Về những trò giải -trí của dân ta hồi ấy, đặc- biệt là dịp Tết, S.Baron mô tả:
" Phần lớn họ đi thăm nhau vào lúc chiều tối. Thật là bất lịch sự khi đến nhà một người có chức vụ lớn nào trước bữa trưa, trừ phi có công việc khẩn cấp cần thiết, hoặc được mời riêng, bởi vì sau đó họ sẽ còn rất ít thời gian. Do vào buổi sáng thì họ đi đến triều đình từ rất sớm để hầu chúa, cuộc họp này sẽ kéo dài đến 8 giờ; khi trở về nhà, họ tự sắp xếp việc nhà của họ trong một lúc, cùng với những người hầu cận (nếu công việc xã hội quan trọng hơn cho phép); khoảng thời gian ít ỏi sau đó cho đến bữa trưa để cho họ lui về nghỉ ngơi.
Những hoàng tử, hay các viên quan đại thần, thì cưỡi voi hoặc là được khiêng trên võng, hầu hết người hầu cận, quân lính, tùy sai đi theo phía sau, không bao giờ có tình trạng khác, khi mà số lượng người hầu nhiều hay ít tùy theo mức độ địa vị của một người. Những người cấp thấp hơn cưỡi ngựa, và được theo hầu bởi số lượng người tùy theo khả năng quả lý của họ, không có giới hạn, thường thì không quá 10 người - nhưng chắc chắn đó là tất cả số lượng có thể đi hoặc phải đi, vì họ rất tham muốn có được nhiều tùy sai.
Nếu người đến thăm có địa vị cao hơn người được viếng thăm, người tiếp đón sẽ không dám đưa mời người kia thức ăn hay nước uống, không, không có ngay cả một lá trầu, trừ phi ông kia gọi. Nước và trầu của họ thường được các người hầu đem theo cùng.
Để đàm luận với họ, đặc biệt nếu người kia có quyền lực, cẩn thận đừng chạm đến những chủ đề tang tóc buồn thảm, dù là gián tiếp hay trực tiếp, những chủ đề hài lòng vui vẻ được gợi ý từ họ là tốt nhất. Nhưng những thứ khó chịu nhất về những vị chúa này là, khi họ cho phép người trong đoàn của mình (một nhóm người ngu độn hung bạo vô lễ) đi theo họ vào trong bất cứ nơi riêng tư nhất nào của nhà người khác, đặc biệt khi họ đến thăm nhà người châu Âu, nơi mà họ hành xử hết sức ngớ ngẩn, và cho phép chúng nói chuyện và đùa giỡn rất xúc phạm và vô lễ; hơn thế nữa, chúng ăn trộm bất cứ thứ gì mà chúng có thể lấy. Với những hành động đó, chủ nhân ngốc nghếch của chúng lại lấy làm vui vẻ thay vì kiểm tra lại sự láo xược và tội lỗi của chúng. Nhưng khi họ được mời bởi người cấp cao hay đồng cấp, mà sau đó họ tiếp đãi khách vào dịp nào có thể, với trà hay bữa ăn, không bỏ quên trầu cau luôn là món đầu và cuối bữa tiệc. Cái hộp đựng trầu phần chung được sơn đơn giản màu đen hoặc màu đỏ, hoặc vài màu sậm tối nào đó, nhưng tầng lớp quý tộc, các hoàng tử và công chúa mang dòng máu hoàng tộc thì dùng những cái hộp nặng bằng vàng, bạc, mai rùa, hay được nạm trai. Những cái hộp sơn vẽ cầu kỳ màu mè chỉ được dùng trong các chùa. Nhưng những cái hộp quý giá mà ông Taverniere nói rằng đã thấy, có giá trị 4 hay 5000 quan, trong triều đình Đại Thanh, thì chắc chắn không phải là của Bắc Hà - vì kim cương, hồng ngọc, lục bảo không sản sinh ở vùng đất ấy, cũng như người bản xứ không có nhu cầu sử dụng chúng, cũng không được các sứ thần Bắc Hà đem về - Khi mà nhà vua không có yêu cầu, và cũng chẳng có giao dịch nhỏ nhất nào giữa hai đất nước.
Họ hiếm khi đến thăm người bệnh, và họ khó mà quan tâm đến ai ngoài thân thuộc và họ hàng của mình để mà để ý đến sự sống chết của người khác, hay tình cảnh của kẻ kia có khốn khổ thế nào, và sự nhắc nhở nhỏ nhất để giải quyết những sự vụ và mối quan tâm của người khác được coi là một tội lỗi ghê tởm và sự quấy rầy không thể tha thứ. Để rồi những người ấy chết mà không có nguyện vọng gì - thiếu sót này thường tạo ra những vụ án phiền phức trong những người họ hàng, nếu không có con cái kế thừa dù chỉ là ngôi nhà đổ nát của họ và những sự thua thiệt trong những điều mà họ tranh giành.
Trong sảnh của những người địa vị cao là một vài góc thụt vào, nơi mà họ ngồi khoanh chân trên chiếu - tùy theo địa vị của họ, nơi ngồi càng cao thì càng vinh dự, và những chỗ ngồi này đều được phủ chiếu có độ tốt tùy theo nơi trải, ngoại trừ buổi sáng, khi họ thích dùng những cái chiếu thô hơn. Về thảm trải thì họ không hề có, cũng như không thể mua được, vì thế tôi tự hỏi về những gì mà tác giả nói về những chiếc chiếu mềm như thảm tốt mà cái rẻ nhất cũng phải từ 30 tới 50 rúp trở lên ở Ba Tư và Surat - nơi mà những chiếc thảm tốt nhất có thể đem tới nơi đây bán với giá 3 hoặc 4 siling là cao nhất. Tôi cũng chẳng tin là có người châu Âu nào ngoài ông ấy đã được thấy một tấm chiếu Bắc Hà nào rộng quá 9 ell (Đơn vị đo cổ của Anh, chừng 45 inch) và mềm như nhung. Tuy nhiên, nó cũng giống những chuyện hoang đường khác của ông ấy. Những người này cũng không dùng nệm dù để ngồi hay nằm, nhưng họ có một loại tấm lót làm từ tranh sậy hay chiếu để nằm ngủ hoặc dựa vào.
Với thức ăn, họ có đủ lòng hiếu kỳ, dù món ăn của họ không làm hài lòng người ngoại quốc. Bữa ăn bình thường gồm có trà xanh, gạo và cá muối hay tương tự. Những quan chức nếu muốn thì có thể được ăn những thứ tốt nhất trong vùng.
Tôi không thể so sánh về sự gọn gàng giữa người châu Âu và họ, khi mà trong nhà họ có rất ít hoặc không hề có đồ trang trí nào ngoài thường lệ là những cái giường thiết yếu nhất, đôi lúc có bàn và trường kỷ, hiếm khi có ghế. Họ không dùng khăn trải bàn hay khăn ăn, họ cũng chẳng muốn dùng chúng khi mà họ không dùng tay chạm vào thức ăn mà dùng đôi đũa như người TQ hay Nhật Bản. Tất cả thức ăn của họ được phục vụ trong những cái đĩa lớn nhỏ, không được làm từ gỗ được chạm trổ hay sơn như ông Taverierer nói, mà là đồ vật từ Nhật Bản và TQ rất được coi trọng ở đây. Người có tiền hay địa vị có một loại nghi thức và khuôn phép nào đó trong bữa ăn, nhưng tất cả còn lại, chừng nào họ ngồi vào bàn - những chiếc bàn sơn nhỏ - họ chẳng quan tâm đến ngay cả nói chuyện, và đây chẳng phải do lễ phép tốt hay lòng kính trọng nào với người cao tuổi, mà chỉ là khao khát tham lam lấp đầy bao tử. Họ thật sự là những người ăn giỏi và sành ăn, cũng có thể là họ sợ mất phần khi nói chuyện, vì thế tất cả đều làm nên sự im lặng vội vàng tốt nhất có thể để vét sạch các đĩa thức ăn. Tôi thường thấy những người theo hầu và tùy sai của các quan ăn như đấu thể thao, và đã từng hâm mộ khả năng ăn của họ cả về số lượng lẫn sự tham ăn - mà tôi tin rằng không quốc gia nào dưới mái vòm thiên đàng có thể ngang với họ.
Về thức uống, mặc dù người nhà quê và tầng lớp trung lưu hiếm khi rơi vào sự quá độ và cám dỗ của rượu mạnh, nhưng giữa những người trong cung điện và quân lính, say xỉn không phải là tật xấu. Một anh chàng có thể uống một cách thông minh, là một con dao dũng cảm. Họ không có thói tục rửa tay khi đến bàn ăn mà chỉ rửa miệng vì họ ăn trầu cau; nhưng sau bữa ăn, họ thường rửa cả hai, và làm sạch răng bằng một mảnh tre được làm sẵn cho mục đích này, rồi ăn trầu. Ở nhà một người bạn, sự tiếp đãi có thể rất tự do, nếu ông ta hài lòng thì có thể gọi thêm cơm hay bất cứ thứ gì khác, nếu ông không hài lòng, chủ nhà đều tử tế chấp nhận. Họ không hỏi người khác về tình trạng của người kia, nhưng thăm hỏi bằng 'Anh đã ở đâu lâu thế?' và 'Anh làm gì trong thời gian này?'. Và nếu họ biết hay đoán ra qua vẻ mặt, rằng người kia bị bệnh hay khó ở, thì họ sẽ hỏi 'Anh ăn bao nhiêu chén cơm một ngày?' (Họ ăn 3 bữa 1 ngày, ngoài bữa ăn nhẹ buổi chiều trong những người giàu có quyền lực) hay là 'Anh ăn có ngon miệng không?'.
Trong những trò giải trí của người Bắc Hà, họ hay dùng nhất là khiêu vũ, đàn ca và hát hò, những thứ này phần đông được tổ chức vào ban đêm và diễn ra cho đến sáng, là thứ mà ông Taverniere gọi là hài kịch - một cái tên rất khiếm nhã, không phản ánh đúng chúng ở bất cứ mặt nào, cũng như những gì ông nói rằng chúng được biểu diễn với những trang hoàng đẹp đẽ cùng các máy móc, rất hài lòng để thưởng thức, và họ thật là khéo léo để biểu diễn ra biển và sông, cùng những trận hải chiến như thể họ có thể diễn lại trận chiến năm 1588 giữa Anh và Tây Ba Nha. Họ cũng chẳng có bất cứ nhà hát nào để biểu diễn mà chỉ diễn trong sảnh của nhà các quan và sân của các nhà khác cũng có thể phục vụ. Nhưng ở trong các làng, họ có các căn nhà để hát, được xây bởi 3, 4 làng hay hơn nữa, họ tổ chức lễ hội trong này, hát và thết tiệc theo kiểu của họ. Những nghệ sĩ của một nhà thường là 3, 4 hay 5 người, tiền lương của họ không quá 1000 đồng - giá trị khoảng 1 dollar - cho 1 đêm biểu diễn. Nhưng những khán giả tự do có thể tặng quà cho họ, bất cứ khi nào họ biểu diễn khéo. Họ thường mặc vải mỏng nội địa, palong, vải bóng và tương tự. Họ chỉ có vài bài hát, không quá 5 điệu, và hầu hết được soạn để ca ngợi vua và chúa, rải rác có vài đoạn tình ca xen giữa thi thư tao nhã. Người nữ chỉ múa, và người múa cũng phải hát, và đôi lúc bị ngắt ngang bởi người nam đóng vai anh hề, người thường là kẻ bắt chước khôn khéo nhất họ tìm được, và kẻ như thế lại có thể khiến đám đông cười trước cử chỉ và hình dáng của anh ta. Nhạc cụ của họ gồm có trống, chũm chọe đồng, kèn oboa, đàn dây ghita, 2 hay 3 loại violin... Ngoài ra, họ còn có kiểu nhảy múa khác, với một cái chậu được đổ đầy hay chất lên những ngọn đèn sáng, mà một người nữ đội lên đầu và nhảy múa, quay tròn, xoay trở, uốn éo thân thể trong vài hình dạng và kiểu cách với sự mau lẹ cực kỳ, mà không làm đổ một giọt dầu nào từ đèn, khiến khán giả đều ngưỡng mộ. Màn biểu diễn này dài chừng nửa giờ.
Phụ nữ cũng thông thạo nhảy múa trên dây, và một vài người có thể biểu diễn rất duyên dáng.
Đá gà là một trò chơi hãnh diện giữa bọn họ, do đó nó trở thành một môn thể thao hoàng tử, và rất thời thượng ở trong triều. Họ thua khá nhiều khi đặt cược với vị chúa, dù đúng hay sai thì ông ta cũng thắng và phải thắng, từ đó ông ta làm bần cùng kẻ dưới để họ không thể toan tính điều gì.
Họ rất vui vẻ trong trò câu cá, và thuận lợi có rất nhiều sông hồ lớn.
Với trò săn bắn, hiếm có mảnh rừng hay khu rừng nào thích hợp cho hoạt động này trong toàn bộ đất nước, cũng như chẳng có ai thành thạo trò này.
Nhưng khoảng thời gian giải trí to lớn của họ là lễ hội mừng năm mới, thường diễn ra vào khoảng 25 tháng 1 và được tổ chức trong khoảng 30 ngày. Trong những ngày này, ngoài múa và trò giải trí như đã nói trước, còn có những loại trò chơi khác của họ - như chơi bóng đá, đánh đu trên một động cơ làm từ tre được dựng ở mọi góc đường, hoạt động thân thể khéo léo, và một dạng của trò ảo thuật được đưa lên sân khấu để góp vui. Không ai trong số họ chậm lụt trong việc chuẩn bị lễ hội thật lớn và sung túc, cố gắng để vượt trội nhau trong khoảng thời gian 3 hoặc 4 ngày, tùy theo khả năng của họ. Tất nhiên đây là thời gian mà sự phàm ăn và trác táng vượt trội, và anh sẽ được coi là kẻ bất hạnh khốn khổ nhất nếu không chào đón bạn bè và người quen, nếu làm thế thì cả năm anh sẽ phải van xin để sinh nhai.
Ngày đầu năm, những người bình thường không di chuyển ra ngoài (trừ phi họ là tùy sai của vài quan chức) mà giữ mình đóng kín cửa trong nhà, không đón ai ngoài những họ hàng thân nhất, từ chối những người khác trong ngày ấy, dù chỉ là một hớp nước hay một viên than để thắp lửa, và sẽ rất tức giận nếu ai đó đưa ra một yêu cầu như thế, tin tưởng một cách mê tín rằng hậu quả của nó là bọn họ sẽ trở thành chủ thể bị nguyền rủa nhắm vào; và nếu họ cho bạn một thứ gì trong ngày đó, sẽ trở thành vận xấu của họ phải liên tục cho đi, và bản thân cuối cùng sẽ trở thành ăn mày. Lý do mà họ không đi ra ngoài cũng cùng một căn nguyên, là sợ phải gặp thứ gì đó là điềm xấu hoặc thứ khác báo những điều xấu xa cho họ vào ngày đó, sẽ khiến họ xui rủi trong cả năm - Khi mà họ quan sát một cách mê tín về đủ loại chi tiết vụn vặt linh tinh đều là điềm xấu hoặc tốt. Nhưng vào ngày thứ hai của năm, họ đi thăm nhau, rời bỏ các loại trách nhiệm bổn phận với những kẻ cấp trên của mình, quân lính và hầu cận của họ cũng làm như thế. Nhưng các quan trong ngày đầu năm phải đến chỗ nhà vua và chúa, những kẻ quan sát cẩn trọng khi những người khác là kẻ sách nhiễu sắc bén và chính xác trong cuộc gặp này.
Vài người tổ chức năm mới của họ từ ngày 25 tháng chạp âm lịch, nhưng đó là không phải phép. Cơ sở của họ dựa trên đó là ngày Sụp Ấn (một từ cổ, có lẽ), ngụ ý rằng quốc ấn được bảo lưu, và sau đó cất vào trong hộp với mặt ấn úp xuống trong vòng cả tháng. Và trong khoảng thời gian đó, luật pháp - như nó đã thế - sẽ ngủ yên, và không có hoạt động nào liên quan đến cái ấn đã nói. Các bộ máy tư pháp của triều đình im ắng, những kẻ còn thiếu nợ sẽ không bị bắt; những tội lỗi nhỏ như là ăn cắp vặt, đánh nhau, đánh người... thoát được mọi hình phạt, chỉ có tội mưu phản hay ám sát trấn thủ của thành thị hay tỉnh thành mới được ghi nhận, và kẻ phạm tội sẽ bị giam giữ cho đến khi quốc ấn được hoạt động lại, đưa họ đến nơi xét xử. Nhưng năm mới của họ hợp cách là bắt đầu vào tháng trăng mới, thường vào khoảng 25 tháng 1 như đã nói, và kéo dài theo phong tục của TQ là 1 tháng.
Theo những gì đã nói trên, tác giả của chúng ta đã thể hiện ra mình ngoa dụ quá mức như thế nào về những chuyện này, đặc biệt khi ông ta nói rằng người Bắc Hà là những người yêu lao động và cần cù siêng năng, sử dụng thời gian của họ một cách cẩn trọng khôn ngoan có hiệu quả nhất - điều này ở mức độ nào đó thì đúng với phụ nữ, nhưng đàn ông nói chung đều lười biếng và thích ăn không ngồi rồi, nếu như họ không bị bắt buộc phải làm việc cần thiết thì tôi vô cùng tin rằng họ sẽ rất vui vẻ dùng thời gian của mình trong mỗi việc ăn và ngủ - vì nhiều kẻ làm chán ngấy chính mình trong việc tọng đồ ăn đầy bụng, nhồi nhét như họ sinh ra chỉ để ăn, chứ không chỉ ăn vì phục vụ cho mục đích chính của cuộc đời.
Đó cũng là một sai lầm khi nói rằng người Bắc Hà xem đó như sự hổ thẹn nếu như đầu của họ không được che phủ, vì khi một viên cấp dưới tới gặp một vị đại quan, dù là vì công việc hay vì vị quan cho gọi, luôn luôn mặc áo dài đen và đội mũ, nhưng viên quan thì không đội. Nhưng nếu viên sứ giả đến đưa lệnh từ nhà vua, kể cả bằng miệng hay chiếu thư, thì họ sẽ không dám nghe đọc hay nhận chiếu mà không đội mũ mặc áo. Tôi sẽ nói thêm và điều này khi viết đến phần của triều đình Bắc Hà."