quân cho thấy khả năng lâu dài là Bắc Kinh sẽ chọn giải pháp quân sự. Khi cả hai bên đều có hiện diện quân đội ở trên các đảo, khả năng xảy ra đụng độ vũ trang là khá cao” – báo cáo của CIA viết.
CIA nhận định, Bắc Kinh quyết định tấn công đánh chiếm Trường Sa vào mùa xuân năm 1988 vì nhận thấy rằng sự chú ý của quốc tế đang hướng về tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia, đồng thời Trung Quốc muốn tìm cách khẳng định chủ quyền, trước khi ASEAN xích lại Việt Nam.
Cục tình báo trung ương Mỹ nhận định, Bắc Kinh đã tìm cách chuẩn bị dư luận bằng cách định hướng cho truyền thông đẩy mạnh chỉ trích Hà Nội gây căng thẳng bằng việc chiếm các đảo tại Trường Sa và đại diện ngoại giao Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc luôn tìm cách củng cố quan điểm này.
Trước hết, Bắc Kinh tìm cách cô lập Việt Nam và phòng ngừa phản ứng từ các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tìm cách thuyết phục Philippines, Malaysia và Đài Loan rằng Trung Quốc chỉ nhắm vào một mình Việt Nam, chứ không phải bất kỳ quốc gia nào khác.
Báo cáo của CIA nói, các hoạt động hải quân của Trung Quốc tại Biển Đông cũng như việc xây dựng căn cứ tại các đảo ở Trường Sa nằm trong chiến lược lâu dài là khẳng định chủ quyền và buộc các nước khác từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình.
Hành động mạnh bạo “chưa từng thấy” của Trung Quốc tại Trường Sa cho thấy sự chuyển mình của hải quân nước này, với tiềm lực hải quân đã vượt ra khỏi phạm vi ven Đại Lục. Chiến dịch kéo dài 6 tháng năm 1988 ở Trường Sa được cho là hoạt động quân sự với quy mô lớn nhất của hải quân nước này.
Báo cáo của CIA cũng nhận xét rằng, trận đánh năm 1988 đã không làm cho Hà Nội sợ hãi và đối phó với thách thức của Bắc Kinh trên hai mặt trận ngoại giao và quân sự, bằng cách tố cáo với cộng đồng quốc tế về hành động xâm lược của Trung Quốc, đồng thời không ngừng củng cố các tiền đồn ở Trường Sa.
Hà Nội một mặt mô tả Bắc Kinh là kẻ xâm lược hiếu chiến và thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác cũng kêu gọi Trung Quốc quay lại bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, đồng thời thúc đẩy thảo luận với các nước khác trong khu vực như Malaysia và Philippines.
Việt Nam tích cực chuẩn bị cho khả năng chiến sự tiếp tục nổ ra với việc nâng cấp khả năng phòng thủ, đặt chỉ huy sở ở Vịnh Cam Ranh, điều chiến đấu cơ tới Phan Rang và tăng cường tuần tra biển…Việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu phát tín hiệu rằng Hà Nội sẽ bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa bằng bất kỳ giá nào.
Báo cáo CIA cho rằng, hai bên rất khó có thể đạt được thỏa thuận, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường khả năng phòng thủ biển và có thể sẽ tìm cách dựng thêm một số công trình phòng thủ ngoài biển để chặn bước tiến của hải quân Trung Quốc, đồng thời gia tăng áp lực ngoại giao.
Báo cáo của CIA cho rằng sau sự kiện 14/3/1988, Bắc Kinh có lẽ đã không lường trước được phản ứng dữ dội của Hà Nội. Trung Quốc tính toán rằng, Việt Nam có lực lượng lục quân rất mạnh nhưng hải quân mỏng yếu, xung đột tháng 3/1988 sẽ khiến Việt Nam phải chùn bước.
Báo cáo nói trên của CIA cũng nhận xét rằng, sở dĩ Bắc Kinh dám làm mạnh tay như vậy là do họ đã biết chắc rằng Moskva sẽ đóng vai trò trung lập trong vấn đề Trường Sa, mặc dù Việt Nam và Liên Xô đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện vào ngày 3/11/1978.
Bắc Kinh cho rằng, không có Liên Xô thì Việt Nam sẽ nhanh chóng buông xuôi ở Trường Sa. Do đó, phản ứng của Việt Nam ngay sau sự kiện Gạc Ma – trong bối cảnh lực lượng hải quân Liên Xô án binh bất động – có thể đã làm Bắc Kinh ngạc nhiên và bối rối.
Canh co
Gorbachev và Đặng Bình Tiểu
Trung Quốc bất ngờ trước quyết tâm của Việt Nam
Sau này, một báo cáo giải mật năm 2015 của CIA đã nhận xét rằng, Việt Nam đã không hề sợ trước sức mạnh của hải quân Trung Quốc. Việc huy động cả không quân và tên lửa bờ đối hạm đã phát tín hiệu rằng Hà Nội sẽ bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa bằng bất kỳ giá nào.
Tài liệu CIA soạn thảo ngày 8/8/1988 cho biết, cuộc xung đột tại Trường Sa vào tháng 3/1988 giữa Việt Nam với Trung Quốc và bất đồng dai dẳng trên toàn bộ các lĩnh vực giữa hai bên có thể dẫn tới các đụng độ quân sự khác trong tương lai.
“Việc Trung Quốc chiếm các đảo đá gần nơi Việt Nam đóng quân cho thấy khả năng lâu dài là Bắc Kinh sẽ chọn giải pháp quân sự. Khi cả hai bên đều có hiện diện quân đội ở trên các đảo, khả năng xảy ra đụng độ vũ trang là khá cao” – báo cáo của CIA viết.
CIA nhận định, Bắc Kinh quyết định tấn công đánh chiếm Trường Sa vào mùa xuân năm 1988 vì nhận thấy rằng sự chú ý của quốc tế đang hướng về tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia, đồng thời Trung Quốc muốn tìm cách khẳng định chủ quyền, trước khi ASEAN xích lại Việt Nam.
Cục tình báo trung ương Mỹ nhận định, Bắc Kinh đã tìm cách chuẩn bị dư luận bằng cách định hướng cho truyền thông đẩy mạnh chỉ trích Hà Nội gây căng thẳng bằng việc chiếm các đảo tại Trường Sa và đại diện ngoại giao Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc luôn tìm cách củng cố quan điểm này.
Trước hết, Bắc Kinh tìm cách cô lập Việt Nam và phòng ngừa phản ứng từ các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tìm cách thuyết phục Philippines, Malaysia và Đài Loan rằng Trung Quốc chỉ nhắm vào một mình Việt Nam, chứ không phải bất kỳ quốc gia nào khác.
Báo cáo của CIA nói, các hoạt động hải quân của Trung Quốc tại Biển Đông cũng như việc xây dựng căn cứ tại các đảo ở Trường Sa nằm trong chiến lược lâu dài là khẳng định chủ quyền và buộc các nước khác từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình.
Hành động mạnh bạo “chưa từng thấy” của Trung Quốc tại Trường Sa cho thấy sự chuyển mình của hải quân nước này, với tiềm lực hải quân đã vượt ra khỏi phạm vi ven Đại Lục. Chiến dịch kéo dài 6 tháng năm 1988 ở Trường Sa được cho là hoạt động quân sự với quy mô lớn nhất của hải quân nước này.
Báo cáo của CIA cũng nhận xét rằng, trận đánh năm 1988 đã không làm cho Hà Nội sợ hãi và đối phó với thách thức của Bắc Kinh trên hai mặt trận ngoại giao và quân sự, bằng cách tố cáo với cộng đồng quốc tế về hành động xâm lược của Trung Quốc, đồng thời không ngừng củng cố các tiền đồn ở Trường Sa.
Hà Nội một mặt mô tả Bắc Kinh là kẻ xâm lược hiếu chiến và thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác cũng kêu gọi Trung Quốc quay lại bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, đồng thời thúc đẩy thảo luận với các nước khác trong khu vực như Malaysia và Philippines.
Việt Nam tích cực chuẩn bị cho khả năng chiến sự tiếp tục nổ ra với việc nâng cấp khả năng phòng thủ, đặt chỉ huy sở ở Vịnh Cam Ranh, điều chiến đấu cơ tới Phan Rang và tăng cường tuần tra biển…Việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu phát tín hiệu rằng Hà Nội sẽ bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa bằng bất kỳ giá nào.
Báo cáo CIA cho rằng, hai bên rất khó có thể đạt được thỏa thuận, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường khả năng phòng thủ biển và có thể sẽ tìm cách dựng thêm một số công trình phòng thủ ngoài biển để chặn bước tiến của hải quân Trung Quốc, đồng thời gia tăng áp lực ngoại giao.
Báo cáo của CIA cho rằng sau sự kiện 14/3/1988, Bắc Kinh có lẽ đã không lường trước được phản ứng dữ dội của Hà Nội. Trung Quốc tính toán rằng, Việt Nam có lực lượng lục quân rất mạnh nhưng hải quân mỏng yếu, xung đột tháng 3/1988 sẽ khiến Việt Nam phải chùn bước.
Báo cáo nói trên của CIA cũng nhận xét rằng, sở dĩ Bắc Kinh dám làm mạnh tay như vậy là do họ đã biết chắc rằng Moskva sẽ đóng vai trò trung lập trong vấn đề Trường Sa, mặc dù Việt Nam và Liên Xô đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện vào ngày 3/11/1978.
Bắc Kinh cho rằng, không có Liên Xô thì Việt Nam sẽ nhanh chóng buông xuôi ở Trường Sa. Do đó, phản ứng của Việt Nam ngay sau sự kiện Gạc Ma – trong bối cảnh lực lượng hải quân Liên Xô án binh bất động – có thể đã làm Bắc Kinh ngạc nhiên và bối rối.
Chỉnh sửa cuối: