- Biển số
- OF-152192
- Ngày cấp bằng
- 9/8/12
- Số km
- 3,180
- Động cơ
- 377,470 Mã lực
Nên đọc bài này ...
Chúng ta đu dây diện chơi
Đồng USD với Yên Nhật – Cái bẫy đang chờ Trung Quốc phía trước
Ngày đăng:
Thứ ba, Tháng 11 3, 2015 - 21:00
Trung Quốc hiện đang trải qua những gì mà Nhật Bản đã gặp phải cách đây mấy thập kỷ: đó là sự suy giảm tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ do những sức ép đòi hạn chế xuất khẩu đối với hàng hóa Nhật Bản từ Mỹ. Vào khoảng thời gian cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, thời điểm mà hàng hóa của Nhật Bản đang vươn ra và thống trị thị trường toàn cầu một cách mạnh mẽ, thì Mỹ với mục đích bảo vệ cho các nhà xuất khẩu của mình, đã cáo buộc Nhật Bản là cạnh tranh không lành mạnh để giúp tăng lượng hàng hóa xuất khẩu lên cao. Mỹ sau đó, đã tung ra những trừng phạt thương mại nghiêm khắc, hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản và đã thành công trong việc ép buộc Nhật Bản phải đồng ý để Yên tăng giá trị so với đồng USD, qua đó tự làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Nhật đặc biệt là so với hàng hóa Mỹ - chính điều này đã khiến cho cơn sóng tăng trưởng kinh tế thần kỳ (1955 - 1973) của Nhật Bản bị chặn hẳn lại.
Và điều mà đã từng xảy ra với Nhật Bản này, thì nay có thể lại xảy ra một lần nữa với Trung Quốc. Với tốc độ tăng trưởng đang chậm lại rõ rệt của mình, mà một phần áp lực đến từ sự mạnh lên của đồng Nhân Dân Tệ trong nhiều năm qua – được quy cho việc Trung Quốc phải chịu áp lực đòi tăng tỷ giá Nhân Dân Tệ, hạn chế xuất khẩu của phía Mỹ. Với trường hợp của Nhật Bản trước đây, tỷ giá hối đoái thực (đã điều chỉnh theo lạm phát) của đồng Yên từ năm 1964 (1) cho đến năm 2014 đã tăng trên 66% so với đồng USD, như vậy giá trị của đồng Yên ngày càng trở nên đắt hơn so với các đồng tiền khác, đặc biệt từ năm sau 1985 trở đi.
1. Thời điểm đồng Yên Nhật chính thức có thể được chuyển đổi với các loại ngoại tệ khác trên tài khoản vãng lai
Giai đoạn này, giá trị của đồng Yên đã tăng dần dần trong các năm 1960 và 1970, mức tăng này thì không có gì bất thường vì nó trùng với khoảng thời gian tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Nhật Bản (giai đoạn phục hồi: 1945 – 1954 và giai đoạn bứt phá 1954 - 1973). Sau đó, bằng việc dùng tới những áp lực, đe dọa thương mại, Mỹ đã khiến Nhật Bản phải đã đồng ý ký kết vào một Hiệp định cải tổ lại thị trường tiền tệ, ngoái hối vào giữa những năm 1980, bắt đầu với Thỏa ước Plaza – kỳ ngày 22/9/1985 bởi 5 nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật.
Theo thỏa ước Plaza thì các nước tham gia đồng ý can thiệp vào tỷ giá trên thị trường ngoại hối để làm giảm giá trị đồng USD so với đồng Yên Nhật và Mác Đức bằng việc bán ra tổng cộng 10 tỷ USD trên thị trường ngoại hối và mua lại vào các đồng tiền: Yên, Mác. Đồng USD đã giảm 51% giá trị so với Yên Nhật chỉ 2 năm sau khi hiệp định được ký kết và tiếp tục giảm trong các năm sau đó. Thỏa ước này nhằm giúp kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1980 cũng như bảo vệ vị thế thương mại quốc tế của hàng hóa xuất khẩu từ Mỹ.
Đối với kinh tế Nhật Bản lúc đó – nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, việc đồng Yên tăng giá mạnh mẽ so với đồng USD và các đồng tiền khác đã khiến các nhà xuất khẩu Nhật Bản thiệt hại nặng nề, kéo theo kinh tế Nhật Bản đi xuống. Để kích thích nền kinh tế, cứu vãn tình hình, Nhật Bản đã phải nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất xuống mức thấp – tuy nhiên cần nhớ rằng giá trị đồng Yên vẫn phải duy trì ở mức cao so với USD theo thỏa ước Plaza. Ngoài ra, thời điểm này, tận dụng việc đồng Yên tăng giá so với các đồng tiền khác nên các công ty, Nhật Bản càng tích cực vay vốn, đẩy mạnh “xuất khẩu tư bản” – đầu tư vốn trực tiếp ra nước ngoài để giúp giảm chi phí sản xuất, tăng cạnh tranh cho hàng hóa.
Với việc duy trì lãi suất ở mức thấp, nhằm kích thích kinh tế thì làn sóng đầu tư – nhằm vào điều kiện kinh tế “lỏng” của Nhật Bản đã thu hút dòng vốn đầu tư ồ ạt tràn vào Nhật Bản, điều này càng khiến đồng Yên tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác do tác động từ việc chuyển đổi tiền tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên chính dòng vốn đầu tư nước ngoài này đang tạo điều kiện để một bong bóng tài chính dần hình thành. Lý do cơ bản là vì đồng Yên mạnh so với các đồng tiền khác không giúp cải thiện được tình hình sản xuất, lao động, thu nhập, tiêu dùng trong nước vì các nhà sản xuất Nhật Bản đang dần chuyển công xưởng, nhà máy ra nước ngoài để tận dụng chi phí sản xuất rẻ, điều này dẫn tới kinh tế mất động lực tăng trưởng cơ bản, do đó dòng vốn đầu tư – chủ yếu là đầu cơ đổ vào nền kinh tế kết hợp với lãi suất thấp sẽ làm tăng giá các loại tài sản, đặc biệt là chứng khoán, bất động sản mà cũng không tạo được nhiều động lực vì xu hướng dịch chuyển đầu tư rất lớn mạnh. Chính 3 yếu tố cơ bản này dẫn tới việc hình thành bong bóng tài sản, tài chính trong nền kinh tế Nhật Bản. Đến năm 1990, bong bóng đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật Bản nổ vỡ kéo theo cả bong bóng bất động sản nổ vỡ theo vào năm 1992, đã chính thức kéo Nhật Bản bước vào 2 thập kỷ tăng trưởng trì trệ và giảm phát. Yếu tố dòng vốn đầu cơ thể hiện ở chỗ sau năm 1985 các quỹ đầu tư Mỹ, đi đầu là Solomon Brother và tiếp đó là hàng loạt các quỹ Phòng hộ - Hedge Fund kéo vào Nhật Bản, đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản, trong số những cái tên nổi bật nhất thì có quỹ Quantum của tỷ phú George Soros, ông đã cùng Solomon Brother khuyến khích các quỹ đầu tư tương hỗ và cả các quỹ Phòng hộ đổ tiền vào Nhật sau năm 1985. Nhưng chỉ sau vài năm, ngay trước khi bong bóng nổ vỡ George Soros và quỹ Quantum đã rút chân nhanh chóng khỏi Nhật Bản, điều này thể hiện rõ tính chất đầu cơ chớp nhoáng của cái gọi là dòng vốn đầu tư đổ vào Nhật Bản – đó là dòng vốn đầu cơ ngắn hạn hơn là đầu tư dài hạn.
Bất chấp việc kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng trì trệ nhưng Mỹ vẫn tiếp tục ép Nhật Bản phải duy trì giá trị của đồng Yên ở mức cao so với đồng USD trong suốt thời gian này để bảo hộ cho hàng hóa xuất khẩu của mình, xu hướng này chỉ suy giảm từ sau năm 2000 và kéo dài tới khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra năm 2008. Sau các diễn biến như vậy thì lý do hợp lý nhất để giải thích cho việc tại sao Nhật Bản lại vẫn phải luôn duy trì giá trị của đồng Yên bất chấp việc nền kinh tế trì trệ sau hàng thập kỷ đó là vì Nhật Bản sợ Mỹ trả đũa thương mại nếu như họ phá giá đồng Yên.
Năm 2012 đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ mà chính xác là sự “đảo ngược” mạnh mẽ trong chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Tôi còn nhớ những sự kiện lớn trùng với thời điểm này đó: trong giai đoạn cuối năm 2012 đến giữa năm 2013, tỷ phú George Soros đã kiếm được khoản lợi nhuận khoảng 1,3 tỷ USD nhờ vào các vị thế đặt bán đồng Yên Nhật so với USD từ hồi tháng 6/2012 – tức là George Soros đã đặt bán Yên Nhật 3 tháng trước khi ông Shizo Abe chính thức được đắc cử Thủ tướng Nhật vào tháng 9/2012. Sự chiến thắng của ông Abe chính là mốc đánh dấu cho sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Từ đây, bằng việc ban bố chính sách kinh tế Abenomics của mình và đi kèm với 3 mục tiêu lớn trong đó có biện pháp kích thích tiền tệ mạnh tay bằng việc tăng gói kích thích nới lỏng định lượng – Quantitavtive Easing lên khoảng 60 – 70 nghìn tỷ Yên/năm để mua vào các loại trái phiếu chính phủ dài hạn nhằm hạ thấp chi phí cho vay và giá trị của đồng Yên, thì đà tăng giá của đồng Yên mới bị đảo ngược – từ tháng 6/2012 tới nay, Yên đã mất khoảng 55,8% giá trị so với USD. Một sự kiện nữa mà tôi chứng kiến đó là ngay thời điểm BOJ công bố tăng quy mô gói kích thích QE của họ vào chiều 4/4/2013 theo giờ Việt Nam (cũng là buổi chiều tại Tokyo), thì ngay sau khi thông báo của BOJ được đưa ra khoảng 1 phút thì Yên Nhật đã mất giá tới 3% so với USD trên thị trường ngoại hối và chỉ trong ngày giao dịch hôm đó đồng Yên mất tới 4% giá trị, một mức sụt giảm rất mạnh. Kể từ thời điểm BOJ phá giá Yên Nhật thì Mỹ mà đặc biệt các tập đoàn kỹ nghệ, nhóm lợi ích công nghiệp Mỹ luôn kêu ca, vận động hành lang chính phủ Mỹ để cáo buộc Nhật Bản đang thao túng tiền tệ, cạnh tranh không lành mạnh nhưng kỳ thực mức sụt giảm của Yên từ 2012 tới nay chưa đáng kể gì so với những thiệt hại gây ra bởi việc chính phủ Mỹ ép buộc Nhật Bản tăng giá trị đồng Yên – điều vốn đã bóp chết tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong gần 3 thập kỷ qua.
Biểu đồ tỷ giá USD/JPY (giai đoạn 2008 đến nay USD là đồng tiền tăng giá mạnh nhất trong số 8 đồng tiền chính của thế giới)
Trung Quốc hiện cũng đang phải đối mặt với nguy cơ của một chuỗi các sự kiện tương tự như Nhật Bản đã trải qua. Xuất khẩu của Trung Quốc bắt đầu bùng nổ vào giữa những năm 2000, đã khiến các quan chức Mỹ thấp thỏm và đe dọa trả đũa thương mại trừ khi các chính phủ Trung Quốc phải thực hiện những bước đi nhằm hạn chế xuất khẩu chẳng hạn như bằng cách tăng giá đồng Nhân Dân Tệ, và chuyển sang nền kinh tế "tăng trưởng dựa vào tiêu dùng dịch vụ” thay vì dựa vào xuất khẩu hàng hóa – đây cũng là bước đi mà Trung Quốc đang hướng tới, mà trong bài “Trung Quốc hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững” trước có đề cập tới. Đây cũng chính là thông điệp mà trước đây được người Mỹ phát đi cho chính phủ Nhật Bản. Những sức ép đòi tăng giá đồng Nhân Dân Tệ của Mỹ đã càng trở nên mạnh hơn sau khi Đại khủng hoảng kinh tế năm 2008 nổ ra - đe dọa tới nền kinh tế Mỹ, trong khi sức ép cạnh tranh từ hàng hóa Trung Quốc không hề nhỏ đe dọa thị trường của các nhà sản xuất Mỹ.
Và quả thực thì khi nhìn lại tỷ giá hối đoái thực tế của đồng Nhân Dân Tệ Trung Quốc kể từ khi Trung Quốc cho phép Nhân Dân Tệ được chuyển đổi với các loại ngoại tệ khác trên tài khoản vãng lai (1996) cho đến ngày hôm nay thì đồng tiền này bắt đầu tăng giá mạnh từ năm sau 2007. Như trường hợp của Nhật Bản, việc đồng tiền tăng giá sẽ gây mất ổn định cho dòng vốn chảy vào Trung Quốc, khi mà giới đầu tư lo ngại Nhân Dân Tệ của Trung Quốc sẽ bị buộc phải tăng giá như Yên Nhật trước đây họ sẽ rút sản xuất, vốn khỏi Trung Quốc vì chi phí sản xuất sẽ trở nên đắt đỏ hơn trong khi dòng vốn đầu cơ trên thị trường ngoại hối sẽ đầu cơ vào đà tăng của Nhân Dân Tệ, càng khiến đồng tiền này có nguy cơ bị định giá quá cao.
Sự gia tăng giá trị của đồng Yên đã dẫn Nhật Bản rơi vào một bong bóng tài chính. Còn sự tăng giá của Nhân Dân Tệ đã dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng mức xuất khẩu hàng năm của Trung Quốc, từ mức trên 15% (giai đoạn từ 2000 - 2008) xuống dưới 10%, và bây giờ thị trường chứng khoán nước này cũng đang liên tục gặp biến động do giá chứng khoán bị đẩy lên cao khi dòng vốn được khuyến khích đổ vào thị trường sau một loạt các biện pháp nới lỏng, kích thích thị trường. Và để ổn định lại thị trường, NHTW Trung Quốc - PBOC đã phải cắt giảm lãi suất tới 6 lần trong năm nay và kèm theo đó là các hạ mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống rồi bơm thanh khoản ngắn hạn cho thị trường.
Xét theo NEER (Norminal Effective Exchange Rate hay Trade Weighted Exchange Rate) (4) thì từ năm 2007 đến năm 2014, đồng Nhân Dân Tệ đã tăng giá khoảng 32% so với rổ tiền tệ của 10 đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc; cho tới giữa năm nay thì mức tăng này đã chạm mốc 40%. Chỉ số NEER tăng cũng phản ánh phần nào sự gia tăng về mặt danh nghĩa so với đồng USD, cũng như sự gia tăng giá trị đối với các đồng tiền khác, chẳng hạn như các đồng Euro, Yên, Won Hàn Quốc vì đây đều là những đối tác thương mại lớn của Trung Quốc.
4. NEER (Nominal effective exchange rate hay trade weighted exchange rate): là mức tỷ giá trung bình chưa điều chỉnh theo lạm phát, đo giá trị tương đối một đồng tiền so với một rổ các đồng tiền của những đối tác thương mại lớn nhất – có tỷ trọng thương mại lớn nhất với nước đó.Chỉ số này giúp đánh giá một phần yếu tố cạnh tranh thương mại – hàng hóa xuất nhập khẩu của một nước với các đối tác thương mại của họ.
Đồng Nhân Dân Tệ vẫn bị đính giá quá cao, bất chấp đợt phá giá “khiêm tốn” 3% của PBOC hôm 11/8 so với đồng USD tại thị trường trong nước. Sự tăng giá của đồng Nhân Dân Tệ nên được so sánh với các diễn biến tỷ giá gần đây của đồng Yên và đồng Won để cho thấy tính tương quan trong sự thay đổi tỷ giá của đồng tiền này so với đồng USD và mặt bằng tỷ giá chung so với các đồng tiền khác. Tính đến tháng 5/2015, giá trị thực tế của đồng Yên (đã tính vào lạm phát) đã giảm khoảng 7% kể từ năm 2007 so với USD, còn đồng Won cũng đã giảm so với USD khoảng 3%, do đó việc Nhân Dân Tệ tăng giá so với USD càng làm tăng thêm áp lực chi phí hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc so với các đối thủ cạnh tranh lớn tại châu Á của họ là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Việc tăng giá của đồng Nhân Dân Tệ so với USD và các đồng tiền khác của châu Á, còn có tác động xấu khác trong dài hạn, đó là vì xuất khẩu của Trung Quốc có xu hướng dần dần hướng tập trung vào các thị trường châu Á, châu Phi thay vì hướng tập trung xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Vì vậy việc làm giảm giá trị của đồng Nhân Dân Tệ dường như là rất cần thiết để cho Trung Quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đang suy giảm của mình và tránh cái bẫy mà Nhật Bản đã mắc phải. Tuy nhiên, áp lực chính trị từ Mỹ và châu Âu, biểu hiện qua các hành động như cáo buộc Trung Quốc thao túng tiền tệ và cạnh tranh thương mại không lành mạnh, cũng như những chỉ trích nhắm vào việc Trung Quốc đang muốn quốc tế hóa Nhân Dân Tệ để đòi hỏi nước này phải có những hành động đảm bảo lòng tin và uy tín của thế giới vào Nhân Dân Tệ, tránh những hành động theo hướng phá giá đồng tiền của mình, có thể khiến Trung Quốc không dám phá giá Nhân Dân Tệ.
Bằng chứng là, chỉ ngay sau sự kiện phá giá Nhân Dân Tệ 3% so với USD tại thị trường trong nước, hàng loạt các quan chức cao cấp của PBOC lẫn các lãnh đạo Trung Quốc đề đưa ra những nhận định và đảm bảo rằng sẽ không phá giá thêm Nhân Dân Tệ hay không có cơ sở nào để phải làm điều này. Và thực tế là trong những tháng gần đây, NHTW Trung Quốc PBOC đã thực hiện các biện pháp bảo vệ giá trị của đồng Nhân Dân Tệ thông qua việc bán ra dự trữ ngoại hối, đặc biệt trái phiếu kho bạc Mỹ để mua vào Nhân Dân Tệ, ghìm cho giá trị Nhân Dân Tệ không suy giảm thêm nữa. (Đọc thêm sự kiện: Kinh tế toàn cầu giảm tốc, trái phiếu kho bạc Mỹ bị “xả hàng”).
Đầu năm nay, các tờ báo phương Tây liên tục đưa ra “4 lập luận” để lý giải tại sao Trung Quốc không nên phá giá đồng tiền. 3 Lý do mà họ đưa ra đó là:
- Việc phá giá Nhân Dân Tệ có thể kích động một cuộc chiến tranh tiền tệ ở châu Á.
- Các công ty của Trung Quốc đang gánh một khoản nợ lớn thanh toán bằng đồng USD (3), đặc biệt các khoản nợ liên quan tới lĩnh vực bất động sản chiếm tỷ trong lớn nhất – đồng Nhân Dân Tệ giảm giá so với USD sẽ làm tăng gánh nặng nợ này.
- Giảm giá Nhân Dân Tệ có thể khiến Mỹ đưa ra các cáo buộc thao túng tiền tệ đối với Trung Quốc.
- Và phá giá Nhân Dân Tệ có thể đe dọa quá trình quốc tế hóa đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc mà đặc biệt ảnh hưởng tới tiến trình được IMF chọn đưa vào rổ tiền tệ dự trữ - cấu thành nên quyền rút vốn đặc biệt SDR vì lý do Trung Quốc can thiệp vào thị trường ngoại hối thay vì để thị trường tự do quyết định tỷ giá.
Chính những điều tương tự đã từng đưa kinh tế Nhật Bản chìm trong trì trệ gần 3 thập kỷ qua. Đối với Trung Quốc những lập luận trên mà đặc biệt là vấn đề thứ 2 rất đáng phải cân nhắc. Nhưng nên đặt câu hỏi rằng: cái giá phải trả như bài học từ người hàng xóm Nhật Bản có quá là đắt so với rủi ro từ vấn đề thứ 2 gây ra hay không? Và nếu một nền kinh tế rơi vào cảnh trì trệ thì việc quốc tế hóa đồng tiền của nền kinh tế đó có khả thi hay không? Trung Quốc cần tính toán thiệt hại vì chỉ họ mới biết bên trong mình đang có vấn đề gì để tránh lặp lại tấm gương nước Nhật.
http://dachieu24h.com/dong-usd-voi-yen-nhat-cai-bay-dang-cho-trung-quoc-phia-truoc
Chúng ta đu dây diện chơi
Đồng USD với Yên Nhật – Cái bẫy đang chờ Trung Quốc phía trước
Ngày đăng:
Thứ ba, Tháng 11 3, 2015 - 21:00
Trung Quốc hiện đang trải qua những gì mà Nhật Bản đã gặp phải cách đây mấy thập kỷ: đó là sự suy giảm tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ do những sức ép đòi hạn chế xuất khẩu đối với hàng hóa Nhật Bản từ Mỹ. Vào khoảng thời gian cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, thời điểm mà hàng hóa của Nhật Bản đang vươn ra và thống trị thị trường toàn cầu một cách mạnh mẽ, thì Mỹ với mục đích bảo vệ cho các nhà xuất khẩu của mình, đã cáo buộc Nhật Bản là cạnh tranh không lành mạnh để giúp tăng lượng hàng hóa xuất khẩu lên cao. Mỹ sau đó, đã tung ra những trừng phạt thương mại nghiêm khắc, hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản và đã thành công trong việc ép buộc Nhật Bản phải đồng ý để Yên tăng giá trị so với đồng USD, qua đó tự làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Nhật đặc biệt là so với hàng hóa Mỹ - chính điều này đã khiến cho cơn sóng tăng trưởng kinh tế thần kỳ (1955 - 1973) của Nhật Bản bị chặn hẳn lại.
Và điều mà đã từng xảy ra với Nhật Bản này, thì nay có thể lại xảy ra một lần nữa với Trung Quốc. Với tốc độ tăng trưởng đang chậm lại rõ rệt của mình, mà một phần áp lực đến từ sự mạnh lên của đồng Nhân Dân Tệ trong nhiều năm qua – được quy cho việc Trung Quốc phải chịu áp lực đòi tăng tỷ giá Nhân Dân Tệ, hạn chế xuất khẩu của phía Mỹ. Với trường hợp của Nhật Bản trước đây, tỷ giá hối đoái thực (đã điều chỉnh theo lạm phát) của đồng Yên từ năm 1964 (1) cho đến năm 2014 đã tăng trên 66% so với đồng USD, như vậy giá trị của đồng Yên ngày càng trở nên đắt hơn so với các đồng tiền khác, đặc biệt từ năm sau 1985 trở đi.
1. Thời điểm đồng Yên Nhật chính thức có thể được chuyển đổi với các loại ngoại tệ khác trên tài khoản vãng lai
Giai đoạn này, giá trị của đồng Yên đã tăng dần dần trong các năm 1960 và 1970, mức tăng này thì không có gì bất thường vì nó trùng với khoảng thời gian tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Nhật Bản (giai đoạn phục hồi: 1945 – 1954 và giai đoạn bứt phá 1954 - 1973). Sau đó, bằng việc dùng tới những áp lực, đe dọa thương mại, Mỹ đã khiến Nhật Bản phải đã đồng ý ký kết vào một Hiệp định cải tổ lại thị trường tiền tệ, ngoái hối vào giữa những năm 1980, bắt đầu với Thỏa ước Plaza – kỳ ngày 22/9/1985 bởi 5 nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật.
Theo thỏa ước Plaza thì các nước tham gia đồng ý can thiệp vào tỷ giá trên thị trường ngoại hối để làm giảm giá trị đồng USD so với đồng Yên Nhật và Mác Đức bằng việc bán ra tổng cộng 10 tỷ USD trên thị trường ngoại hối và mua lại vào các đồng tiền: Yên, Mác. Đồng USD đã giảm 51% giá trị so với Yên Nhật chỉ 2 năm sau khi hiệp định được ký kết và tiếp tục giảm trong các năm sau đó. Thỏa ước này nhằm giúp kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1980 cũng như bảo vệ vị thế thương mại quốc tế của hàng hóa xuất khẩu từ Mỹ.
Đối với kinh tế Nhật Bản lúc đó – nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, việc đồng Yên tăng giá mạnh mẽ so với đồng USD và các đồng tiền khác đã khiến các nhà xuất khẩu Nhật Bản thiệt hại nặng nề, kéo theo kinh tế Nhật Bản đi xuống. Để kích thích nền kinh tế, cứu vãn tình hình, Nhật Bản đã phải nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất xuống mức thấp – tuy nhiên cần nhớ rằng giá trị đồng Yên vẫn phải duy trì ở mức cao so với USD theo thỏa ước Plaza. Ngoài ra, thời điểm này, tận dụng việc đồng Yên tăng giá so với các đồng tiền khác nên các công ty, Nhật Bản càng tích cực vay vốn, đẩy mạnh “xuất khẩu tư bản” – đầu tư vốn trực tiếp ra nước ngoài để giúp giảm chi phí sản xuất, tăng cạnh tranh cho hàng hóa.
Với việc duy trì lãi suất ở mức thấp, nhằm kích thích kinh tế thì làn sóng đầu tư – nhằm vào điều kiện kinh tế “lỏng” của Nhật Bản đã thu hút dòng vốn đầu tư ồ ạt tràn vào Nhật Bản, điều này càng khiến đồng Yên tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác do tác động từ việc chuyển đổi tiền tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên chính dòng vốn đầu tư nước ngoài này đang tạo điều kiện để một bong bóng tài chính dần hình thành. Lý do cơ bản là vì đồng Yên mạnh so với các đồng tiền khác không giúp cải thiện được tình hình sản xuất, lao động, thu nhập, tiêu dùng trong nước vì các nhà sản xuất Nhật Bản đang dần chuyển công xưởng, nhà máy ra nước ngoài để tận dụng chi phí sản xuất rẻ, điều này dẫn tới kinh tế mất động lực tăng trưởng cơ bản, do đó dòng vốn đầu tư – chủ yếu là đầu cơ đổ vào nền kinh tế kết hợp với lãi suất thấp sẽ làm tăng giá các loại tài sản, đặc biệt là chứng khoán, bất động sản mà cũng không tạo được nhiều động lực vì xu hướng dịch chuyển đầu tư rất lớn mạnh. Chính 3 yếu tố cơ bản này dẫn tới việc hình thành bong bóng tài sản, tài chính trong nền kinh tế Nhật Bản. Đến năm 1990, bong bóng đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật Bản nổ vỡ kéo theo cả bong bóng bất động sản nổ vỡ theo vào năm 1992, đã chính thức kéo Nhật Bản bước vào 2 thập kỷ tăng trưởng trì trệ và giảm phát. Yếu tố dòng vốn đầu cơ thể hiện ở chỗ sau năm 1985 các quỹ đầu tư Mỹ, đi đầu là Solomon Brother và tiếp đó là hàng loạt các quỹ Phòng hộ - Hedge Fund kéo vào Nhật Bản, đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản, trong số những cái tên nổi bật nhất thì có quỹ Quantum của tỷ phú George Soros, ông đã cùng Solomon Brother khuyến khích các quỹ đầu tư tương hỗ và cả các quỹ Phòng hộ đổ tiền vào Nhật sau năm 1985. Nhưng chỉ sau vài năm, ngay trước khi bong bóng nổ vỡ George Soros và quỹ Quantum đã rút chân nhanh chóng khỏi Nhật Bản, điều này thể hiện rõ tính chất đầu cơ chớp nhoáng của cái gọi là dòng vốn đầu tư đổ vào Nhật Bản – đó là dòng vốn đầu cơ ngắn hạn hơn là đầu tư dài hạn.
Bất chấp việc kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng trì trệ nhưng Mỹ vẫn tiếp tục ép Nhật Bản phải duy trì giá trị của đồng Yên ở mức cao so với đồng USD trong suốt thời gian này để bảo hộ cho hàng hóa xuất khẩu của mình, xu hướng này chỉ suy giảm từ sau năm 2000 và kéo dài tới khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra năm 2008. Sau các diễn biến như vậy thì lý do hợp lý nhất để giải thích cho việc tại sao Nhật Bản lại vẫn phải luôn duy trì giá trị của đồng Yên bất chấp việc nền kinh tế trì trệ sau hàng thập kỷ đó là vì Nhật Bản sợ Mỹ trả đũa thương mại nếu như họ phá giá đồng Yên.
Năm 2012 đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ mà chính xác là sự “đảo ngược” mạnh mẽ trong chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Tôi còn nhớ những sự kiện lớn trùng với thời điểm này đó: trong giai đoạn cuối năm 2012 đến giữa năm 2013, tỷ phú George Soros đã kiếm được khoản lợi nhuận khoảng 1,3 tỷ USD nhờ vào các vị thế đặt bán đồng Yên Nhật so với USD từ hồi tháng 6/2012 – tức là George Soros đã đặt bán Yên Nhật 3 tháng trước khi ông Shizo Abe chính thức được đắc cử Thủ tướng Nhật vào tháng 9/2012. Sự chiến thắng của ông Abe chính là mốc đánh dấu cho sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Từ đây, bằng việc ban bố chính sách kinh tế Abenomics của mình và đi kèm với 3 mục tiêu lớn trong đó có biện pháp kích thích tiền tệ mạnh tay bằng việc tăng gói kích thích nới lỏng định lượng – Quantitavtive Easing lên khoảng 60 – 70 nghìn tỷ Yên/năm để mua vào các loại trái phiếu chính phủ dài hạn nhằm hạ thấp chi phí cho vay và giá trị của đồng Yên, thì đà tăng giá của đồng Yên mới bị đảo ngược – từ tháng 6/2012 tới nay, Yên đã mất khoảng 55,8% giá trị so với USD. Một sự kiện nữa mà tôi chứng kiến đó là ngay thời điểm BOJ công bố tăng quy mô gói kích thích QE của họ vào chiều 4/4/2013 theo giờ Việt Nam (cũng là buổi chiều tại Tokyo), thì ngay sau khi thông báo của BOJ được đưa ra khoảng 1 phút thì Yên Nhật đã mất giá tới 3% so với USD trên thị trường ngoại hối và chỉ trong ngày giao dịch hôm đó đồng Yên mất tới 4% giá trị, một mức sụt giảm rất mạnh. Kể từ thời điểm BOJ phá giá Yên Nhật thì Mỹ mà đặc biệt các tập đoàn kỹ nghệ, nhóm lợi ích công nghiệp Mỹ luôn kêu ca, vận động hành lang chính phủ Mỹ để cáo buộc Nhật Bản đang thao túng tiền tệ, cạnh tranh không lành mạnh nhưng kỳ thực mức sụt giảm của Yên từ 2012 tới nay chưa đáng kể gì so với những thiệt hại gây ra bởi việc chính phủ Mỹ ép buộc Nhật Bản tăng giá trị đồng Yên – điều vốn đã bóp chết tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong gần 3 thập kỷ qua.
Biểu đồ tỷ giá USD/JPY (giai đoạn 2008 đến nay USD là đồng tiền tăng giá mạnh nhất trong số 8 đồng tiền chính của thế giới)
Trung Quốc hiện cũng đang phải đối mặt với nguy cơ của một chuỗi các sự kiện tương tự như Nhật Bản đã trải qua. Xuất khẩu của Trung Quốc bắt đầu bùng nổ vào giữa những năm 2000, đã khiến các quan chức Mỹ thấp thỏm và đe dọa trả đũa thương mại trừ khi các chính phủ Trung Quốc phải thực hiện những bước đi nhằm hạn chế xuất khẩu chẳng hạn như bằng cách tăng giá đồng Nhân Dân Tệ, và chuyển sang nền kinh tế "tăng trưởng dựa vào tiêu dùng dịch vụ” thay vì dựa vào xuất khẩu hàng hóa – đây cũng là bước đi mà Trung Quốc đang hướng tới, mà trong bài “Trung Quốc hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững” trước có đề cập tới. Đây cũng chính là thông điệp mà trước đây được người Mỹ phát đi cho chính phủ Nhật Bản. Những sức ép đòi tăng giá đồng Nhân Dân Tệ của Mỹ đã càng trở nên mạnh hơn sau khi Đại khủng hoảng kinh tế năm 2008 nổ ra - đe dọa tới nền kinh tế Mỹ, trong khi sức ép cạnh tranh từ hàng hóa Trung Quốc không hề nhỏ đe dọa thị trường của các nhà sản xuất Mỹ.
Và quả thực thì khi nhìn lại tỷ giá hối đoái thực tế của đồng Nhân Dân Tệ Trung Quốc kể từ khi Trung Quốc cho phép Nhân Dân Tệ được chuyển đổi với các loại ngoại tệ khác trên tài khoản vãng lai (1996) cho đến ngày hôm nay thì đồng tiền này bắt đầu tăng giá mạnh từ năm sau 2007. Như trường hợp của Nhật Bản, việc đồng tiền tăng giá sẽ gây mất ổn định cho dòng vốn chảy vào Trung Quốc, khi mà giới đầu tư lo ngại Nhân Dân Tệ của Trung Quốc sẽ bị buộc phải tăng giá như Yên Nhật trước đây họ sẽ rút sản xuất, vốn khỏi Trung Quốc vì chi phí sản xuất sẽ trở nên đắt đỏ hơn trong khi dòng vốn đầu cơ trên thị trường ngoại hối sẽ đầu cơ vào đà tăng của Nhân Dân Tệ, càng khiến đồng tiền này có nguy cơ bị định giá quá cao.
Sự gia tăng giá trị của đồng Yên đã dẫn Nhật Bản rơi vào một bong bóng tài chính. Còn sự tăng giá của Nhân Dân Tệ đã dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng mức xuất khẩu hàng năm của Trung Quốc, từ mức trên 15% (giai đoạn từ 2000 - 2008) xuống dưới 10%, và bây giờ thị trường chứng khoán nước này cũng đang liên tục gặp biến động do giá chứng khoán bị đẩy lên cao khi dòng vốn được khuyến khích đổ vào thị trường sau một loạt các biện pháp nới lỏng, kích thích thị trường. Và để ổn định lại thị trường, NHTW Trung Quốc - PBOC đã phải cắt giảm lãi suất tới 6 lần trong năm nay và kèm theo đó là các hạ mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống rồi bơm thanh khoản ngắn hạn cho thị trường.
Xét theo NEER (Norminal Effective Exchange Rate hay Trade Weighted Exchange Rate) (4) thì từ năm 2007 đến năm 2014, đồng Nhân Dân Tệ đã tăng giá khoảng 32% so với rổ tiền tệ của 10 đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc; cho tới giữa năm nay thì mức tăng này đã chạm mốc 40%. Chỉ số NEER tăng cũng phản ánh phần nào sự gia tăng về mặt danh nghĩa so với đồng USD, cũng như sự gia tăng giá trị đối với các đồng tiền khác, chẳng hạn như các đồng Euro, Yên, Won Hàn Quốc vì đây đều là những đối tác thương mại lớn của Trung Quốc.
4. NEER (Nominal effective exchange rate hay trade weighted exchange rate): là mức tỷ giá trung bình chưa điều chỉnh theo lạm phát, đo giá trị tương đối một đồng tiền so với một rổ các đồng tiền của những đối tác thương mại lớn nhất – có tỷ trọng thương mại lớn nhất với nước đó.Chỉ số này giúp đánh giá một phần yếu tố cạnh tranh thương mại – hàng hóa xuất nhập khẩu của một nước với các đối tác thương mại của họ.
Đồng Nhân Dân Tệ vẫn bị đính giá quá cao, bất chấp đợt phá giá “khiêm tốn” 3% của PBOC hôm 11/8 so với đồng USD tại thị trường trong nước. Sự tăng giá của đồng Nhân Dân Tệ nên được so sánh với các diễn biến tỷ giá gần đây của đồng Yên và đồng Won để cho thấy tính tương quan trong sự thay đổi tỷ giá của đồng tiền này so với đồng USD và mặt bằng tỷ giá chung so với các đồng tiền khác. Tính đến tháng 5/2015, giá trị thực tế của đồng Yên (đã tính vào lạm phát) đã giảm khoảng 7% kể từ năm 2007 so với USD, còn đồng Won cũng đã giảm so với USD khoảng 3%, do đó việc Nhân Dân Tệ tăng giá so với USD càng làm tăng thêm áp lực chi phí hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc so với các đối thủ cạnh tranh lớn tại châu Á của họ là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Việc tăng giá của đồng Nhân Dân Tệ so với USD và các đồng tiền khác của châu Á, còn có tác động xấu khác trong dài hạn, đó là vì xuất khẩu của Trung Quốc có xu hướng dần dần hướng tập trung vào các thị trường châu Á, châu Phi thay vì hướng tập trung xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Vì vậy việc làm giảm giá trị của đồng Nhân Dân Tệ dường như là rất cần thiết để cho Trung Quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đang suy giảm của mình và tránh cái bẫy mà Nhật Bản đã mắc phải. Tuy nhiên, áp lực chính trị từ Mỹ và châu Âu, biểu hiện qua các hành động như cáo buộc Trung Quốc thao túng tiền tệ và cạnh tranh thương mại không lành mạnh, cũng như những chỉ trích nhắm vào việc Trung Quốc đang muốn quốc tế hóa Nhân Dân Tệ để đòi hỏi nước này phải có những hành động đảm bảo lòng tin và uy tín của thế giới vào Nhân Dân Tệ, tránh những hành động theo hướng phá giá đồng tiền của mình, có thể khiến Trung Quốc không dám phá giá Nhân Dân Tệ.
Bằng chứng là, chỉ ngay sau sự kiện phá giá Nhân Dân Tệ 3% so với USD tại thị trường trong nước, hàng loạt các quan chức cao cấp của PBOC lẫn các lãnh đạo Trung Quốc đề đưa ra những nhận định và đảm bảo rằng sẽ không phá giá thêm Nhân Dân Tệ hay không có cơ sở nào để phải làm điều này. Và thực tế là trong những tháng gần đây, NHTW Trung Quốc PBOC đã thực hiện các biện pháp bảo vệ giá trị của đồng Nhân Dân Tệ thông qua việc bán ra dự trữ ngoại hối, đặc biệt trái phiếu kho bạc Mỹ để mua vào Nhân Dân Tệ, ghìm cho giá trị Nhân Dân Tệ không suy giảm thêm nữa. (Đọc thêm sự kiện: Kinh tế toàn cầu giảm tốc, trái phiếu kho bạc Mỹ bị “xả hàng”).
Đầu năm nay, các tờ báo phương Tây liên tục đưa ra “4 lập luận” để lý giải tại sao Trung Quốc không nên phá giá đồng tiền. 3 Lý do mà họ đưa ra đó là:
- Việc phá giá Nhân Dân Tệ có thể kích động một cuộc chiến tranh tiền tệ ở châu Á.
- Các công ty của Trung Quốc đang gánh một khoản nợ lớn thanh toán bằng đồng USD (3), đặc biệt các khoản nợ liên quan tới lĩnh vực bất động sản chiếm tỷ trong lớn nhất – đồng Nhân Dân Tệ giảm giá so với USD sẽ làm tăng gánh nặng nợ này.
- Giảm giá Nhân Dân Tệ có thể khiến Mỹ đưa ra các cáo buộc thao túng tiền tệ đối với Trung Quốc.
- Và phá giá Nhân Dân Tệ có thể đe dọa quá trình quốc tế hóa đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc mà đặc biệt ảnh hưởng tới tiến trình được IMF chọn đưa vào rổ tiền tệ dự trữ - cấu thành nên quyền rút vốn đặc biệt SDR vì lý do Trung Quốc can thiệp vào thị trường ngoại hối thay vì để thị trường tự do quyết định tỷ giá.
Chính những điều tương tự đã từng đưa kinh tế Nhật Bản chìm trong trì trệ gần 3 thập kỷ qua. Đối với Trung Quốc những lập luận trên mà đặc biệt là vấn đề thứ 2 rất đáng phải cân nhắc. Nhưng nên đặt câu hỏi rằng: cái giá phải trả như bài học từ người hàng xóm Nhật Bản có quá là đắt so với rủi ro từ vấn đề thứ 2 gây ra hay không? Và nếu một nền kinh tế rơi vào cảnh trì trệ thì việc quốc tế hóa đồng tiền của nền kinh tế đó có khả thi hay không? Trung Quốc cần tính toán thiệt hại vì chỉ họ mới biết bên trong mình đang có vấn đề gì để tránh lặp lại tấm gương nước Nhật.
http://dachieu24h.com/dong-usd-voi-yen-nhat-cai-bay-dang-cho-trung-quoc-phia-truoc