Copy FB của cụ Vương Hữu Tấn, nguyên Viện trưởng. Nói thêm cho rõ là đề nghị ngưng xuất phát từ CP, chứ không phải từ "các nhà khoa học" nhé.
--------------------------------------
NÓI LẠI CHUYỆN ĐÃ QUA VỀ ĐIỆN HẠT NHÂN
Năm 2016 Bộ Chính trị và sau đó Quốc hội đã quyết định dừng thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Một nỗi buồn lớn đối với tôi. Tôi vẫn nhớ đầu năm 2016 có bài báo đầu tiên nói về việc nên xem xét lại dự án điện hạt nhân. Sau đó, trước khi Quốc hội họp để thông qua chủ trương dừng thực hiện dự án điện hạt nhân thì có 2 hội thảo đã được tổ chức có mời các đại biểu Quốc hội tham dự. Diễn giả là mấy người phản đối điện hạt nhân trên thế giới được mời đến, nhưng rất buồn là họ không phải chuyên gia về điện hạt nhân. Báo cáo của họ có nhiều thông tin không chính xác, nhưng các rủi ro về mất an toàn và ảnh hưởng đến môi trường của điện hạt nhân lại được họ thổi phồng nên làm các đại biểu Quốc hội lo lắng. Có những đại biểu Quốc hội phát biểu lần đầu tiên được nghe “Chuyên gia nước ngoài” nói về các nguy hiểm của điện hạt nhân. Chỉ có tôi và anh Đỗ Hữu Hào phát biểu nói rõ các diễn giả này không phải là chuyên gia hạt nhân vì nhiều thông tin sai, không chính xác, nhưng chắn cũng không ai để ý đến phát biểu của tôi và anh Đỗ Hữu Hào.
Ngày 22/7/2024 báo Dân trí có đăng bài phỏng vấn ông Vũ Ngọc Hoàng về “Những kỷ niệm sâu sắc về Tổng Bí thư Nguyễn *********”, trong bài phỏng vấn này ông Hoàng có nhắc đến sự kiện dừng thực hiện Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận năm 2016. Xin được trích lại đoạn phỏng vấn như sau:
“Chuyện khác, khoảng nửa cuối năm 2015 đến đầu năm 2016, khi Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ và Quốc hội đều đã ra nghị quyết về triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận là nhà máy đầu tiên trong số các nhà máy thuộc chương trình phát triển các nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, coi như chủ trương đó đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rồi, đang chuẩn bị mặt bằng để triển khai.
Tính của Tổng Bí thư như tôi biết lâu nay là một người giữ nguyên tắc rất kiên định. Khó mà thay đổi khi tập thể đã biểu quyết thông qua. Mặc dù vậy nhưng sau khi nghe lại ý kiến của các chuyên gia phân tích nhiều mặt lợi hại, trong đó có nội dung rằng, riêng đối với các nhà máy điện hạt nhân nếu chưa làm chủ được công nghệ (kể cả trong xử lý chất thải) mà vẫn triển khai thực hiện thì chắc chắn chủ quyền quốc gia sẽ bị ảnh hưởng đến mức không dễ thay đổi thì Tổng Bí thư mở sổ ra ghi lại và bảo sẽ suy nghĩ thêm. Khoảng 3 tháng sau đó chúng tôi thấy Trung ương và Quốc hội bàn lại và quyết định dừng dự án!”
Quan điểm về phát triển điện hạt nhân của anh Vũ Ngọc Hoàng chắn khó thay đổi và gần đây trong cuộc Tọa đàm về “Điện hạt nhân và các giải pháp phát triển năng lượng cho Việt Nam” ngày 26/9/2024 tại Viện Công nghệ VinIT do Viện phối hợp với Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức. Nhiều ý kiến của các nhà khoa học (tôi tạm gọi là các nhà khoa học không ủng hộ điện hạt nhân) đã nêu ra và gửi cho lãnh đạo Nhà nước.
Tôi xin phép đăng bài trao đổi về các ý kiến của các nhà khoa học không ủng hộ điện hạt nhân tại Tọa đàm nêu trên như sau:
ỦNG HỘ HAY PHẢN ĐỐI ĐIỆN HẠT NHÂN CẦN PHẢI DỰA TRÊN CÁC LUẬN CỨ KHOA HỌC KHÁCH QUAN
Dự án điện hạt nhân ở bất cứ nước nào cũng đều có 2 luồng ý kiến, ủng hộ và phản đối. Tôi nghĩ ở ta cũng như vậy. Tuy nhiên, dù ủng hộ hay phản đối thì đều phải dựa trên các cơ sở khoa học khách quan, không chủ quan, cảm tính, áp đặt.
Sau khi có ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ giao cho Bộ Công thương nghiên cứu tình hình phát triển điện hạt nhân trên thế giới để đề xuất cho Việt Nam trong thời gian tới cũng như Quốc hội thảo luận về Luật Điện lực sửa đổi, trong đó có nói về các chính sách đối với điện hạt nhân đã có rất nhiều ý kiến đồng tình với chủ trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, nhưng cũng có ý kiến không đồng tình. Tôi xin phép nêu một số ý kiến không đồng tình tại Tọa đàm “Điện hạt nhân và các giải pháp phát triển năng lượng cho Việt Nam” vào ngày 26/9/2024 do các nhà khoa học của Viện Công nghệ VinIT kết hợp với Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức và phân tích xem tính khoa học khách quan của các ý kiến này thế nào.
1. Khi phản đối điện hạt nhân, Nhóm các nhà khoa học này dẫn chứng 5 thảm họa khủng khiếp của nhà máy điện hạt nhân trên thế giới gồm Chernobyl (Liên Xô năm 1986), Fukishima (Nhật Bản năm 2011), Kyshtym (Nga năm 1957), Windscale Fire (Anh năm 1957) và Three Mile (Mỹ năm 1979) để ủng hộ cho quan điểm không nên làm điện hạt nhân.
Thực tế chỉ có 3 tai nạn liên quan đến nhà máy điện hạt nhân là Tree Mile, Chernobyl và Fukushima, còn 2 tai nạn năm 1957 của Nga và Anh mà nhóm này nêu ra là của các cơ sở liên quan đến chế tạo vũ khí hạt nhân trong thời gian chiến tranh lạnh, không phải là của nhà máy điện hạt nhân. Thảm họa Kyshtym xảy ra ở một khu vực sản xuất plutoni của Nga làm vũ khí hạt nhân và nhà máy tái chế nhiên liệu hạt nhân của Liên Xô. Tương tự nhà máy Windscale của Anh cũng phục vụ mục tiêu phát triển vũ khí hạt nhân. Cần phải khách quan hơn khi thông tin cho công chúng và lãnh đạo quốc gia đâu là tai nạn nhà máy điện hạt nhân và đâu là tai nạn không phải của nhà máy điện hạt nhân. Chưa kể hai tai nạn năm 1957 ở Liên Xô và Anh xảy ra khi mà các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân quốc tế chưa có được như hiện nay. Đó là thời kỳ chiến tranh lạnh, các quốc gia đều giữ bí mật, thậm chí là che dấu thông tin. Tình hình hiện nay hoàn toàn khác khi Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế đã xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân quốc tế và mọi thông tin về sự cố, tai nạn hạt nhân đều phải được công bố cho IAEA biết theo các điều ước quốc tế liên quan. Không thể che dấu được thông tin về sự cố, tai nạn hạt nhân vì có nhiều hệ thống giám sát của quốc tế và các nước sẽ công bố thông tin này.
Còn 3 tai nạn Tree Mile, Chernobyl và Fukushima là của nhà máy điện hạt nhân thì đã được quốc tế giải thích rất nhiều. Trong Báo cáo xin chủ trương đầu tư trình Quốc hội năm 2009, tai nạn Tree Mile và Chernobyl đã được giải thích cho các đại biểu quốc hội. Còn tai nạn Fukushima năm 2011 thì IAEA đã có tổng kết và đã nâng cấp các tiêu chuẩn an toàn để đáp ứng được các hiện tượng tự nhiên cực đoan của động đất và sóng thần như trường hợp của Fukushima. Bản thân cá nhân tôi cũng đã giải thích trên FB cá nhân cũng như trên Truyền hình Quốc hội và một số báo chí trong nước rồi. Đó là do công nghệ lò Fukushima thuộc thế hệ thứ 2 được xây dựng vào thập niên 1960 không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn của sự cố kép động đất và sóng thần lớn. Còn các công nghệ mới thì hoàn toàn có thể chống chịu được các hiện tượng cực đoan như vậy của tự nhiên. Bằng chứng là nhà máy điện hạt nhân Onagawa ở gần tâm chấn hơn so với nhà máy Fukushima, nhưng là công nghệ mới được xây vào những năm 1980 thì lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì.
Không có bất kỳ một lĩnh vực nào có thể nói là an toàn tuyệt đối cả. Vấn đề là an toàn thế nào là chấp nhận được. Máy bay vẫn thỉnh thoảng có tại nạn bị rơi và làm chết nhiều người. Tuy nhiên, không vì thế mà ta quay lưng lại với một phương tiên vận tải hiện đại này. Vấn đề sau mỗi tai nạn cần tìm ra nguyên nhân để không mắc phải trong tương lại. Đó là lỗi nhân viên vận hành (phi công, điều hành mặt đất) thì phải xem xét lại công tác đào tạo. Lỗi kỹ thuật thì phải xem máy bay loại đó có thể khắc phục được thì mới cho lưu hành tiếp. Lỗi do thời tiết cực đoan của lốc xoáy, bão, … thì phải có các dự báo thời tiết tốt hơn để máy bay không bay vào khu vực đó. Khi đã làm rõ các nguyên nhân rồi thì mọi người lại an tâm khi sử dụng phương tiên vận chuyển bằng máy bay. Điện hạt nhân cũng như vậy.
Các tai nạn nhà máy điện hạt nhân đã qua là bài học quý để công đồng quốc tế xem xét nâng cao tiêu chuẩn an toàn và văn hóa an toàn trong các tổ chức liên quan đến hạt nhân để không xảy ra các kịch bản tương tự. Về công nghệ hiện nay (thế hệ III/III+) đã tính đến các kịch bản sự cố nghiêm trọng nhất là nóng chảy vùng hoạt của lò phản ứng nhưng vẫn không gây phát tán phóng xạ ảnh hưởng đến con người và môi trường.
2. Suất đầu tư của điện hạt nhân rất cao?
Theo ý kiến của nhóm các nhà khoa học phản đối điện hạt nhân này thì suất đầu tư của điện hạt nhân gấp 5 lần điện gió và 20 lần điện mặt trời (chưa tính chi phí tháo dỡ), còn nếu tính cả chi phí tháo dỡ thì suất đầu tư điện hạt nhân gấp 10 lần điện gió và 40 lần điện mặt trời.
Thông tin của nhóm các nhà khoa học này đưa ra chỉ đúng một phần, nhưng chưa đủ sẽ có thể làm cho các nhà hoạch định chính sách sẽ băn khoăn khi quyết định đầu tư cho điện hạt nhân. Các thông tin về suất đầu tư các dạng năng lượng đều có trên mạng không phải mất công tìm kiếm. Cụ thể, trên Google suất đầu tư điện hạt nhân trung bình từ 5-6 triệu USD/MW, điện gió 1 triệu USD/MW và điện mặt trời 890.000 – 1 triệu USD/MW. Như vậy suất đầu tư cho điện hạt nhân đắt hơn 5-6 lần điện gió và điện mặt trời (chứ không phải 20 lần điện mặt trời như nhóm các nhà khoa học này đưa ra). Chi phí tháo rỡ nhà máy điện hạt nhân từ 500 triệu đến 2 tỷ USD tùy thuộc vào loại lò và quy mô của nhà máy. Chi phí này sẽ được nhà máy điện hạt nhân tích lũy trong thời gian vận hành để có đủ tiền cho việc tháo dỡ sau này và chi phí này cũng được tính là chi phí vận hành nhà máy điện hạt nhân để đưa vào giá phát điện sẽ nói dưới đây. Không phải như nhóm các nhà khoa học này nói chi phí tháo dỡ còn lớn hơn cả chi phí đầu tư xây dựng và tư vấn nước ngoài của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã che dấu, lờ đi khi làm dự án đầu tư, không tính vào, nên chưa thể hiện trong giá thành và suất đầu tư là hoàn toàn sai. Các thông tin này trên Google có hết cả làm sao có thể che dấu, làm sao có thể lờ đi. Tuy nhiên, những thông tin đó không nói lên tất cả, mà còn có những thông tin quan trọng hơn thì nhóm nghiên cứu lại không đưa ra cho lãnh đạo rõ.
Trước hết, suất đầu tư đơn thuần như được nhóm nhà khoa học này đưa ra chưa nói được điều gì ngoài việc làm cho người dân bình thường cảm nhận đầu tư điện hạt nhân rất đắt. Vấn đề quan trọng là phải xem cùng một lượng điện làm ra thì suất đầu tư của các loại công nghệ phát điện khác nhau thế nào? Vì thế có 2 yếu tố phải được xem xét gồm: (1) thời gian sống của nhà máy phát điện là bao nhiêu năm và (2) Hệ số sử dụng công suất của nhà máy phát điện thế nào. Nhà máy điện hạt nhân hiện nay tuổi thọ thiết kế là 60 năm và có khả năng kéo dài đến 80 năm. Nhà máy điện mặt trời có tuổi thọ 25-30 năm. Nhà máy điện gió có tuổi thọ 30 năm. Như vậy, tuổi thọ của điện gió và điện mặt trời kém 2 đến 2,5 lần nhà máy điện hạt nhân.
Thứ hai, hệ số sử dụng công suất của nhà máy điên hạt nhân trên thế giới là trên 90%, trong khi nhà máy điện gió là 35% và điện mặt trời là 22% do bản chất của loại điện tái tạo này phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chu kỳ ngày đêm. Như vậy, điện gió kém điện hạt nhân gần 3 lần, còn điện mặt trời kém điện hạt nhân gần 4,5 lần.
Điều đó có nghĩa là để làm ra cùng một sản lượng điện như nhau trong cùng một thời gian thì công suất điện gió phải gấp 6 lần và công suất điện mặt trời phải gấp 11 lần điện hạt nhân. Thế thì tổng đầu tư để có cùng lượng điện như nhau trong cùng một thời gian thì suất đầu tư của điện gió và điện hạt nhân là gần như sau, còn điện mặt trời thì đắt hơn chứ không như nhóm các nhà khoa học này đã nêu ra là suất đầu tư điện mặt trời thấp hơn điện hạt nhân 20 lần.
Suất đầu tư thực tế của một số dự án điện hạt nhân gần đây thuộc loại công nghệ thế hệ III/III+ lần đầu tiên được xây dựng (FOAK – First-of-a-kind) được cho trong bảng dưới đây. Một số dự án của Mỹ và Pháp bị kéo dài thời gian do công nghệ mới lần đầu tiên được xây dựng (chưa được kiểm chứng) và rất lâu các nước này không có dự án xây nhà máy điện hạt nhân lên đã đội vốn lên trên 5000 USD/kWe, trong khi các dự án của Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc thì suất đầu tư thực tế dưới 3500 USD/kWe. Do đó nếu lấy suất đầu tư thực tế của Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc thì suất đầu tư của điện hạt nhân còn rẻ hơn cả điện gió.
Bảng 1: Suất đầu tư thực tế của một số dự án điện hạt nhân gần đây loại công nghệ thế hệ III/III+ lần đầu tiên được xây dựng
Tôi không có thông tin về suất đầu tư của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận do các đối tác Nga và Nhật Bản đưa ra như ý kiến của các Nhà khoa học này nêu ra tại Tọa đàm để có thể có ý kiến trao đổi. Tuy nhiên, suất đầu tư nhà máy điện hạt nhân của Nga, Hàn Quốc và Trung Quốc làm cho nhà máy điện hạt nhân của họ là thấp xung quanh 3000 USD/kW. Nếu họ xây dựng ở nước ngoài, ví dụ như ở Việt Nam, mà suất đầu tư tăng lên là đương nhiên do phải vận chuyển xa, phải xây dựng các hạ tầng địa điểm. Tuy nhiên, cao hơn bao nhiêu thì Chủ đầu tư của Việt Nam cần phải làm việc với phía Nhà thầu nước ngoài để chi tiết hóa các chi phí tăng thêm so với việc họ xây dựng tại nước họ. Còn việc xây dựng nhiều tổ máy tại một địa điểm sẽ có lợi về kinh tế như cơ sở hạ tầng dùng chung. Tuy nhiên, việc quyết định số lượng tổ máy tại một địa điểm là bao nhiêu là quyền của Chủ đầu tư Việt Nam.
3. Giá phát điện hạt nhân cũng đắt?
Theo nhóm các nhà khoa học này thì do chi phí đầu tư cao sẽ chuyển vào giá thành sản xuất điện hạt nhân làm cho điện hạt nhân đắt và làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án điện hạt nhân. Có đúng như vậy không? Kết quả nghiên cứu mới nhất của Cơ quan năng lượng hạt nhân thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) năm 2020 cho kết quả như sau.
Tiêu chuẩn về kinh tế để đánh giá so sánh các loại hình phát điện là giá phát điện được tính trung bình dựa trên tổng chi phí xây dựng và chi phí vận hành trong toàn bộ vòng đời của nhà máy chia cho tổng sản lượng điện phát ra với đơn vị tính là USD/MWh, trong thuật ngữ tiếng Anh là giá LCOE (the Levelised Costs of Electricity). So sánh giá phát điện LCOE của các loại hình phát điện khác nhau với hệ số chiết khấu 7% được cho trong hình vẽ dưới đây (Hình 1). Từ Hình 1 có thể thấy giá phát điện của các nhà máy điện hạt nhân được đầu tư để kéo dài thời gian hoạt động sau khi hết thời hạn quy định là thấp nhất, không một loại hình phát điện nào có thể cạnh tranh được. Còn giá phát điện của các nhà máy điện hạt nhân xây mới thì chỉ cao hơn nhà máy điện gió trong đất liền và điện mặt trời tự tiêu (Solar PV Utility Scale), còn đều thấp hơn các loại hình phát điện khác. Bảng 2 cho giá trị cụ thể của giá điện LCOE của các loại hình phát điện khác nhau.
Hình 1: Giá điện phát điện (LCOE) của các loại hình phát điện khác nhau với hệ số chiết khấu 7%
LOẠI HÌNH PHÁT ĐIỆN GIÁ PHÁT ĐIỆN (USD/MWh)
PV (utility, fixed-axis) 56
PV (residential) 126
Solar(thermal) 121
Wind, onshore 50
Wind, offshore 88
Nuclear new (existing) 69(32)
Hydro 68
Geothermal 99
Coal (CC) 88(110)
Gas CC (Peak) 71
Bảng 2: Giá phát điện LCOE của các loại công nghệ khác nhau được tính sử dụng hệ số chiết khấu là 7%
4. Không xã hội hóa được điện hạt nhân
Theo nhóm nghiên cứu này thì không xã hội hóa đầu tư được dự án điện hạt nhân như các dự án điện gió, điện mặt trời, điện rác, điện khí,… và nhà nước phải đầu tư và nhận nợ cho dự án điện hạt nhân. Kinh nghiệm thế giới cho thấy không phải tất cả các công ty điện hạt nhân trên thế giới đều là công ty nhà nước như trường hợp của Nhật Bản, Hoa Kỳ và một số nước châu Âu. Trong dự thảo Luật Điện lưc sửa đổi, Bộ Công thương đề xuất nhà máy điện do nhà nước độc quyền là một chính sách của quốc gia. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân tôi và từ kinh nghiệm thế giới, dự án điện hạt nhân bây giờ khác rất nhiều so với giai đoạn trước đây khi phát triển điện hạt nhân còn có mục tiêu phát triển năng lực chế tạo vũ khí hạt nhân. Bây giờ dự án điện hạt nhân chỉ đơn thuần là một công trình năng lượng. Có nước như Thổ Nhĩ Kỳ còn cho Liên bang Nga đầu tư dạng BOO (xây dựng, vận hành và chủ sở hữu luôn) và phía Thổ Nhĩ Kỳ cam kết sẽ mua điện của nhà máy điện hạt nhân theo cơ chế thị trường. Phía Thỗ Nhĩ Kỳ chỉ cần xây dựng Cơ quan pháp quy hạt nhân để thực hiện quản lý an toàn, an ninh, không phổ biến và bồi thường hạt nhân đối với các dự án điện hạt nhân, trong đó có dự án BOO của Liên bang Nga. Khi đó phía Thổ Nhĩ Kỳ không phải lo về đầu tư cũng như quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng của dự án điện hạt nhân này. Đây là những vấn đề mà các nước mới đi vào phát triển điện hạt nhân thường có nhiều tranh luận ở trong nước và ở nước ta cũng vậy thời gian qua.
Do đó việc có xã hội hóa hay không dự án điện hạt nhân là do chính sách phát triển điện hạt nhân của từng nước chứ không phải dự án điện hạt nhân không xã hội hóa được. Theo tôi, Nhà nước ta cũng nên xã hội hóa dự án điện hạt nhân để có thể huy động nguồn lực xã hội trong nước và nước ngoài, còn Nhà nước chỉ nên tập trung xây dựng khuôn khổ pháp lý và pháp quy cùng Cơ quan pháp quy hạt nhân đủ mạnh để quản lý an toàn, an ninh, không phổ biến và bồi thường hạt nhân các dự án điện hạt nhân.
5. Ta làm điện hạt nhân không có thuận lợi gì?
Nhóm chuyên gia này cho rằng đối Việt Nam cho đến nay và trong tương lai gần đều chưa thấy có thuận lợi gì cả khi làm điện hạt nhân? Ý kiến đó có đúng không?
Có lẽ các chuyên gia có thể rất giỏi về nhiều lĩnh vực, nhưng không phải là những người làm trong ngành hạt nhân để hiểu các khó khăn cho một nước đi vào phát triển điện hạt nhân để thấy được hiện nay và trong tương lai gần chúng ta có những thuận lợi rất căn bản.
Trước hết, chúng ta có thời gian dài chuẩn bị cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận trước đây nên cũng đã có những chuyên gia có hiểu biết tốt về dự án điện hạt nhân để có thể tư vấn cho Chính phủ nên làm điện hạt nhân như thế nào phù hợp với hướng dẫn của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Chúng đã cũng đã đào tạo khoảng hơn 300 người phuc vụ cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận thông qua các chương trình hợp tác với Nga và Nhật Bản trong khuôn khổ dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Chúng ta đã đào tạo khá nhiều cán bộ cho Cơ quan pháp quy hạt nhân và các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật thông qua hợp tác với IAEA, EC và các nước công nghiệp điện hạt nhân. Chúng ta cũng đã xây dựng và ban hành Luật NLNT 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành về nhà máy điện hạt nhân. Trong quá trình triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận vừa qua cũng đã rút ra những khiếm khuyết của hệ thống văn bản quy phạm và pháp quy để phải chính sửa trong năm 2026 theo chương trình làm việc của Quốc hội. Hệ thống tổ chức và quản lý chương trình phát triển điện hạt nhân đã được thiết lập và sẽ tiếp tục hoàn thiện theo chuẩn quốc tế. Về cơ bản các điều ước quốc tế liên quan đến hạt nhân phục vụ cho phát triển điện hạt nhân đã được ký kết và sẽ tiếp tục tham gia các điều ước còn chưa ký như Công ước bồi thường hạt nhân. Các cơ quan có trách nhiệm ở trong nước đã nghiên cứu Điều ước này để đề xuất một lộ trình ký kết tham gia phù hợp với tiến độ của dự án điện hạt nhân. Đối với quốc tế, IAEA đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các tiêu chuẩn an toàn và an ninh hạt nhân để hỗ trợ các nước phát triển hệ thống quy phạm liên quan. Bộ Luật NLNT mẫu của IAEA đã có và đội ngũ chuyên gia pháp chế của IAEA sẽ giúp các nước đánh giá Luật NLNT của các nước và kiến nghị các chỉnh sửa cần thiết phù hợp với thông lệ quốc tế, các yêu cầu an toàn cơ bản và các điều ước quốc tế liên quan mà quốc gia thành viên đã tham gia phuc vụ cho triển khai dự án điện hạt nhân. Đối với các nước mới đi vào phát triển điện hạt nhân IAEA đã xây dựng một bộ các tài liệu hướng dẫn cần thiết chuẩn bị cho việc ra quyết định về chủ trương phát triển điện hạt nhân, lựa chọn địa điểm, cấp phép xây dựng, quản lý xây dựng và tổ chức vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Các cẩm nang này bao gồm rất nhiều tài liệu về các mặt cả quản lý, pháp luật, pháp quy, đào tạo cán bộ, quản lý dự án, đầu tư và thu xếp tài chính, lựa chọn địa điểm,… Ngoài ra, IAEA còn có rất nhiều các dịch vụ tư vấn chuyến gia như tư vấn đánh giá hạ tầng quốc gia (INIR), tư vấn đánh giá pháp quy tích hợp (IRRS),… để giúp các nước mới đi vào phát triển điện hạt nhân xem xét hiện trạng các vấn đề liên quan để có thể hoàn thiện đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, điện hạt nhân sau COP26 đã được các nước và các tổ chức quốc tế thừa nhận là một giải pháp cùng với năng lượng tái tạo giúp bả