Có chứ, hình như năm 70, 71 gì Nga viện trợ tàu tên lửa tiến công nhanh loại 2 điếu ( lớp Komar) mà . Tuy nhiên sau không phát huy được tác dụng vì không quân địch quá khủng, nó bắn chìm , bị thương mấy cái ở Quảng Ninh.
Nhà cháu xin trích đăng một bài về thuộc về Lịch sử Hải quân Việt Nam, do nhà cháu - với tư cách là sỹ quan của lữ đoàn 172 (tầu tên lửa), biên trong Nhóm nội bộ của Hải quân
SỰ RA ĐỜI CỦA LỰC LƯỢNG TẦU TÊN LỬA VIỆT NAM
Trên bàn cờ chính trị thế giới vào thập niên 70, tên lửa diệt hạm là một quân cờ chiến lược. Năm 1967, cả thế giới sững sờ chứng kiến tàu khu trục Eliat nặng hơn 2.000 tấn của Ít-xa-ra-en bị hải quân Ai Cập bắn chìm. Điều đáng nói là “tác giả” của chiến thắng này lại là biên đội tàu tên lửa cao tốc nhỏ như “mắt muỗi” mà Liên Xô viện trợ cho Ai Cập.
Nếu như trong chiến tranh thế giới thứ hai, hàng không mẫu hạm là bà chúa của đại dương, đưa các thiết giáp hạm về dĩ vãng; thì sự xuất hiện của tên lửa diệt hạm cũng có ý nghĩa đe dọa các hạm đội tàu lớn của các siêu cường hải quân.
Trở lại với chiến trường Việt Nam, dải bờ biển dài và hẹp của miền bắc và miền trung nước ta thường xuyên bị khống chế và pháo kích bởi các tàu chiến của Mỹ. Cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền bắc cũng bùng nổ trên hướng biển, với trận đánh tàu Maddox ngày 02/08/1964, và chiến dịch tập kích đường không “Mũi tên xuyên” nhằm vào các căn cứ Hải quân nhân dân Việt Nam ngày 05/08/1964.
Trước sức mạnh vô địch thế giới của Hải quân Mỹ, những nỗ lực đánh trả của Quân đội nhân dân Việt Nam là hết sức khó khăn. Các đơn vị pháo binh bờ biển chỉ có thể đánh bị thương tàu địch, chứ rất khó đánh tiêu diệt. Pháo chống tăng D-44 85mm chỉ có tầm bắn ngắn, cỡ đạn nhỏ, trong khi lựu pháo 122mm và 130mm thì có độ chính xác rất thấp khi bắn mục tiêu điểm như tàu chiến Mỹ. Trong khi đó, pháo trên tàu chiến Mỹ là loại 406mm, 203mm, hoặc 127mm, điều khiển bằng máy tính, và có radar dẫn bắn, nên có độ chính xác rất cao ở tầm xa. Một chiếc tàu tuần dương thông thường được đánh giá có hiệu quả pháo kích bằng cả một phi đoàn máy bay ném bom chiến thuật. Các trận địa pháo binh bờ biển của Việt Nam cũng phải đối mặt với những cuộc ném bom của không quân Mỹ.
Hải quân nhân dân Việt Nam cũng có 12 tàu phóng lôi kiểu 123K (vỏ nhôm) và 6 tàu phóng lôi kiểu 183K (vỏ gỗ), nằm trong biên chế tiểu đoàn 135, trung đoàn 172 hải quân. Nhưng việc đưa tàu phóng lôi ra đánh các tàu khu trục và tàu tuần dương Mỹ có máy bay yểm trợ giữa biển cả mênh mông không phải là việc dễ dàng. Muốn tiếp cận vào cự li gần để phóng lôi, tàu hải quân ta phải vượt qua “lưới lửa” hỏa lực dày đặc của tàu chiến và máy bay địch. Ngay trong trận đầu ra quân đánh tàu Maddox ngày 02/08/1964, cả ba tàu phóng lôi đã bị hư hỏng nặng. Trong trận đánh sau tàu khu trục Mỹ ở vùng biển Long Châu ngày 01/07/1966, thậm chí cả biên đội ba tàu phóng lôi của ta còn bị Mỹ đánh chìm, thủy thủ đoàn bị địch bắt sống.
Trong hoàn cảnh đó, nhu cầu có vũ khí đối hải mạnh là rất bức thiết với Quân đội nhân dân Việt Nam. Thậm chí đã có ý tưởng đưa một tiểu đoàn tên lửa SAM-2 ra bờ biển Sầm Sơn để phục kích tàu chiến Mỹ, dùng đạn tên lửa phòng không để bắn mục tiêu mặt đất. Đơn vị tên lửa do ngụy trang không kĩ, bị địch phát hiện, ném bom và pháo kích liên tục, nên bị thiệt hại nặng, phải rút khỏi trận địa.
Với tất cả những tình tiết như trên, lẽ dễ hiểu là sự phát triển của vũ khí tên lửa đối hải được các cấp lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam đặt vào tầm ngắm từ rất sớm. Sở hữu tên lửa đối hải của Liên Xô sẽ cho phép bảo vệ có hiệu quả vùng biển miền bắc, ít nhất là trong phạm vi 40 hải lý tính từ bờ biển.
Tuy nhiên, mọi chuyện không dễ dàng. Tên lửa đối hải là thứ vũ khí có thể đảo ngược thế trận trên vùng biển Việt Nam, tạo ra những trận đánh có tiếng vang toàn cầu. Vì thế, khi quyết định trang bị tên lửa đối hải cho Việt Nam, Liên Xô cũng phải tính toán các phản ứng chính trị quốc tế của người Mỹ. Mặt khác, Liên Xô cũng ưu tiên trang bị nó cho các nước Trung Đông - Bắc Phi lắm tiền nhiều dầu mỏ, còn Việt Nam chỉ có thể đi xin viện trợ.
Vậy nhưng, bằng một cách nào đó, Việt Nam cũng đã có được một lời hứa về việc viện trợ 04 tàu tên lửa cao tốc từ phía Liên Xô. Cái cách để có được lời hứa này cho đến nay cũng vẫn là một bí ẩn. Lẽ thông thường, viện trợ giữa Việt Nam và các nước anh em được thực hiện qua hình thức hiệp định viện trợ, qua từng năm có thể kí thêm nghị định thư bổ sung viện trợ. Chủ thể kí hiệp định đương nhiên phải là Chính phủ hai nước, thông qua các cơ quan tham mưu là Bộ Quốc phòng.
Vậy nhưng, 04 tàu tên lửa cao tốc này không nằm trong các hiệp định viện trợ giữa Việt Nam và Liên Xô, mà lại nằm ở một thư của Ban Chấp hành Trung ương Đ….ảng Liên Xô gửi Việt Nam vào khoảng năm 1966-1968. Nói cách khác, chủ thể quyết định việc viện trợ 04 tàu tên lửa cao tốc rất quý báu với Việt Nam không phải là chính phủ Liên Xô như thường lệ, mà là TW Đảng của bạn. Đây là một tiền lệ hiếm gặp trong lịch sử ngoại giao giữa các nước xã hội chủ nghĩa, khi TW Đảng chủ động quyết định việc viện trợ quân sự. Có lẽ, đây là một đợt viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam khi Mỹ leo thang chiến tranh ra miền bắc, hoặc là một động thái ngoại giao của phía Liên Xô để né tránh áp lực của người Mỹ.
Tuy nhiên, từ lời hứa đến hiện thực vẫn là câu chuyện dài. Mặc dù thư của Ban Chấp hành Đ… Liên Xô được kí chậm nhất là khoảng năm 1968 (và có thể sớm hơn, khoảng năm 1966 hoặc 1967), nhưng việc viện trợ 04 tàu tên lửa cao tốc vẫn không được tiến hành. Mọi hạng mục viện trợ khác trong thư này đều được đáp ứng, ngoại từ 04 con tàu quí giá kia. Việt Nam vẫn liên tục “nhắc khéo” ông anh cả về vấn đề này, nhưng không ăn thua.
Những nỗ lực để sở hữu tên lửa đối hải của Việt Nam hướng sang ông anh hai Trung Quốc. Vào năm 1961, Trung Quốc cũng đã nhận được 08 tàu tên lửa cao tốc, và được Liên Xô chuyển giao công nghệ để đóng hơn 40 chiếc tương tự. Việt Nam liên tục đưa ra đề nghị viện trợ tên lửa bờ đối hải và tàu tên lửa cao tốc cho Trung Quốc, nhưng cũng bị từ chối.
Bước sang năm 1972, không quân Mỹ ném bom trở lại miền bắc, các pháo hạm Mỹ lộng hành ngoài biển. Trong khi đó, đội tàu phóng lôi của hải quân Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề sau 7 năm chiến tranh. Trong trận đánh cuối cùng của tàu phóng lôi Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ ngày 27/08/1972, 2 trong số 4 tàu phóng lôi 123K cuối cùng đã bị đánh chìm, nhiều thủy thủ hi sinh. Trận đánh này có sự tham gia của Thuyền trưởng Hoàng Sinh Viên trong Nhóm của ta.
Tiểu đoàn 135 chỉ còn vẻn vẹn 2 tàu phóng lôi 123K và một số tàu phóng lôi 183K đang được niêm cất.
Chỉ khi Việt Nam đã gần như mất trắng đội tàu phóng lôi của mình, thì chương trình viện trợ 04 tàu tên lửa cao tốc mới được khởi động trở lại. Trung đoàn 172 được lệnh tổ chức 04 khung tàu, sang Vladivostok - đại bản doanh của Hạm đội Thái Bình Dương, Liên Xô để nhận tàu về.
Đây là các tàu phóng lôi Đề án 183R Komar, dựa trên cơ sở tàu phóng lôi vỏ gỗ Đề án 183K. Thay vì hai ống phóng lôi 533mm, tàu 183R (Raketry - Tên lửa) được trang bị 2 bệ phóng KT-67, mang loại tên lửa diệt hạm P-15 Termit với tầm bắn lên đến 40km, vượt trội tầm bắn của các loại pháo binh đối hải mà Việt Nam đang sở hữu. Dẫn bắn tên lửa là radar MR-331 Rangout. Vũ khí phụ là pháo phòng không 25mm 2 nòng 2M-3M. Thừa hưởng khung thân của tàu phóng lôi, nên tàu 183R rất gọn nhẹ, nặng hơn 60 tấn, dài hơn 25m, trang bị động cơ M-50F công suất 4.800 mã lực, cho phép đạt tốc độ tối đa 44 knots, tức khoảng 81km/h.
Tổng cộng đã có 112 tàu 183R được chế tạo trong giai đoạn 1956-1965, và 4 con tàu trong số đó đã được bàn giao cho Hải quân nhân dân Việt Nam vào năm 1972, biên chế thành tiểu đoàn 136 thuộc trung đoàn 172. Bốn con tàu lần lượt mang số hiệu 902, 904, 906, và 908.
Từ Vladivostok, 04 con tàu tên lửa được đóng vào thùng gỗ, ngụy trang cẩn thận, đưa lên các tàu viễn dương của Liên Xô, để đưa sang Trung Quốc cùng với các hàng hóa thông thường khác. Về đến cảng Trạm Giang (Trung Quốc), 04 con tàu được cẩu xuống nước để thủy thủ đoàn Việt Nam tiếp quản, và tự chạy về nước.
Đáng tiếc là toàn bộ quá trình này đã bị quân Mỹ giám sát chặt chẽ, và có lẽ đã có sự lộ lọt thông tin, khi những con tàu tên lửa quí giá đi qua nhiều quốc gia. Ngay khi vừa về nước, biên đội tàu tên lửa Việt Nam lập tức bị tấn công.
Trận tập kích của không quân hải quân Mỹ nhằm vào các tàu tên lửa Việt Nam diễn ra mờ sáng ngày 18/12/1972, nghĩa là sớm hơn khá nhiều so với thời điểm chính thức mở màn chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng 12 ngày đêm cuối năm 1972. Ở Hà Nội, phải đến 19 giờ 45, quả tên lửa đầu tiên mới được phóng lên bầu trời, nhằm vào máy bay Mỹ.
04 tàu tên lửa của Việt Nam được trang bị 04 khẩu pháo 25mm 2 nòng - một hỏa lực đáng kể vào thời điểm đó. Nhưng có lẽ trận đánh diễn ra bất ngờ, và thủy thủ đoàn Việt Nam cũng vừa mới tiếp quản tàu, nên chưa làm chủ vũ khí - trang bị một cách đầy đủ. Tàu 906 bị đánh chìm ở khu vực Hòn Chó Đá ngày nay, thuyền trưởng Đoàn Giỏi và 1 thủy thủ anh dũng hi sinh.
Mệnh lệnh sơ tán được ban ra ngay lập tức. 03 tàu tên lửa còn lại được nhanh chóng đưa về Hang Quan, nơi có đặt đốc nổi của hải quân ta, mang mật danh Đ-25. Các tàu phóng lôi 123K và 183K được yêu cầu đưa ra khỏi Hang Quan, để dành chỗ cất giấu 03 tàu tên lửa 183R quí giá. Đích thân Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát có mặt trực tiếp tại hiện trường để chỉ huy sơ tán, đủ để thấy tầm quan trọng của những tàu tên lửa này.
Việc cất giấu tàu được hoàn thành ngay trong đêm 18, rạng sáng 19/12/1972. Những chiếc tàu này thoát khỏi sự truy sát của không quân Mỹ, nhưng cũng lỡ hẹn với cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng kết thúc thắng lợi.
Sau khi hòa bình lập lại trên vùng trời miền bắc, những chiếc tàu chiến Mỹ cũng phải rút khỏi Việt Nam (tất nhiên là sau chiến dịch “Nhát quét cuối cùng” để rà phá thủy lôi Mỹ đã thả trên địa bàn sông biển miền Bắc). Tàu tên lửa chỉ còn đối tượng tác chiến là hải quân ngụy. Tàu 906 được trục vớt một phần để tháo gỡ trang bị, khí tài (may sao nơi tàu bị đánh chìm cũng gần bờ, nước nông). Một tàu khác cũng bị “xẻ thịt” để lấy trang bị dồn ghép cho hai chiếc còn lại. Các tàu tên lửa 183R cũng đã tham gia tích cực vào chiến dịch Hồ Chí Minh, nhưng chưa từng khai hỏa vào mục tiêu tàu địch nào./.
Sau đó. Lực lượng tầu tên lửa 183 R bị loại biên. Ngoài các cụ Hải quân trong Nhóm của ta, hầu như không còn ai nhớ đến nó nữa.
Xin các bác xem hình ảnh minh họa:
-Hình ảnh ba con tầu tên lửa 183 trên vùng biển Hạ Long, trước khi các em nó lại đi vào chốn hư vô.