- Biển số
- OF-49857
- Ngày cấp bằng
- 31/10/09
- Số km
- 3,016
- Động cơ
- 478,368 Mã lực
Cụ nào máu đọc thì nhớ mắc màn
Nguồn : http://admm.org.vn:6789/TempFiles/d256eaff-ef81-41cf-85ca-3ebe6158f31a.pdf
Năm 2009 kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách, cùng dân tộc đánh thắng nhiều cuộc chiến tranh xâm lược lớn, góp phần quan trọng trong cách mạng dân chủ nhân dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo của ************* Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã và đang đạt được những thành tựu to lớn có . nghĩa lịch sử. Vượt lên mọi khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới , thiên tai và những yếu kém nội tại của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã hội của đất nước vẫn ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó đã tạo nên thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước, Quân đội nhân dân phải tăng cường hơn nữa công tác đối ngoại quốc phòng; mở rộng và củng cố quan hệ, hợp tác với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác... đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả, ổn định, bền vững, tin cậy lẫn nhau, góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.
Với mục đích nêu trên, Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng về Quốc phòng Việt Nam lần thứ 3. Đây là tài liệu nêu rõ những quan điểm cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam, cơ chế lãnh đạo và quản lý quốc phòng; cơ cấu Bộ Quốc phòng; tổ chức và phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện. Sách trắng về Quốc phòng cũng đề cập đến chính sách hợp tác quốc phòng, thể hiện mong muốn tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân các nước nhằm đẩy mạnh hợp tác vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đại tướng Phùng Quang Thanh
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. TÌNH HÌNH AN NINH
1.1. Thế giới và khu vực
Tình hình an ninh thế giới và khu vực những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp, song hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy ít có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang giữa các quốc gia hay trong một quốc gia do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và các quyền lợi quốc gia khác có chiều hướng gia tăng, tác động mạnh tới hòa bình, an ninh của các dân tộc.
Tình hình thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng, khó lường. Sự phân bố lại sức mạnh kinh tế v à quân sự trên phạm vi toàn cầu đang làm cho cục diện chính trị thế giới biến đổi sâu sắc với xu thế đa cực ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nhiều cường quốc và các trung tâm quyền lực mới nổi lên, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực với nhau d iễn ra quyết liệt và có chiều hướng gia tăng.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang đi vào chiều sâu làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, buộc các nước phải tăng cường hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung. Tuy nhiên, do những khác biệt về lợi ích nên trong một số vấn đề cụ thể, sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Suy thoái kinh tế thế giới bắt đầu từ khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các quốc gia. Các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực ngày càng trở nên quan trọng đối với thế giới. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống có tính toàn cầu khác đã trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia. Giải quyết những vấn đề nêu trên là công việc của cả cộng đồng quốc tế vì không một quốc gia hay khu vực riêng rẽ nào có thể một mình giải quyết được.
Ảnh hưởng của các vấn đề quốc phòng - an ninh trong quan hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cách mạng mới trong quân sự đang làm chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự của các nước thay đổi lớn. Sự cạnh tranh sức mạnh quân sự đang dẫn tới nguy cơ chạy đua vũ trang trên thế giới, nhất là chạy đua sức mạnh trên biển và trên vũ trụ. Nhiều nước lớn điều chỉnh chiến lược quân sự, tăng ngân sách quốc phòng, đẩy nhanh hiện đại hoá quân đội, phát triển vũ khí trang bị và công nghệ quân sự tiên tiến. Sự phát triển này không chỉ tác động đến quan hệ giữa các nước lớn mà còn tác động đến quốc phòng của tất cả các nước. Khoảng cách về sức mạnh quân sự của các cường quốc với sức mạnh quân sự của các quốc gia còn lại trên thế giới ngày càng xa. Tại một số khu vực, việc tăng cường sức mạnh quân sự làm cho tình hình trở nên phức tạp. Cơ chế kiểm soát vũ khí và cấm phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt đang gặp phải những thách thức lớn.
Châu Á - Thái Bình Dương với các nền kinh tế phát triển năng động đang trở thành khu vực có vị trí ngày càng quan trọng trên thế giới, thu hút sự quan tâm và cạnh tranh ảnh hưởng của các cường quốc. Các cơ chế hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực đang phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với quốc phòng - an ninh. Nhiều điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột vũ trang và chiến tranh vẫn chưa được giải quyết. Tình trạng tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên trên đất liền cũng như trên biển có chiều hướng gia tăng. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng đang phải đối mặt với tác động ngày càng tăng của nhiều thách thức an ninh phi truyền thống.
Tình hình an ninh khu vực Đông Nam Á cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng và xung đột. Suy thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh mẽ đến kinh tế khu vực, làm trầm trọng thêm tình hình bất ổn nội bộ của một số nước. Tranh chấp lãnh thổ trên biển và trên đất liền diễn biến phức tạp, trong đó tranh chấp chủ quyền và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông có chiều hướng gia tăng. Đông Nam Á là khu vực chịu tác động nặng nề của nhiều thảm hoạ thiên nhiên như bão, lụt, sóng thần... Khủng bố, cướp biển tuy đã bị kiềm chế nhưng vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh khu vực, là mối quan tâm chung của các quốc gia Đông Nam Á và nhiều quốc gia khác. Biến đổi khí hậu, thảm hoạ thiên nhiên, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia tác động ngày càng lớn đến an ninh của các quốc gia trong khu vực.
Các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang tăng cường hợp tác và hội nhập để biến Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Hiến chương ASEAN đã có hiệu lực, mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác khu vực. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá - Xã hội vào năm 2015. Quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác ngoài khu vực vì hòa bình, ổn định và phát triển được tăng cường. Hoạt động theo các nguyên tắc "tự nguyện", "đồng thuận", "không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau", ASEAN tiếp tục đóng vai trò chủ đạo đối với các vấn đề an ninh ở Đông Nam Á, trong quá trình vận động và phát triển của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và các cơ chế an ninh khu vực khác. Liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, các nước ASEAN tiếp tục cam kết tuân thủ và thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và đang nỗ lực hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC) , nhằm đạt được giải pháp lâu dài cho vấn đề phức tạp này trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
1.2. Việt Nam
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đ ã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quốc phòng - an ninh được giữ vững. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong cải thiện môi trường an ninh của đất nước. Việt Nam đã tích cực đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia trên bộ, trên biển.
Lần đầu tiên trong lịch sử, biên giới trên đất liền của Việt Nam đã cơ bản được phân định rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam và các nước láng giềng xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Đây là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam và các bên có liên quan trong vi ệc giải quyết vấn đề hệ trọng và nhạy cảm này. Việt Nam cũng tích cực giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Ranh giới biển giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ đã được phân định. Một số vấn đề nảy sinh tại các khu vực chồng lấn tr ên biển giữa Việt Nam với các nước khác đã và đang được giải quyết.
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với tất cả các nước đang được củng cố và ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về an ninh đa dạng và phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn do chưa đủ mạnh lại chịu tác động lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù quốc phòng - an ninh của đất nước vẫn được giữ vững nhưng nhiều nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội từ bên ngoài và ở bên trong vẫn còn tồn tại, chưa được khắc phục triệt để. Các quyền tự do dân chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề nhân quyền đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động bạo loạn, ly khai tại một số khu vực của đất nước. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông có những diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến hoạt động của nhân dân và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Những vấn đề an ninh phi truyền thống như buôn bán và vận chuyển trái phép vũ khí, ma tuý, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức, khủng bố, nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi trư ờng, biến đổi khí hậu, bệnh dịch... cũng là những mối quan tâm an ninh thường xuyên của Việt Nam.
2. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG
2.1. Những vấn đề cơ bản trong chính sách quốc phòng
Việt Nam luôn coi việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước, là mục tiêu xuyên suốt của chính sách quốc phòng Việt Nam. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình. Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang. Là một dân tộc phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.
Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước 1982 về luật biển của Liên hợp quốc. Trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề này, Việt Nam chủ trương các bên phải tự kiềm chế, nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC), tiến tới đạt được giải pháp công bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp này để Biển Đông luôn luôn là vùng biển hoà bình, hữu nghị và phát triển.
Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị do ************* Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng quân sự và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia khác của đất nước trong tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều thay đổi, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân dựa trên truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của toàn dân tộc, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, kế thừa và phát huy các giá trị của khoa học quân sự Việt Nam qua các thời kỳ, xây dựng nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh hiện đại.Tích cực, chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là một trong các nhiệm vụ trọng yếu của quốc phòng Việt Nam trong thời bình nhằm thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà không cần phải tiến hành chiến tranh. Việt Nam chủ trương thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá - xã hội và quân sự nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh. Quán triệt phương châm phòng thủ toàn diện, chủ động, bảo vệ Tổ quốc từ xa, quốc phòng Việt Nam sử dụng các biện pháp tổng hợp nhằm giữ vững ổn định bên trong, ngăn ngừa các nguy cơ can thiệp từ bên ngoài.
Quốc phòng Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng v à Nhà nước Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với nhân dân và chính phủ các nước, tạo cơ sở mở rộng hợp tác, giải quyết các mâu thuẫn nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xung đột, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện chính sách quố c phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc ph òng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác. Đồng thời, Việt Nam chú trọng phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi. Việt Nam coi trọng hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống đồng thời phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước có chung mục tiêu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước để giải quyết các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại đồng thời hoan nghênh các sáng kiến và các hoạt động phục vụ hoà bình, hợp tác của tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị hay lịch sử quan hệ với Việt Nam.
Việt Nam kiên quyết lên án và chống lại hành động khủng bố dưới mọi hình thức đồng thời phản đối các hoạt động lợi dụng chống khủng bố để can thiệp v ào công việc nội bộ của các nước. Cùng với nỗ lực thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và đối phó với các hoạt động khủng bố, Việt Nam ủng hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế và mở rộng hợp tác nhằm ngăn ngừa các hoạt động khủng bố và các hoạt động hỗ trợ khủng bố dưới mọi hình thức. Việt Nam cho rằng các biện pháp chống khủng bố và hợp tác quốc tế chống khủng bố phải được tiến hành trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam đã ký 8 trong tổng số 12 công ước của Liên hợp quốc về chống khủng bố, đang xem xét tham gia các công ước còn lại.
Việt Nam ủng hộ giải quyết các điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột khác trong khu vực thông qua đối thoại, thương lượng hoà bình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực.
2.2. Đối ngoại và hợp tác quốc phòng
Là một đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế theo phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hoà bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới.
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, an ninh của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh của thế giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc tế.
Quân đội nhân dân Việt Nam chủ tr ương mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Việt Nam đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới mọi hình thức như trao đổi các đoàn quân sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế... nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin và ngăn ngừa xung đột.
Việt Nam mong muốn mở rộng quan hệ quốc phòng song phương với tất cả các quốc gia. Các lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước là trao đổi các đoàn quân sự, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; hợp tác huấn luyện, đ ào tạo, giải quyết các vấn đề nhân đạo… Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam.
Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc ph òng với các nước ASEAN trong khuôn khổ ch ương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN và phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm.
Việt Nam chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các nước có liên quan, giúp cho các bên hiểu rõ quan điểm của nhau, tạo ra cơ hội giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Việt Nam đã tiến hành đối thoại quốc phòng - an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ… Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước cũng được coi trọng. Việt Nam đã đón 46 đoàn gồm 81 lượt tàu, hơn 18000 lượt sĩ quan và thuỷ thủ hải quân các nước tới thăm các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008, lần đầu tiên, Việt Nam đã cử đoàn tàu hải quân đi thăm hữu nghị nước ngoài.
Do điều kiện địa lý, lịch sử và quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu, nhiều vấn đề quốc phòng, an ninh của Việt Nam ngày càng liên quan chặt chẽ với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, đi đôi với hoạt động trao đổi các đoàn quân sự, hợp tác về huấn luyện, đào tạo... với tất cả các nước, Việt Nam ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề quốc phòng - an ninh song phương. Việt Nam đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc; đang tiến hành phân giới cắm mốc tại nhiều khu vực bi ên giới quan trọng và đã thỏa thuận hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2012 với Căm-pu-chia; đã hoàn thành phân định và đang tăng dày mốc biên giới với Lào; đang tăng cường phối hợp tuần tra kiểm soát khu vực biên giới trên đất liền giữa bộ đội biên phòng Việt Nam với lực lượng biên phòng và an ninh các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các Điều ước quốc tế về biên giới, các thoả thuận hợp tác biên phòng nhằm phòng chống các loại tội phạm như buôn lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ v à trẻ em, ma tuý... góp phần xây dựng biên giới hoà bình và hữu nghị. Việt Nam đã cố gắng giải quyết các vấn đề bi ên giới trên biển, mở rộng hợp tác với các nước khác để bảo đảm an ninh biển. Hải quân Việt Nam đã lập đường dây nóng và tiến hành
tuần tra chung với hải quân một số nước như Căm-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp bảo vệ an ninh trên các vùng chồng lấn và khu vực giáp ranh trên biển.
Thiết lập và duy trì quan hệ giữa Tổng cục Tình báo quốc phòng Việt Nam và các cơ quan tình báo quân sự các nước là kênh trao đổi thông tin quan trọng về các vấn đề quốc phòng - an ninh.
Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác đa phương trên lĩnh vực giữ gìn an ninh của các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)...
Là thành viên chính thức của Liên hợp quốc từ năm 1977, Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình đồng thời tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các vấn đề an ninh quốc tế. Trong thời gian l à Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Li ên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) Việt Nam đã tham khảo ý kiến của các nước không liên kết, phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên Hội đồng bảo an để đưa ra các quyết định về các vấn đề an ninh quốc tế phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.Việt Nam đánh giá cao vai trò và coi hoạt động giữ gìn hoà bình là một chức năng quan trọng của Liên hợp quốc. Để hoàn thành tốt chức năng này, các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia; bảo đảm tính vô tư, không thiên vị và chỉ được triển khai khi được các bên liên quan đồng ý. Việt Nam đang hoàn tất quá trình chuẩn bị để có thể tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đang tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước khác, chuẩn bị nhân sự có đủ tr ình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp quốc tế để có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc với hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ chủ trương ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hòa bình, an ninh và giải trừ quân bị, Việt Nam tích cực tham gia vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng như giải quyết hậu quả xung đột vũ trang và chiến tranh. Việt Nam đã cùng các nước Đông Nam Á khác ký Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Việt Nam kêu gọi các nước sở hữu vũ khí hạt nhân tham gia Nghị định thư của Hiệp ước này để Đông Nam Á mãi mãi là khu vực không có vũ khí hạt nhân. Phù hợp với chủ trương nhất quán là ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về giải trừ quân bị, Việt Nam hoan nghênh những sáng kiến nhằm ngăn chặn việc phát triển, sản xuất, tàng trữ, và sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Đồng thời, Việt Nam cho rằng các quốc gia có quyền nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ hạt nhân, hoá học và sinh học vì mục đích hoà bình theo các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam đã tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh nhiều công ước, hiệp định, nghị định thư về cấm phổ biến các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt và các công ước quốc tế về giải trừ quân bị khác. Việt Nam cũng đang nghiêm chỉnh xem xét các điều ước, công ước quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi tham gia.
Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Để nâng cao hiệu quả hợp tác trên lĩnh vực này, Việt Nam chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác cả song phương và đa phương như trao đổi thông tin, kinh nghiệm, lập c ơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước để phòng ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đang chuẩn bị về nhân sự và trang bị kỹ thuật để có thể tham gia các hoạt động diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông, trước hết là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.
Việt Nam chú trọng tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN dựa trên các cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Các cơ chế này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc “đồng thuận”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, “không biến Cộng đồng ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”... và các nguyên tắc cơ bản khác của Hiến chương ASEAN. Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và các hội nghị quan chức quốc phòng khác, ủng hộ các sáng kiến tăng cường hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN nhằm giải quyết các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm. Trên tinh thần đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác đa phương với các nước ASEAN trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh như tham dự các hội nghị quốc phòng các nước ASEAN ở tất cả các cấp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng quốc phòng, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, chống khủng bố, tham gia các hoạt động nhân đạo trong phòng chống thiên tai, cử quan sát viên tới dự các cuộc diễn tập quân sự của các nước trong khu vực... Năm 2010, với tư cách là chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các n ước thành viên khác tổ chức thành công các hội nghị và hoạt động nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng giữa các nước trong Hiệp hội. Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng ủng hộ và tham gia tích cực vào nỗ lực mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng - an ninh với các đối tác bên ngoài ASEAN nhằm góp phần duy trì hoà bình, ổn định ở khu vực và trên toàn thế giới.
Nguồn : http://admm.org.vn:6789/TempFiles/d256eaff-ef81-41cf-85ca-3ebe6158f31a.pdf
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ QUỐC PHÒNG
BỘ QUỐC PHÒNG
QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
HÀ NỘI 12-2009
LỜI MỞ ĐẦU
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Năm 2009 kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách, cùng dân tộc đánh thắng nhiều cuộc chiến tranh xâm lược lớn, góp phần quan trọng trong cách mạng dân chủ nhân dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo của ************* Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã và đang đạt được những thành tựu to lớn có . nghĩa lịch sử. Vượt lên mọi khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới , thiên tai và những yếu kém nội tại của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã hội của đất nước vẫn ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó đã tạo nên thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước, Quân đội nhân dân phải tăng cường hơn nữa công tác đối ngoại quốc phòng; mở rộng và củng cố quan hệ, hợp tác với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác... đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả, ổn định, bền vững, tin cậy lẫn nhau, góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.
Với mục đích nêu trên, Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng về Quốc phòng Việt Nam lần thứ 3. Đây là tài liệu nêu rõ những quan điểm cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam, cơ chế lãnh đạo và quản lý quốc phòng; cơ cấu Bộ Quốc phòng; tổ chức và phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện. Sách trắng về Quốc phòng cũng đề cập đến chính sách hợp tác quốc phòng, thể hiện mong muốn tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân các nước nhằm đẩy mạnh hợp tác vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đại tướng Phùng Quang Thanh
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH AN NINH
VÀ
CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG
1. TÌNH HÌNH AN NINH
1.1. Thế giới và khu vực
Tình hình an ninh thế giới và khu vực những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp, song hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy ít có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang giữa các quốc gia hay trong một quốc gia do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và các quyền lợi quốc gia khác có chiều hướng gia tăng, tác động mạnh tới hòa bình, an ninh của các dân tộc.
Tình hình thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng, khó lường. Sự phân bố lại sức mạnh kinh tế v à quân sự trên phạm vi toàn cầu đang làm cho cục diện chính trị thế giới biến đổi sâu sắc với xu thế đa cực ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nhiều cường quốc và các trung tâm quyền lực mới nổi lên, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực với nhau d iễn ra quyết liệt và có chiều hướng gia tăng.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang đi vào chiều sâu làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, buộc các nước phải tăng cường hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung. Tuy nhiên, do những khác biệt về lợi ích nên trong một số vấn đề cụ thể, sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Suy thoái kinh tế thế giới bắt đầu từ khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các quốc gia. Các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực ngày càng trở nên quan trọng đối với thế giới. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống có tính toàn cầu khác đã trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia. Giải quyết những vấn đề nêu trên là công việc của cả cộng đồng quốc tế vì không một quốc gia hay khu vực riêng rẽ nào có thể một mình giải quyết được.
Ảnh hưởng của các vấn đề quốc phòng - an ninh trong quan hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cách mạng mới trong quân sự đang làm chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự của các nước thay đổi lớn. Sự cạnh tranh sức mạnh quân sự đang dẫn tới nguy cơ chạy đua vũ trang trên thế giới, nhất là chạy đua sức mạnh trên biển và trên vũ trụ. Nhiều nước lớn điều chỉnh chiến lược quân sự, tăng ngân sách quốc phòng, đẩy nhanh hiện đại hoá quân đội, phát triển vũ khí trang bị và công nghệ quân sự tiên tiến. Sự phát triển này không chỉ tác động đến quan hệ giữa các nước lớn mà còn tác động đến quốc phòng của tất cả các nước. Khoảng cách về sức mạnh quân sự của các cường quốc với sức mạnh quân sự của các quốc gia còn lại trên thế giới ngày càng xa. Tại một số khu vực, việc tăng cường sức mạnh quân sự làm cho tình hình trở nên phức tạp. Cơ chế kiểm soát vũ khí và cấm phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt đang gặp phải những thách thức lớn.
Châu Á - Thái Bình Dương với các nền kinh tế phát triển năng động đang trở thành khu vực có vị trí ngày càng quan trọng trên thế giới, thu hút sự quan tâm và cạnh tranh ảnh hưởng của các cường quốc. Các cơ chế hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực đang phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với quốc phòng - an ninh. Nhiều điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột vũ trang và chiến tranh vẫn chưa được giải quyết. Tình trạng tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên trên đất liền cũng như trên biển có chiều hướng gia tăng. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng đang phải đối mặt với tác động ngày càng tăng của nhiều thách thức an ninh phi truyền thống.
Tình hình an ninh khu vực Đông Nam Á cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng và xung đột. Suy thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh mẽ đến kinh tế khu vực, làm trầm trọng thêm tình hình bất ổn nội bộ của một số nước. Tranh chấp lãnh thổ trên biển và trên đất liền diễn biến phức tạp, trong đó tranh chấp chủ quyền và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông có chiều hướng gia tăng. Đông Nam Á là khu vực chịu tác động nặng nề của nhiều thảm hoạ thiên nhiên như bão, lụt, sóng thần... Khủng bố, cướp biển tuy đã bị kiềm chế nhưng vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh khu vực, là mối quan tâm chung của các quốc gia Đông Nam Á và nhiều quốc gia khác. Biến đổi khí hậu, thảm hoạ thiên nhiên, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia tác động ngày càng lớn đến an ninh của các quốc gia trong khu vực.
Các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang tăng cường hợp tác và hội nhập để biến Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Hiến chương ASEAN đã có hiệu lực, mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác khu vực. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá - Xã hội vào năm 2015. Quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác ngoài khu vực vì hòa bình, ổn định và phát triển được tăng cường. Hoạt động theo các nguyên tắc "tự nguyện", "đồng thuận", "không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau", ASEAN tiếp tục đóng vai trò chủ đạo đối với các vấn đề an ninh ở Đông Nam Á, trong quá trình vận động và phát triển của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và các cơ chế an ninh khu vực khác. Liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, các nước ASEAN tiếp tục cam kết tuân thủ và thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và đang nỗ lực hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC) , nhằm đạt được giải pháp lâu dài cho vấn đề phức tạp này trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
1.2. Việt Nam
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đ ã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quốc phòng - an ninh được giữ vững. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong cải thiện môi trường an ninh của đất nước. Việt Nam đã tích cực đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia trên bộ, trên biển.
Lần đầu tiên trong lịch sử, biên giới trên đất liền của Việt Nam đã cơ bản được phân định rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam và các nước láng giềng xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Đây là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam và các bên có liên quan trong vi ệc giải quyết vấn đề hệ trọng và nhạy cảm này. Việt Nam cũng tích cực giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Ranh giới biển giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ đã được phân định. Một số vấn đề nảy sinh tại các khu vực chồng lấn tr ên biển giữa Việt Nam với các nước khác đã và đang được giải quyết.
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với tất cả các nước đang được củng cố và ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về an ninh đa dạng và phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn do chưa đủ mạnh lại chịu tác động lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù quốc phòng - an ninh của đất nước vẫn được giữ vững nhưng nhiều nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội từ bên ngoài và ở bên trong vẫn còn tồn tại, chưa được khắc phục triệt để. Các quyền tự do dân chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề nhân quyền đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động bạo loạn, ly khai tại một số khu vực của đất nước. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông có những diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến hoạt động của nhân dân và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Những vấn đề an ninh phi truyền thống như buôn bán và vận chuyển trái phép vũ khí, ma tuý, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức, khủng bố, nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi trư ờng, biến đổi khí hậu, bệnh dịch... cũng là những mối quan tâm an ninh thường xuyên của Việt Nam.
2. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG
2.1. Những vấn đề cơ bản trong chính sách quốc phòng
Việt Nam luôn coi việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước, là mục tiêu xuyên suốt của chính sách quốc phòng Việt Nam. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình. Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang. Là một dân tộc phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.
Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước 1982 về luật biển của Liên hợp quốc. Trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề này, Việt Nam chủ trương các bên phải tự kiềm chế, nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC), tiến tới đạt được giải pháp công bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp này để Biển Đông luôn luôn là vùng biển hoà bình, hữu nghị và phát triển.
Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị do ************* Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng quân sự và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia khác của đất nước trong tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều thay đổi, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân dựa trên truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của toàn dân tộc, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, kế thừa và phát huy các giá trị của khoa học quân sự Việt Nam qua các thời kỳ, xây dựng nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh hiện đại.Tích cực, chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là một trong các nhiệm vụ trọng yếu của quốc phòng Việt Nam trong thời bình nhằm thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà không cần phải tiến hành chiến tranh. Việt Nam chủ trương thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá - xã hội và quân sự nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh. Quán triệt phương châm phòng thủ toàn diện, chủ động, bảo vệ Tổ quốc từ xa, quốc phòng Việt Nam sử dụng các biện pháp tổng hợp nhằm giữ vững ổn định bên trong, ngăn ngừa các nguy cơ can thiệp từ bên ngoài.
Quốc phòng Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng v à Nhà nước Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với nhân dân và chính phủ các nước, tạo cơ sở mở rộng hợp tác, giải quyết các mâu thuẫn nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xung đột, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện chính sách quố c phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc ph òng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác. Đồng thời, Việt Nam chú trọng phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi. Việt Nam coi trọng hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống đồng thời phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước có chung mục tiêu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước để giải quyết các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại đồng thời hoan nghênh các sáng kiến và các hoạt động phục vụ hoà bình, hợp tác của tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị hay lịch sử quan hệ với Việt Nam.
Việt Nam kiên quyết lên án và chống lại hành động khủng bố dưới mọi hình thức đồng thời phản đối các hoạt động lợi dụng chống khủng bố để can thiệp v ào công việc nội bộ của các nước. Cùng với nỗ lực thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và đối phó với các hoạt động khủng bố, Việt Nam ủng hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế và mở rộng hợp tác nhằm ngăn ngừa các hoạt động khủng bố và các hoạt động hỗ trợ khủng bố dưới mọi hình thức. Việt Nam cho rằng các biện pháp chống khủng bố và hợp tác quốc tế chống khủng bố phải được tiến hành trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam đã ký 8 trong tổng số 12 công ước của Liên hợp quốc về chống khủng bố, đang xem xét tham gia các công ước còn lại.
Việt Nam ủng hộ giải quyết các điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột khác trong khu vực thông qua đối thoại, thương lượng hoà bình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực.
2.2. Đối ngoại và hợp tác quốc phòng
Là một đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế theo phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hoà bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới.
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, an ninh của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh của thế giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc tế.
Quân đội nhân dân Việt Nam chủ tr ương mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Việt Nam đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới mọi hình thức như trao đổi các đoàn quân sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế... nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin và ngăn ngừa xung đột.
Việt Nam mong muốn mở rộng quan hệ quốc phòng song phương với tất cả các quốc gia. Các lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước là trao đổi các đoàn quân sự, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; hợp tác huấn luyện, đ ào tạo, giải quyết các vấn đề nhân đạo… Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam.
Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc ph òng với các nước ASEAN trong khuôn khổ ch ương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN và phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm.
Việt Nam chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các nước có liên quan, giúp cho các bên hiểu rõ quan điểm của nhau, tạo ra cơ hội giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Việt Nam đã tiến hành đối thoại quốc phòng - an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ… Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước cũng được coi trọng. Việt Nam đã đón 46 đoàn gồm 81 lượt tàu, hơn 18000 lượt sĩ quan và thuỷ thủ hải quân các nước tới thăm các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008, lần đầu tiên, Việt Nam đã cử đoàn tàu hải quân đi thăm hữu nghị nước ngoài.
Do điều kiện địa lý, lịch sử và quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu, nhiều vấn đề quốc phòng, an ninh của Việt Nam ngày càng liên quan chặt chẽ với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, đi đôi với hoạt động trao đổi các đoàn quân sự, hợp tác về huấn luyện, đào tạo... với tất cả các nước, Việt Nam ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề quốc phòng - an ninh song phương. Việt Nam đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc; đang tiến hành phân giới cắm mốc tại nhiều khu vực bi ên giới quan trọng và đã thỏa thuận hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2012 với Căm-pu-chia; đã hoàn thành phân định và đang tăng dày mốc biên giới với Lào; đang tăng cường phối hợp tuần tra kiểm soát khu vực biên giới trên đất liền giữa bộ đội biên phòng Việt Nam với lực lượng biên phòng và an ninh các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các Điều ước quốc tế về biên giới, các thoả thuận hợp tác biên phòng nhằm phòng chống các loại tội phạm như buôn lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ v à trẻ em, ma tuý... góp phần xây dựng biên giới hoà bình và hữu nghị. Việt Nam đã cố gắng giải quyết các vấn đề bi ên giới trên biển, mở rộng hợp tác với các nước khác để bảo đảm an ninh biển. Hải quân Việt Nam đã lập đường dây nóng và tiến hành
tuần tra chung với hải quân một số nước như Căm-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp bảo vệ an ninh trên các vùng chồng lấn và khu vực giáp ranh trên biển.
Thiết lập và duy trì quan hệ giữa Tổng cục Tình báo quốc phòng Việt Nam và các cơ quan tình báo quân sự các nước là kênh trao đổi thông tin quan trọng về các vấn đề quốc phòng - an ninh.
Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác đa phương trên lĩnh vực giữ gìn an ninh của các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)...
Là thành viên chính thức của Liên hợp quốc từ năm 1977, Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình đồng thời tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các vấn đề an ninh quốc tế. Trong thời gian l à Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Li ên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) Việt Nam đã tham khảo ý kiến của các nước không liên kết, phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên Hội đồng bảo an để đưa ra các quyết định về các vấn đề an ninh quốc tế phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.Việt Nam đánh giá cao vai trò và coi hoạt động giữ gìn hoà bình là một chức năng quan trọng của Liên hợp quốc. Để hoàn thành tốt chức năng này, các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia; bảo đảm tính vô tư, không thiên vị và chỉ được triển khai khi được các bên liên quan đồng ý. Việt Nam đang hoàn tất quá trình chuẩn bị để có thể tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đang tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước khác, chuẩn bị nhân sự có đủ tr ình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp quốc tế để có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc với hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ chủ trương ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hòa bình, an ninh và giải trừ quân bị, Việt Nam tích cực tham gia vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng như giải quyết hậu quả xung đột vũ trang và chiến tranh. Việt Nam đã cùng các nước Đông Nam Á khác ký Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Việt Nam kêu gọi các nước sở hữu vũ khí hạt nhân tham gia Nghị định thư của Hiệp ước này để Đông Nam Á mãi mãi là khu vực không có vũ khí hạt nhân. Phù hợp với chủ trương nhất quán là ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về giải trừ quân bị, Việt Nam hoan nghênh những sáng kiến nhằm ngăn chặn việc phát triển, sản xuất, tàng trữ, và sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Đồng thời, Việt Nam cho rằng các quốc gia có quyền nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ hạt nhân, hoá học và sinh học vì mục đích hoà bình theo các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam đã tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh nhiều công ước, hiệp định, nghị định thư về cấm phổ biến các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt và các công ước quốc tế về giải trừ quân bị khác. Việt Nam cũng đang nghiêm chỉnh xem xét các điều ước, công ước quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi tham gia.
Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Để nâng cao hiệu quả hợp tác trên lĩnh vực này, Việt Nam chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác cả song phương và đa phương như trao đổi thông tin, kinh nghiệm, lập c ơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước để phòng ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đang chuẩn bị về nhân sự và trang bị kỹ thuật để có thể tham gia các hoạt động diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông, trước hết là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.
Việt Nam chú trọng tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN dựa trên các cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Các cơ chế này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc “đồng thuận”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, “không biến Cộng đồng ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”... và các nguyên tắc cơ bản khác của Hiến chương ASEAN. Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và các hội nghị quan chức quốc phòng khác, ủng hộ các sáng kiến tăng cường hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN nhằm giải quyết các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm. Trên tinh thần đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác đa phương với các nước ASEAN trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh như tham dự các hội nghị quốc phòng các nước ASEAN ở tất cả các cấp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng quốc phòng, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, chống khủng bố, tham gia các hoạt động nhân đạo trong phòng chống thiên tai, cử quan sát viên tới dự các cuộc diễn tập quân sự của các nước trong khu vực... Năm 2010, với tư cách là chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các n ước thành viên khác tổ chức thành công các hội nghị và hoạt động nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng giữa các nước trong Hiệp hội. Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng ủng hộ và tham gia tích cực vào nỗ lực mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng - an ninh với các đối tác bên ngoài ASEAN nhằm góp phần duy trì hoà bình, ổn định ở khu vực và trên toàn thế giới.