- Biển số
- OF-188697
- Ngày cấp bằng
- 7/4/13
- Số km
- 219
- Động cơ
- 333,722 Mã lực
“Thấp thoáng ảo mờ đôi mắt ấy/ Môi cười hòa lẫn tóc đen dài/ Phải chăng người ấy-em yêu dấu/ Sóng nước vỡ tan bóng nhạt phai”- Đó là một khổ trong bài thơ “Mờ ảo” mà Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Bá Ước (Bảy Ước), nguyên Chính ủy Sư đoàn 2 Đặc công viết tặng vợ-nữ liệt sĩ quân y Nguyễn Thị Kim Mến. Một buổi chiều rừng Sác, nơi người vợ hiền, người đồng đội của ông đã anh dũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ, vị đại tá nổi danh trận mạc, từng là “linh hồn” của Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác, ngồi lặng lẽ, mắt dõi xa xăm, mái tóc bạc phơ, miệng khẽ đọc những vần thơ da diết…
Chia tay…
Năm 1965, Đại úy Lê Bá Ước cùng vợ là Chuẩn úy Nguyễn Thị Kim Mến (Tư Mến) cùng gia đình ra Bắc, mang theo hai con nhỏ. Đứa lớn tên Lê Kim Hương, 4 tuổi. Đứa nhỏ tên Lê Nam Hùng chưa đầy 2 tuổi. Nơi sơ tán là vùng đồi cọ thuộc tỉnh Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc). Mới đến được ít ngày, đôi vợ chồng trẻ lại nôn nao muốn trở về miền Nam cùng đồng đội đánh Mỹ. Hai người bàn bạc, thống nhất, ngay hôm sau, người vợ tiễn chồng ra ga xuống Hà Nội để chuẩn bị vào Nam. Hai đứa nhỏ mếu máo dõi theo, vẫy tay líu ríu: “Ba, má nhớ về sớm với con!”. Người chồng không dám nhìn lại sợ ánh mắt các con níu kéo. Trên đường tiễn chồng ra ga, chị Mến bảo: “Anh đi rồi, em cũng sẽ thu xếp gửi hai con ở lại miền Bắc, vượt Trường Sơn để vào chia lửa cùng anh và đồng đội”. “Em còn phải học nâng cao, trở thành bác sĩ mới cứu chữa được cho nhiều thương binh. Với lại, anh đi xa, các con còn nhỏ rất cần được mẹ nâng niu, chăm sóc…” - Nắm chặt tay vợ, anh Ước dặn dò. “Nhất định em sẽ vào cùng anh. Hai con em gửi ông bà trông nom giúp. Vợ chồng mình đều là những đứa con của miền Nam. Trong lúc chiến tranh ác liệt thế này, em không nỡ rời xa anh, rời xa đồng đội”. Người phụ nữ quê Rạch Giá (Kiên Giang) thuyết phục chồng. Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói cương quyết của vợ, Bảy Ước gật đầu: “Thôi được, vợ chồng mình gặp lại ở chiến trường. Nhưng em nhớ cắt ngắn mái tóc cho đỡ vướng víu và bụi bặm khi vượt Trường Sơn. Nhớ mang theo mấy thứ đồ phụ nữ thường dùng, gọn nhẹ thôi kẻo đi đường cực nhọc lắm!”. Họ chia tay trong nắng chiều vàng óng. Người vợ quay đi giấu đôi dòng nước mắt nóng bỏng, nghẹn ngào tiễn chân chồng về đơn vị cũ.
Chân dung nữ liệt sĩ Kim Mến.
Mấy ngày sau, chị xuống trường trả lại quyết định gọi học đại học với lý do đơn giản: “Anh em thương binh đang rất cần tôi chăm sóc. Khi nào kết thúc chiến tranh, tôi sẽ đi học nâng cao cũng được”.
Chung một chiến hào
Vào một ngày cuối thu năm 1967, Bảy Ước đang cùng đồng đội ở Trung đoàn Đặc công kiên cường bám trụ nơi chiến trường rừng Sác thì nhận được tin báo: “R” (Trung ương Cục miền Nam) quyết định bổ sung một nữ quân y cho Đoàn 10, hiện đang trên đường cùng giao liên xuống vùng ven”. Như có linh tính mách bảo, Trung đoàn trưởng Ước hồi hộp, thấp thỏm chờ mong. Mấy ngày sau, nữ y sĩ tóc ngắn ngang vai, nước da tái mét vì sốt rét rừng, vai mang ba lô có mặt tại Sở chỉ huy Đoàn 10. Hai vợ chồng, hai người đồng chí ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, nước mắt lưng tròng vui ngày gặp lại…
Đại tá Lê Bá Ước đứng dậy, đi tới khoảng đất trống bên bờ suối. Đứng lặng hồi lâu, ông mới lên tiếng: “Mấy chục năm trước, chỗ này là nơi vợ tôi thực hiện ca phẫu thuật đầu tiên chỉ bằng dao lam và chai thuốc đỏ, lấy mảnh đạn ra khỏi cơ thể chiến sĩ Chu Văn Khí ngay sau khi cô ấy vừa tới rừng Sác nhận nhiệm vụ. Thành công đầu tiên đã giúp vợ tôi nhanh chóng hòa nhịp cùng đội hình trung đoàn, được anh em tin yêu, quý mến. Vất vả, cực nhọc, khí hậu khắc nghiệt khiến mái tóc cô ấy dần trở nên khô, xơ và làn da cũng ngăm đen chẳng khác gì đặc công rừng Sác”.
Mặc dù hai vợ chồng cùng đơn vị nhưng mỗi người một nhiệm vụ nên họ rất ít được gặp nhau. Trong khu rừng ngập mặn, ngoài bom đạn của kẻ thù làm bộ đội thương vong còn có cả hùm, beo, đặc biệt là cá sấu. Tính mạng của những người lính đặc công bị đe dọa bất cứ lúc nào. Bởi vậy, chị Tư Mến luôn phải lặn lội từ tiền phương về hậu cứ rồi lại thức trắng đêm câu cá nuôi thương binh, đột kích vào ấp chiến lược lấy gạo về nấu cơm cho bộ đội… Có lẽ vì thế mà cả trung đoàn đều coi chị Tư là “cô Tấm” của Đoàn 10, còn anh Bảy là “linh hồn” của rừng Sác.
Gia đình Đại tá Bảy Ước.
Ông Ước nhớ lại: “Vào một đêm sau Tết Mậu Thân 1968, bọn địch giội bom phản kích ác liệt. Tôi triệu tập bộ phận hậu cứ về báo cáo tình hình. Thế là ngay trong đêm, vợ tôi cùng đồng chí quản lý Ba Hùng lập tức xuống xuồng về sở chỉ huy báo cáo. Đêm đó, máy bay B-52 của Mỹ giội bom 6 lần cày xới khắp chiến khu. Mỗi lần nghe tiếng máy bay gầm rú là tôi lại thót tim lo lắng cho sự an nguy của vợ và của đồng đội đang phải mò mẫm vượt khói lửa trong đêm. May sao, tờ mờ sáng cả hai đã bình an về tới sở chỉ huy. Lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm…”.
Nỗi lòng người ở lại
Cuối năm 1969, chiến tranh ngày càng ác liệt, rừng Sác như một “chảo lửa” hứng chịu mưa bom bão đạn của quân thù nhằm tận diệt những con người huyền thoại. Thời gian đó, chị Tư Mến sinh đứa con thứ 3. Lại một lần nữa vợ chồng chị bàn nhau đem con gửi ở gia đình một cơ sở của ta trong ấp chiến lược để chị thuận tiện làm nhiệm vụ. Thế là, đứa bé mới 15 ngày tuổi đã phải xa mẹ đi ở nhờ, khóc ngằn ngặt vì khát sữa. Hai vợ chồng chiến sĩ nén lòng động viên nhau chiến đấu quên mình với ước nguyện chiến tranh mau kết thúc. Nào ngờ, chưa đầy 3 tháng sau người vợ đã anh dũng hy sinh trong một trận máy bay oanh kích của địch…
Hơn 40 năm trôi qua, nhưng mỗi lần nhớ lại cái ngày thương tâm ấy, đôi mắt người anh hùng vẫn rưng rưng, hoe đỏ: “Hôm đó là ngày 20-1-1970, tại căn cứ quân y ở xã Tắc Kỳ Quang bên bờ sông Thị Vải, chiếc trực thăng OV-6 rà qua, rà lại nhiều lần. Phát hiện dấu vết lạ, nó ném xuống mặt sình 2 quả pháo màu xanh, đỏ để chỉ điểm rồi bay vút đi. Lúc bấy giờ với cương vị Đại đội phó quân y, Tư Mến thông báo nhanh cho các thương binh rút khỏi khu vực. Còn một mình cô ấy cố thu dọn mang theo một ít thuốc và dụng cụ quân y. Chừng 3 phút sau, cả chục tốp trực thăng lao tới phóng hỏa tiễn 90mm xé nát từng tấc đất trong khu căn cứ. Vợ tôi trúng đạn gãy nát một chân, tư thế nằm sấp đang lao về phía trước, trên vai vẫn mang nặng trĩu túi cứu thương…”.
Ngày ấy, khi nghe tin sét đánh, Trung đoàn trưởng Bảy Ước đã không kìm được lòng, nhưng để trấn an đồng đội anh đã cố tỏ ra cứng rắn, đợi trời tối mới trốn vào hầm một mình khóc. Và hôm nay, trước mặt tôi, ông cũng cố tỏ ra cứng cỏi nhưng nước mắt ông vẫn chảy. “Trước lúc hy sinh, y sĩ Tư Mến còn để lại kỷ vật gì không, thưa bác?” – Tôi hỏi. Ông Bảy nhớ lại: “Ngay cạnh chỗ vợ tôi nằm còn vương mấy mảnh áo gối thêu nhiều màu sắc khá đẹp. Tôi nhận ra đó là 3 chiếc gối vợ tôi mới thêu xong định gửi về tặng các con. Đêm cuối cùng chúng tôi gặp nhau, nằm trên sạp nước dưới ánh trăng rừng, cô ấy đã đưa cho tôi xem. Lúc đó, vợ tôi vui lắm! Nào ngờ…”.
Rừng Sác bây giờ đã đổi thay, dấu vết chiến tranh đã lùi vào quá khứ, nhưng với những người đã gắn bó gần hết cuộc đời nơi rừng thiêng nước độc này như Đại tá Lê Bá Ước thì tất cả vẫn vẹn nguyên. Tình cảm với người vợ, người đồng đội, nữ liệt sĩ quân y đã thôi thúc ông viết văn, làm thơ về đất và người rừng Sác, về những chiến sĩ Đặc công Rừng Sác huyền thoại, lập nên bao chiến tích lẫy lừng. Và những vần thơ ông viết tặng vợ từ bấy đến nay vẫn mộc mạc, chân tình, da diết yêu thương: Ngồi yên trên cát lòng cô quạnh/ Tưởng nhớ người đi lúc chiến tranh/ Rừng Sác mênh mông còn chỗ đó/ Vợ tôi nằm lại mãi yên lành…
Bài và ảnh: HOÀNG THÀNH
(Báo QĐND)
Chia tay…
Năm 1965, Đại úy Lê Bá Ước cùng vợ là Chuẩn úy Nguyễn Thị Kim Mến (Tư Mến) cùng gia đình ra Bắc, mang theo hai con nhỏ. Đứa lớn tên Lê Kim Hương, 4 tuổi. Đứa nhỏ tên Lê Nam Hùng chưa đầy 2 tuổi. Nơi sơ tán là vùng đồi cọ thuộc tỉnh Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc). Mới đến được ít ngày, đôi vợ chồng trẻ lại nôn nao muốn trở về miền Nam cùng đồng đội đánh Mỹ. Hai người bàn bạc, thống nhất, ngay hôm sau, người vợ tiễn chồng ra ga xuống Hà Nội để chuẩn bị vào Nam. Hai đứa nhỏ mếu máo dõi theo, vẫy tay líu ríu: “Ba, má nhớ về sớm với con!”. Người chồng không dám nhìn lại sợ ánh mắt các con níu kéo. Trên đường tiễn chồng ra ga, chị Mến bảo: “Anh đi rồi, em cũng sẽ thu xếp gửi hai con ở lại miền Bắc, vượt Trường Sơn để vào chia lửa cùng anh và đồng đội”. “Em còn phải học nâng cao, trở thành bác sĩ mới cứu chữa được cho nhiều thương binh. Với lại, anh đi xa, các con còn nhỏ rất cần được mẹ nâng niu, chăm sóc…” - Nắm chặt tay vợ, anh Ước dặn dò. “Nhất định em sẽ vào cùng anh. Hai con em gửi ông bà trông nom giúp. Vợ chồng mình đều là những đứa con của miền Nam. Trong lúc chiến tranh ác liệt thế này, em không nỡ rời xa anh, rời xa đồng đội”. Người phụ nữ quê Rạch Giá (Kiên Giang) thuyết phục chồng. Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói cương quyết của vợ, Bảy Ước gật đầu: “Thôi được, vợ chồng mình gặp lại ở chiến trường. Nhưng em nhớ cắt ngắn mái tóc cho đỡ vướng víu và bụi bặm khi vượt Trường Sơn. Nhớ mang theo mấy thứ đồ phụ nữ thường dùng, gọn nhẹ thôi kẻo đi đường cực nhọc lắm!”. Họ chia tay trong nắng chiều vàng óng. Người vợ quay đi giấu đôi dòng nước mắt nóng bỏng, nghẹn ngào tiễn chân chồng về đơn vị cũ.
Mấy ngày sau, chị xuống trường trả lại quyết định gọi học đại học với lý do đơn giản: “Anh em thương binh đang rất cần tôi chăm sóc. Khi nào kết thúc chiến tranh, tôi sẽ đi học nâng cao cũng được”.
Chung một chiến hào
Vào một ngày cuối thu năm 1967, Bảy Ước đang cùng đồng đội ở Trung đoàn Đặc công kiên cường bám trụ nơi chiến trường rừng Sác thì nhận được tin báo: “R” (Trung ương Cục miền Nam) quyết định bổ sung một nữ quân y cho Đoàn 10, hiện đang trên đường cùng giao liên xuống vùng ven”. Như có linh tính mách bảo, Trung đoàn trưởng Ước hồi hộp, thấp thỏm chờ mong. Mấy ngày sau, nữ y sĩ tóc ngắn ngang vai, nước da tái mét vì sốt rét rừng, vai mang ba lô có mặt tại Sở chỉ huy Đoàn 10. Hai vợ chồng, hai người đồng chí ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, nước mắt lưng tròng vui ngày gặp lại…
Đại tá Lê Bá Ước đứng dậy, đi tới khoảng đất trống bên bờ suối. Đứng lặng hồi lâu, ông mới lên tiếng: “Mấy chục năm trước, chỗ này là nơi vợ tôi thực hiện ca phẫu thuật đầu tiên chỉ bằng dao lam và chai thuốc đỏ, lấy mảnh đạn ra khỏi cơ thể chiến sĩ Chu Văn Khí ngay sau khi cô ấy vừa tới rừng Sác nhận nhiệm vụ. Thành công đầu tiên đã giúp vợ tôi nhanh chóng hòa nhịp cùng đội hình trung đoàn, được anh em tin yêu, quý mến. Vất vả, cực nhọc, khí hậu khắc nghiệt khiến mái tóc cô ấy dần trở nên khô, xơ và làn da cũng ngăm đen chẳng khác gì đặc công rừng Sác”.
Mặc dù hai vợ chồng cùng đơn vị nhưng mỗi người một nhiệm vụ nên họ rất ít được gặp nhau. Trong khu rừng ngập mặn, ngoài bom đạn của kẻ thù làm bộ đội thương vong còn có cả hùm, beo, đặc biệt là cá sấu. Tính mạng của những người lính đặc công bị đe dọa bất cứ lúc nào. Bởi vậy, chị Tư Mến luôn phải lặn lội từ tiền phương về hậu cứ rồi lại thức trắng đêm câu cá nuôi thương binh, đột kích vào ấp chiến lược lấy gạo về nấu cơm cho bộ đội… Có lẽ vì thế mà cả trung đoàn đều coi chị Tư là “cô Tấm” của Đoàn 10, còn anh Bảy là “linh hồn” của rừng Sác.
Ông Ước nhớ lại: “Vào một đêm sau Tết Mậu Thân 1968, bọn địch giội bom phản kích ác liệt. Tôi triệu tập bộ phận hậu cứ về báo cáo tình hình. Thế là ngay trong đêm, vợ tôi cùng đồng chí quản lý Ba Hùng lập tức xuống xuồng về sở chỉ huy báo cáo. Đêm đó, máy bay B-52 của Mỹ giội bom 6 lần cày xới khắp chiến khu. Mỗi lần nghe tiếng máy bay gầm rú là tôi lại thót tim lo lắng cho sự an nguy của vợ và của đồng đội đang phải mò mẫm vượt khói lửa trong đêm. May sao, tờ mờ sáng cả hai đã bình an về tới sở chỉ huy. Lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm…”.
Nỗi lòng người ở lại
Cuối năm 1969, chiến tranh ngày càng ác liệt, rừng Sác như một “chảo lửa” hứng chịu mưa bom bão đạn của quân thù nhằm tận diệt những con người huyền thoại. Thời gian đó, chị Tư Mến sinh đứa con thứ 3. Lại một lần nữa vợ chồng chị bàn nhau đem con gửi ở gia đình một cơ sở của ta trong ấp chiến lược để chị thuận tiện làm nhiệm vụ. Thế là, đứa bé mới 15 ngày tuổi đã phải xa mẹ đi ở nhờ, khóc ngằn ngặt vì khát sữa. Hai vợ chồng chiến sĩ nén lòng động viên nhau chiến đấu quên mình với ước nguyện chiến tranh mau kết thúc. Nào ngờ, chưa đầy 3 tháng sau người vợ đã anh dũng hy sinh trong một trận máy bay oanh kích của địch…
Hơn 40 năm trôi qua, nhưng mỗi lần nhớ lại cái ngày thương tâm ấy, đôi mắt người anh hùng vẫn rưng rưng, hoe đỏ: “Hôm đó là ngày 20-1-1970, tại căn cứ quân y ở xã Tắc Kỳ Quang bên bờ sông Thị Vải, chiếc trực thăng OV-6 rà qua, rà lại nhiều lần. Phát hiện dấu vết lạ, nó ném xuống mặt sình 2 quả pháo màu xanh, đỏ để chỉ điểm rồi bay vút đi. Lúc bấy giờ với cương vị Đại đội phó quân y, Tư Mến thông báo nhanh cho các thương binh rút khỏi khu vực. Còn một mình cô ấy cố thu dọn mang theo một ít thuốc và dụng cụ quân y. Chừng 3 phút sau, cả chục tốp trực thăng lao tới phóng hỏa tiễn 90mm xé nát từng tấc đất trong khu căn cứ. Vợ tôi trúng đạn gãy nát một chân, tư thế nằm sấp đang lao về phía trước, trên vai vẫn mang nặng trĩu túi cứu thương…”.
Ngày ấy, khi nghe tin sét đánh, Trung đoàn trưởng Bảy Ước đã không kìm được lòng, nhưng để trấn an đồng đội anh đã cố tỏ ra cứng rắn, đợi trời tối mới trốn vào hầm một mình khóc. Và hôm nay, trước mặt tôi, ông cũng cố tỏ ra cứng cỏi nhưng nước mắt ông vẫn chảy. “Trước lúc hy sinh, y sĩ Tư Mến còn để lại kỷ vật gì không, thưa bác?” – Tôi hỏi. Ông Bảy nhớ lại: “Ngay cạnh chỗ vợ tôi nằm còn vương mấy mảnh áo gối thêu nhiều màu sắc khá đẹp. Tôi nhận ra đó là 3 chiếc gối vợ tôi mới thêu xong định gửi về tặng các con. Đêm cuối cùng chúng tôi gặp nhau, nằm trên sạp nước dưới ánh trăng rừng, cô ấy đã đưa cho tôi xem. Lúc đó, vợ tôi vui lắm! Nào ngờ…”.
Rừng Sác bây giờ đã đổi thay, dấu vết chiến tranh đã lùi vào quá khứ, nhưng với những người đã gắn bó gần hết cuộc đời nơi rừng thiêng nước độc này như Đại tá Lê Bá Ước thì tất cả vẫn vẹn nguyên. Tình cảm với người vợ, người đồng đội, nữ liệt sĩ quân y đã thôi thúc ông viết văn, làm thơ về đất và người rừng Sác, về những chiến sĩ Đặc công Rừng Sác huyền thoại, lập nên bao chiến tích lẫy lừng. Và những vần thơ ông viết tặng vợ từ bấy đến nay vẫn mộc mạc, chân tình, da diết yêu thương: Ngồi yên trên cát lòng cô quạnh/ Tưởng nhớ người đi lúc chiến tranh/ Rừng Sác mênh mông còn chỗ đó/ Vợ tôi nằm lại mãi yên lành…
Bài và ảnh: HOÀNG THÀNH
(Báo QĐND)
Chỉnh sửa cuối: