thế cụ tưởng cái F-22 bây h không thế ạ .
từ anh F-117 hay B1 B2 U1 F22 muốn tàng hình là phải tắt hết các thứ đi cơ còn bật thì vẫn chả khác nhau gì
Mỹ chưa giỏi đến mức bật nguyên các thứ để tàng hình đâu
công nghẹ tàng hình plasma nó sơ sơ dư lài
Công nghệ tàng hình Plasma (còn gọi là tàng hình đẳng ion) có tính kinh tế, rẻ tiền hơn tất cả các công nghệ tàng hình đã có, nhưng lại có hiệu quả tàng hình rất cao. Bản chất của công nghệ tàng hình Plasma là Cân đối giữa hiệu quả khí động học và tính tàng hình của vật thể. Đó là công nghệ tàng hình khác hoàn toàn với các công nghệ tàng hình truyền thống. Thực chất plasma có nghĩa là nguyên tử của nó chứa nhiều động năng tới mức các điện tử hóa trị được giải phóng do những va đập giữa các nguyên tử. Một tín hiệu vô tuyến gặp phải luồng Plasma sẽ dễ dàng bị phân tán. Sóng điện từ gặp phải Plasma cũng sẽ bị năng lượng hóa cao và đổi hướng làm cho máy thu không thu được tín hiệu phản hồi, vì thế radar không phát hiện được sự hiện diện của vũ khí trang bị. Cũng có khả năng là plasma sẽ đánh lừa và tiêu tán năng lượng sóng vô tuyến bằng cách hút tín hiệu xung quanh nó cho tới khi tín hiệu bị triệt tiêu, do đó không phản hồi lại radar. Khi sử dụng luồng Plasma, sẽ làm tăng tính tàng hình mà không phải trả giá về mặt khí động và thậm chí đạt hiệu quả cao. Trung tâm nghiên cứu khoa học Keldysh của Nga là cơ quan đầu tiên đề xuất ý tưởng plasma, từ tháng 3 năm 1999, họ đã chào hàng xuất khấu một thiết bị tàng hình dạng lắp ghép có khả năng làm cho máy bay thông thường trở nên vô hình đối với radar. Hệ thống này sẽ tạo ra một lớp khí ion hóa hay Plasma bao quanh máy bay. Hiện nay, công trình nghiên cứu một hệ thống giảm khả năng quan sát thế hệ ba đang được tiến hành. Hệ thống này nặng dưới 100kg tiêu thụ vài chục kw điện. Bằng cách lắp hệ thống này cho máy bay, tiết diện phản xạ radar của một máy bay thông thường có thể giảm đi trên trăm lần, bằng tiết diện phản xạ radar của máy bay tàng hình chuyên dụng. Công trình nghiên cứu phát triển sử dụng công nghệ tàng hình Plasma của Nga còn nhằm giảm khoảng 30% sức cản của máy bay. Theo ý kiến của các nhà khoa học Nga, một trong những công nghệ khí động Plasma dân dụng đã làm giảm đáng kể tiết diện phản xạ radar của máy bay. Sự hấp thụ sóng vô tuyến của Plasma đã được biết đến qua hiện tượng mất liên lạc mà tàu vũ trụ luôn gặp phải khi quay về tầng khí quyển. Nguyên nhân là do hiệu ứng che chắn của Plasma. Tất nhiên, điều này luôn xảy ra ở phía trước tàu vũ trụ khi nó lao vào tầng khí quyển của Trái Đất và va đập với không khí làm nhiệt độ tăng cao. Nguyên lý này đã được áp dụng để hấp thụ năng lượng radar. Mặc dù khi dùng các máy phát Plasma xung quanh máy bay, có thể máy bay sẽ bừng sáng lên như sao băng, nhưng trên màn hình radar dường như lại vô hình. Theo ý kiến của các nhà thiết kế thuộc Viện Thiết kế Mikoyan và Sukhoi của Nga, sự tốn kém của công nghệ tàng hình hiện đang áp dụng vượt quá hiệu quả mà nó mang lại. Vì vậy, chọn công nghệ tàng hình Plasma sẽ là giải pháp Cân đối giữa hiệu quả khí động và tính tàng hình trong các thiết kế máy bay thế hệ mới nhất trong tương lai gần.
Các máy phát Plasma thế hệ đầu tiên và thế hệ thứ hai đã được thử trên mặt đất và thử bay. Hiện nay đang nghiên cứu một hệ thống thuộc thế hệ thứ ba dựa trên những nguyên tắc vật lý mới, và có thể tham khảo sử dụng năng lượng tĩnh điện bao quanh thân máy bay để giảm tiết diện phản xạ radar. Hệ thống tàng hình Plasma trên những tương tác của Plasma và sóng điện từ, nhưng theo một hướng rất khác lạ. Thiết bị Plasma tàng hình sẽ tạo ra một trường Plasma xung quanh máy bay. Trường này, một mặt tiêu tán năng lượng điện từ của đối phương hoặc làm đổi hướng của chúng, làm giảm tiết diện phản xạ radar xuống hơn 100 lần. Hiệu ứng tiêu tán và làm đổi hướng tín hiệu điện từ trong trường Plasma đã được phát hiện từ nhiều thập kỷ trước. Hệ thống tàng hình mới này không có thay đổi gì mới về mặt lý thuyết, nhưng lại có những điểm mới về kỹ thuật của máy Plasma. Các nhà thiết kế máy bay sử dụng một máy phát Plasma che chắn cho các máy bay có tốc độ trên siêu âm. Trong ứng dụng này, Plasma có thể được phát ra bằng một la de Plasma mạnh và đóng vai trò như một lớp che chắn nhiệt cho máy bay. Một ưu điểm của công nghệ tàng hình Plasma đem lại đó là có thể ứng dụng cho các loại vũ khí, khí tài hiện nay mà không cần phải thay đổi cấu trúc hình dạng, chỉ cần lắp trên vũ khí, khí tài đó một máy phát plasma để tạo ra một trường plasma bao quanh.
Đối với Nga, Viện ITAE đã phát triển vật liệu hấp thụ radar sắt từ, tính năng cao để phủ bề mặt máy nén và đường dẫn khí cho máy bay Su-35, nhưng lớp vật liệu phủ phải mỏng để nó không cản trở luồng khí vận tốc lớn và nhiệt độ tới 2000C. Một lớp vật liệu RAM có độ dày khoảng 0,7 mm và 1,4 mm được phủ lên bề mặt của đường ống dẫn khí và lớp phủ dày 0,5 mm được áp dụng cho bề mặt các tầng phía trước của máy nén áp suất thấp. Kết quả là giảm được tính phản xạ 10-15 dB, tức là giảm gần một nửa tiết diện phản xạ radar (RCS) của các cửa khí. Giống như bộ phụ kiện nâng cấp Have Glass dùng cho F-16, máy bay Su-35 cải tiến cũng sử dụng nắp buồng lái có đặc tính phản xạ sóng radar. Viện ITAE phát triển một quy trình kết tủa plasma để phủ các lớp vật liệu kim loại và polyme, tạo thành một lớp phủ bền vững để ngăn cản sóng vô tuyến và nhiệt của tia nắng mặt trời lọt vào trong buồng lái. Quy trình phủ plasma được tiến hành trong buồng chân không bằng công cụ rôbốt.
Đối với Nga, Viện ITAE đã phát triển vật liệu hấp thụ radar sắt từ, tính năng cao để phủ bề mặt máy nén và đường dẫn khí cho máy bay Su-35, nhưng lớp vật liệu phủ phải mỏng để nó không cản trở luồng khí vận tốc lớn và nhiệt độ tới 2000C. Một lớp vật liệu RAM có độ dày khoảng 0,7 mm và 1,4 mm được phủ lên bề mặt của đường ống dẫn khí và lớp phủ dày 0,5 mm được áp dụng cho bề mặt các tầng phía trước của máy nén áp suất thấp. Kết quả là giảm được tính phản xạ 10-15 dB, tức là giảm gần một nửa tiết diện phản xạ radar (RCS) của các cửa khí. Giống như bộ phụ kiện nâng cấp Have Glass dùng cho F-16, máy bay Su-35 cải tiến cũng sử dụng nắp buồng lái có đặc tính phản xạ sóng radar. Viện ITAE phát triển một quy trình kết tủa plasma để phủ các lớp vật liệu kim loại và polyme, tạo thành một lớp phủ bền vững để ngăn cản sóng vô tuyến và nhiệt của tia nắng mặt trời lọt vào trong buồng lái. Quy trình phủ plasma được tiến hành trong buồng chân không bằng công cụ rôbốt.
Viện ITAE và các đối tác của Viện còn sử dụng công nghệ plasma để tạo các lớp phủ cho buồng đốt và ống xả. Các lớp phủ nhiều lớp được hình thành từ các vi hạt của vật liệu tĩnh điện, kim loại hoặc bán dẫn được kết tủa bằng plasma hồ quang trong điều kiện áp suất khí quyển. Những thách thức bao gồm nhu cầu giữ cho lớp gốm (ceramic) được bám chắc vào cấu trúc kim loại trong một dải nhiệt độ khá rộng (từ 600 độ C đến 1200 độ C), cho dù trên thực tế các vật liệu này có các đặc tính giãn nở nhiệt rất khác nhau. Vật liệu phủ cũng cần duy trì các đặc tính không đổi về điện trước các dải nhiệt độ rất khác nhau.
Các phương tiện bay là những vũ khí trang bị đầu tiên được sử dụng các vật liệu tàng hình, ứng dụng các kỹ thuật tàng hình và đã mang lại hiệu suất chiến đấu rất cao. Chắc chắn, các phương tiện bay sẽ còn được nghiên cứu và ứng dụng nhiều vật liệu tàng hình và kỹ thuật tàng hình mới để phát huy hết sức mạnh tiềm tàng của chúng.
P/S:
Hiện nay công nghệ tàng hình cũng đang được áp dụng cho các loại máy bay thông thường. Trên máy bay F/A-18 E/F đã áp dụng vật liệu hấp thụ sóng có tính chống ăn mòn, tạo ra một bước đột phá trong công nghệ tàng hình. Trên các mẫu máy bay F/A-18 C/D, để tăng cường khả năng tàng hình, các cải tiến đã được thực hiện:
- Mặt ngoài buồng lái được phủ một lớp sơn có thể phản xạ sóng radar để giảm thiểu diện tích phản xạ hiệu dụng.
- Vũ khí treo ngoài sử dụng vật liệu tàng hình Parapin hai lớp xenlulô có cốt sợi thuỷ tinh. Nó có thể phủ lên bề mặt thiết bị, sau đó dùng vật liệu hấp thụ sóng radar xử lý tạo thành vỏ bọc nhẹ.