Lan Gấm là một loại địa lan, được tìm thấy trong Phân họ Orchidoideae, phân tông Goodyerinae với khoảng 35 chi và khoảng hơn 450 loài. Chi Lan gấm là từ tiếng Hy Lạp "Open Lip", được tạo ra vào năm 1825 bởi Carl Blume trong "Bijdragen Tot de Flora của Nederlandsch Indies".Loại địa lan này có hoa nhỏ nhưng màu sắc lá và vân lá đa dạng, rất đẹp. Chúng sinh sống trên các triền núi đá vôi, dọc theo khe suối, dưới các tán cây to trong rừng ẩm ở độ cao 500-1.600 mét. Cây ưa độ ẩm cao và ưa bóng râm, kỵ ánh sáng, yêu cầu đất nhiều mùn, tơi xốp, thoáng khí. Cây cao 10–20 cm, thân màu tím, mọng nước, phần cây non có nhiều lông mềm, mang 2-6 lá mọc cách, xòe trên mặt đất. Lá hình trái xoan hoặc hình trứng, gần tròn ở gốc và nhọn ở đầu, dài 3–4 cm và rộng 2–3 cm, trên mỗi chiếc lá có 3-5 sọc gân dọc.Cuống lá dài 2–3 cm, gốc cuống tạo thành bẹ lá ôm lấy thân. Hoa mọc thành từng cụm, với cụm hoa dài 10–15 cm, mang 5-10 hoa màu hồng phủ lông đỏ, dài 2,5 cm với cánh môi dài 1,5 cm mang 6-8 ria mỗi bên, đầu môi chẻ thành 2 thùy thuôn đầu tròn. Bầu dài 13 mm, có lông thưa. Cây ra hoa vào tháng 10-12 và mùa quả chín vào tháng 12 tới tháng 3 năm sau. Có thể sinh sản vô tính chủ yếu bằng chồi và thân rễ.
Các loài Lan Gấm đều quý. Loài thì cho giá trị rất cao trong thế giới sinh vật cảnh, như loài Anoectochilus albo-lineatus Paret Rchbf. rất nổi tiếng, có hình ảnh trên tất cả các tạp chí cây cảnh. Ở Việt Nam hiện nay thống kê được khoảng hơn 15 loài trong đó chỉ có 2 loài là cây thuốc rất quý : 1)lan gấm ngọc vân bạc (Anoectochilus formosanus Hayata) và 2) lan gấm ngọc vân hồng (Anoectochilus roxburghii). Các loài này sinh sống dọc theo dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Trường Sơn.