- Biển số
- OF-542866
- Ngày cấp bằng
- 24/11/17
- Số km
- 3,509
- Động cơ
- 368,212 Mã lực
Từ xa xưa, theo tín ngưỡng của người Trung Quốc, người ta đốt vàng mã để cho người thân đã chết có tiền tiêu, có đồ dùng. Đây là theo quan niệm của người Trung Quốc, không phải của Đạo Phật, vì rõ ràng ở Ấn Độ – xuất xứ Đạo Phật không hề có tục lệ đốt vàng.
Nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v… để chôn theo người chết. Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người ta còn đặt ra tục “Tuẫn táng”; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn sẽ phải đem chôn sống để tiếp tục hầu hạ các ngài đó dưới âm.
Đến thời nhà Hán, tục lệ ” Tuẫn Táng” chôn người sống theo với người chết, mới được bỏ. Năm 105 sau công nguyên ông Vương Dũ lấy giấy chế ra vàng bạc, quần áo v.v… để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ.
Phần lớn dân chúng TQ hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp. Bị phá sản, Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, mới cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống.
Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. Khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.
Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ.
Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng. Đó là câu chuyện được chép từ sách cổ Trực Ngôn Cảnh Giáo.
-Con người khi chết sẽ đi về đâu
Theo quan niệm của nhà Phật thì có mười cảnh giới gồm bốn cảnh giới Thánh và sáu cảnh giới phàm. Trong đó 4 cảnh giới Thánh (Phật, Bồ Tát, Duyên giác và Thanh Văn) rất ít vong linh được quán vào 4 cảnh giới này mà chủ yếu là 6 cảnh giới phàm ( hay còn gọi là lục đạo luân hồi): Cõi trời, cõi người, cõi atula, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục.
Trong đó hai cảnh giới đầu là cõi trời, cõi người là cảnh giới hạnh phúc, bốn cảnh giới sau là cảnh giới ác đạo là cảnh giới khổ đau. Tùy theo sự tu tâm, tích đức hay gây ác nghiệp khi sống mà sau khi chết, vong linh được quán vào một trong sáu cảnh giới luân hồi nói trên.
Khi vong linh được quán vào bốn cảnh giới ác đạo ( Atula, súc sinh, ngạ quả, địa ngục), nếu cố gắng tu tập phật pháp thì sẽ vượt dần từng cảnh giới thì sẽ được luân hồi về cõi người.
Ví dụ, một người trên cõi trần làm nhiều điều ác khi chết bị quán vào cõi địa ngục. Tại cõi địa ngục vong linh đó tu tập phật pháp thì vượt dần lên cõi ngạ quỷ, rồi cõi atula, rồi cõi súc sinh rồi trở về cõi người. Khi vong linh vượt về cõi người thì sẽ đầu thai về làm người. Vì vậy, người trần cần phải làm sao cho người âm có điều kiện tĩnh tâm để tu tập vượt cõi giới.
-Quan điểm của Phật giáo về đốt vàng mã
Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Theo quan niệm phật giáo, nếu chúng ta dâng vàng, nhà lầu, xe hơi, ti vi…. thì chỉ làm cho các vong linh luyến tiếc cõi trần mà không còn tĩnh tâm để tu tập vượt cảnh giới. Họ càng chìm sâu vào khổ đau trong cảnh giới ác đạo.
Thành thực trả lời những câu hỏi đó cũng đủ thấy đốt vàng mã là mê tín dị đoan, không hề phù hợp hay có cơ sở. Nếu cha mẹ cõi âm chỉ mong chờ ngày này để được miếng cơm, manh áo, căn nhà… thì những tháng ngày còn lại, tổ tiên ông bà, cha mẹ ăn, mặc, ngủ, nghỉ ở đâu”.
Các nhà tu hành đều cho rằng: Người dương biết làm phúc, thì người âm dễ siêu thoát. Chúng ta nên lên chùa, thành tâm cầu nguyện hồi hướng tâm đức. Nếu có tiền để mua sắm vàng mã đốt cho cha mẹ, thì nên dùng tiền đó để chia sẻ cho những người nghèo khó. Bởi “Cứu một người dương gian bằng ngàn người âm phủ”. Còn cầu nguyện, chỉ cần tấm lòng thành, nếu không thành tâm thì làm gì cũng vô ích”.
Cổ tục đốt vàng mã đã có từ lâu đời, ăn sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam nên rất khó từ bỏ trong một sớm một chiều. Tuy vậy, chúng ta cố gắng nên hạn chế là tốt nhất.
-Ích lợi của việc đốt vàng mã
Một trong những lợi ích to lớn của việc đốt vàng mã đem lại là báo hiếu. Tâm người hóa vàng sẽ cảm thấy an lạc vì đã làm được điều gì đó để báo hiếu ông bà cha mẹ, tổ tiên những người đã mất và hơn cả là dân tộc là chúng sanh. Do phong tục này đã ngấm và da thịt mỗi người con đất Việt nên tới những ngày giỗ, ngày lễ mà không làm sẽ có cảm giác day dứt như mình chưa làm tròn bổn phận của người con, cháu. Vậy việc hóa vàng mã để tâm mình an lạc, thoải mái, không muộn phiền là điều chúng ta vẫn nên làm.
Việc làm cúng gia tiên như làm cơm, khấn, cúng, hóa vàng mã tiền âm phủ không chỉ mang ý nghĩa báo hiếu với tổ tiên, ông bà cha mẹ mà còn mang ý nghĩa với người đang sống. Như một cách thầm giáo dục con cháu sống hòa thuận, sống có tâm có hiếu, sống tích cực luôn hướng tới những thiện trong cuộc sống. Đây là điều xuyên suốt trong tư tưởng đạo Phật cũng như văn hóa dân tộc.
Thỏ cho rằng nên giữ việc đốt vàng mã như một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và ý nghĩa giáo dục với con cháu. Nhưng nếu chúng ta cho rằng đốt vàng mã cho tổ tiên càng nhiều thì càng tốt lại là một sai lầm. Cái gì cũng có chừng mực. Tín ngưỡng có nghĩa là tín nhưng phải có ngưỡng là vậy.
Hôm nay, Lào Cai có vụ hóa vàng cháy 2 xe ô tô, may không ai bị thiệt mạng rồi trong nhữn buổi cúng kiếng tại các đền, nhìn đống mã mà phát sợ.
Thôi thì nhàn đàm bốc phét, ý kiến của các bác về tục lệ này ra sao?
Nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v… để chôn theo người chết. Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người ta còn đặt ra tục “Tuẫn táng”; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn sẽ phải đem chôn sống để tiếp tục hầu hạ các ngài đó dưới âm.
Đến thời nhà Hán, tục lệ ” Tuẫn Táng” chôn người sống theo với người chết, mới được bỏ. Năm 105 sau công nguyên ông Vương Dũ lấy giấy chế ra vàng bạc, quần áo v.v… để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ.
Phần lớn dân chúng TQ hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp. Bị phá sản, Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, mới cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống.
Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. Khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.
Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ.
Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng. Đó là câu chuyện được chép từ sách cổ Trực Ngôn Cảnh Giáo.
-Con người khi chết sẽ đi về đâu
Theo quan niệm của nhà Phật thì có mười cảnh giới gồm bốn cảnh giới Thánh và sáu cảnh giới phàm. Trong đó 4 cảnh giới Thánh (Phật, Bồ Tát, Duyên giác và Thanh Văn) rất ít vong linh được quán vào 4 cảnh giới này mà chủ yếu là 6 cảnh giới phàm ( hay còn gọi là lục đạo luân hồi): Cõi trời, cõi người, cõi atula, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục.
Trong đó hai cảnh giới đầu là cõi trời, cõi người là cảnh giới hạnh phúc, bốn cảnh giới sau là cảnh giới ác đạo là cảnh giới khổ đau. Tùy theo sự tu tâm, tích đức hay gây ác nghiệp khi sống mà sau khi chết, vong linh được quán vào một trong sáu cảnh giới luân hồi nói trên.
Khi vong linh được quán vào bốn cảnh giới ác đạo ( Atula, súc sinh, ngạ quả, địa ngục), nếu cố gắng tu tập phật pháp thì sẽ vượt dần từng cảnh giới thì sẽ được luân hồi về cõi người.
Ví dụ, một người trên cõi trần làm nhiều điều ác khi chết bị quán vào cõi địa ngục. Tại cõi địa ngục vong linh đó tu tập phật pháp thì vượt dần lên cõi ngạ quỷ, rồi cõi atula, rồi cõi súc sinh rồi trở về cõi người. Khi vong linh vượt về cõi người thì sẽ đầu thai về làm người. Vì vậy, người trần cần phải làm sao cho người âm có điều kiện tĩnh tâm để tu tập vượt cõi giới.
-Quan điểm của Phật giáo về đốt vàng mã
Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Theo quan niệm phật giáo, nếu chúng ta dâng vàng, nhà lầu, xe hơi, ti vi…. thì chỉ làm cho các vong linh luyến tiếc cõi trần mà không còn tĩnh tâm để tu tập vượt cảnh giới. Họ càng chìm sâu vào khổ đau trong cảnh giới ác đạo.
Thành thực trả lời những câu hỏi đó cũng đủ thấy đốt vàng mã là mê tín dị đoan, không hề phù hợp hay có cơ sở. Nếu cha mẹ cõi âm chỉ mong chờ ngày này để được miếng cơm, manh áo, căn nhà… thì những tháng ngày còn lại, tổ tiên ông bà, cha mẹ ăn, mặc, ngủ, nghỉ ở đâu”.
Các nhà tu hành đều cho rằng: Người dương biết làm phúc, thì người âm dễ siêu thoát. Chúng ta nên lên chùa, thành tâm cầu nguyện hồi hướng tâm đức. Nếu có tiền để mua sắm vàng mã đốt cho cha mẹ, thì nên dùng tiền đó để chia sẻ cho những người nghèo khó. Bởi “Cứu một người dương gian bằng ngàn người âm phủ”. Còn cầu nguyện, chỉ cần tấm lòng thành, nếu không thành tâm thì làm gì cũng vô ích”.
Cổ tục đốt vàng mã đã có từ lâu đời, ăn sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam nên rất khó từ bỏ trong một sớm một chiều. Tuy vậy, chúng ta cố gắng nên hạn chế là tốt nhất.
-Ích lợi của việc đốt vàng mã
Một trong những lợi ích to lớn của việc đốt vàng mã đem lại là báo hiếu. Tâm người hóa vàng sẽ cảm thấy an lạc vì đã làm được điều gì đó để báo hiếu ông bà cha mẹ, tổ tiên những người đã mất và hơn cả là dân tộc là chúng sanh. Do phong tục này đã ngấm và da thịt mỗi người con đất Việt nên tới những ngày giỗ, ngày lễ mà không làm sẽ có cảm giác day dứt như mình chưa làm tròn bổn phận của người con, cháu. Vậy việc hóa vàng mã để tâm mình an lạc, thoải mái, không muộn phiền là điều chúng ta vẫn nên làm.
Việc làm cúng gia tiên như làm cơm, khấn, cúng, hóa vàng mã tiền âm phủ không chỉ mang ý nghĩa báo hiếu với tổ tiên, ông bà cha mẹ mà còn mang ý nghĩa với người đang sống. Như một cách thầm giáo dục con cháu sống hòa thuận, sống có tâm có hiếu, sống tích cực luôn hướng tới những thiện trong cuộc sống. Đây là điều xuyên suốt trong tư tưởng đạo Phật cũng như văn hóa dân tộc.
Thỏ cho rằng nên giữ việc đốt vàng mã như một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và ý nghĩa giáo dục với con cháu. Nhưng nếu chúng ta cho rằng đốt vàng mã cho tổ tiên càng nhiều thì càng tốt lại là một sai lầm. Cái gì cũng có chừng mực. Tín ngưỡng có nghĩa là tín nhưng phải có ngưỡng là vậy.
Hôm nay, Lào Cai có vụ hóa vàng cháy 2 xe ô tô, may không ai bị thiệt mạng rồi trong nhữn buổi cúng kiếng tại các đền, nhìn đống mã mà phát sợ.
Thôi thì nhàn đàm bốc phét, ý kiến của các bác về tục lệ này ra sao?