06- Tuần thứ hai của cuộc chiến.
Tuần thứ hai của cuộc chiến. Địa danh chiến sự vẫn không có gì thay đổi. Như vậy thì vui là ta không còn bị lấn thêm ít đất nào nữa. Nhưng vẫn thấy thiếu thiếu là chưa có sự đột biến nào.
Kể ra, đòi hỏi như thế là quá cao so với thực tế lúc ấy.
Cuộc chiến đã diễn ra được 2 tuần. Đấu lại với xích sắt xe tăng, trọng pháo thét gào với chiến thuận biển người, vẫn chỉ là cô dân quân bản mường vốn quen tay xay ngô, hay anh biên phòng chỉ quen lối tuần tra. Thiện chiến nhất cũng chỉ được vài E lính quân khu. Sức người cũng đã mỏng, mà tầng tầng, lớp lớp biển người hét hò tả lớ thì ngày một nhiều hơn. Còn các bạn quân đoàn 4, quân đoàn 3, quân đoàn 2 vẫn còn đang ở xa tít ngàn trùng.
Tin tức tham mưu con cũng hé lộ cho biết, vì sao những ngày đầu tiên trong tuần đầu cuộc chiến, địch quân lại thọc được nhanh vào phòng tuyến của ta như thế. Hoá ra, ngoài yếu tố bất ngờ và địch quân được chuẩn bị kỹ càng, còn có yếu tố có bọn dẫn đường. Dẫn đường cho quân địch luồn lách là có cả người Việt gốc Hoa, người dân tộc Mông, người dân tộc Dao.
Tinh thần chung lúc ấy là ai cũng không ưa những người này. Vì vậy, tại mặt trận, cụ thể là ở hướng Hoàng Liên, chỉ cần có cậu lính hô lên: bọn Giáy đấy (gọi chệch tên dân tộc Dao), là súng đã có thể nổ. Tại Hoàng Liên, bọn dẫn đường đưa địch quân cắt ngay đường nối từ SaPa đi Lai Châu, cũng như từ Lao Cai đi Sapa và từ Lao Cai về xuôi (đường 4D). Vì thế quân ta bị vỡ trận ngay từ giờ đầu tiên và không có đường chi viện. Từ phía sau muốn lên Lào Cay, hay từ Lào Cay rút về, duy nhất chỉ có cách đi bộ dọc đường tầu xuống tới Phố Lu. Tại Cao Bằng, địch quân dùng quái chiêu là dùng tời trợ lực, dòng-gìm xe tăng qua dãy núi phía sau, khu vực hang Pắc Bó (ngày nay, ai lên thăm hang Pắc Bó đều được nghe lại hồi ức này) , rồi dùng đường từ Pắc bó về, để đưa xe tăng lọt ngay vào thị xã Cao Bằng, chứ không dùng đường bộ qua 2 cửa khẩu Trà Lĩnh và Sóc Giang.
Cũng trong tuần thứ hai của cuộc chiến, bọn mình được làm quen với vũ khí trang bị cho 1 tiểu đội, bởi trước đó, do là học viên gửi đào tạo ngoài, nên mới chỉ biết sử dụng AK và CKC. Trong số vũ khí được huấn luyện, có một số vũ khí mới của Trung Quốc, do ta tịch thu được của Pot ở Tây Nam mới cấp tốc chuyển ra. Đó là: B-40, B-41 cải tiến, có chân giá súng như trung liên và M79 của Mỹ.
Tụi mình lao vào luyện tập, hoàn toàn không cần có bất cứ một sự thúc ép nào của giáo viên chiến thuật. Tất cả các giờ nghỉ giải lao tự nhiên biến mất. Mặc giù vẫn có còi báo nghỉ giải lao của trực ban, nhưng lúc đó lại là thời gian để quan tâm tới việc tháo lắp RPK hay M79, hay tranh thủ sử dụng thước ngắm khẩu B-41 TQ cải tiến.
Nhưng cũng tuần thứ hai của cuộc chiến, qua tham mưu con, nhiều thông tin vui hơn đến dồn dập.
Quân đoàn 2 sẽ được Liên xô giúp không vận và xa hỏa vận từ K, sẽ lên thẳng tuyến 1. Khi chuyển địa bàn tác chiến, lính quân đoàn 2 sẽ chỉ cần đi tay không, bỏ lại toàn bộ vũ khí, cũng như quân tư trang, tất cả sẽ được Liên xô trang bị mới tại ngay nơi tập kết. Rồi hàng loạt vũ khí mới đang được LX viện trợ ồ ạt cho ta. Hơn nữa, cố vấn LX sẽ sang trực tiếp giúp ta phản kích.
Trong hàng đống thông tin không chính quy, TuanBim chỉ quan tâm tới thông tin 1 và thông tin 3. Nếu có quân đoàn 2 tham gia phản công, không có lẽ trên lại để cho tụi lính TuanBim đã ở sẵn phía bắc, ngồi ăn để vỗ béo. Thế nào cũng được tham gia đánh trận vét. Còn không, nếu có cố vấn sang, ít nhất họ cũng cần phiên dịch. Lớp lính như TuanBim thì quá hợp cho vai trò đó. Tâm lý của TuanBim là: Cứ được 'lên biên' cái đã. Ở đấy mình sẽ kiếm khẩu AK rồi lao lên, ai mà cản được lúc ấy.
Tuần thứ hai của cuộc chiến, mặc giù còn ngồi ở tuyến 2, nhưng TuanBim đã cảm thấy phảng phất hơi thở chiến trường. Không còn nghe tin chiến sự theo kiểu: ta đang thắng ở đâu nữa. Mà qua tin chiến thắng, thì TuanBim âm thầm tự xếp: mình sẽ được dành cho mặt trận nào.
- Đi Cao Lạng, nơi đang nóng nhất trong các bản tin, nơi được các tham mưu con thông tin: đó sẽ là hướng phản công chính của toàn quân, mà quân đoàn 2 là lực lượng nòng cốt ?
- Hay Hoàng Liên, theo lại dấu chân hành quân của ông già TuanBim hồi 9 năm ?
Tuần thứ hai của cuộc chiến, tụi mình hừng hực khí thế và quá sốt ruột, mong được lệnh hành quân lên biên.
Thế nhưng, chiến tranh luôn luôn là những bất ngờ.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
07- Tuần thứ ba của cuộc chiến.
Cuộc chiến tranh mới diễn ra được hơn 2 tuần.
Đến cuối tuần thứ hai của chiến tranh, các lực lượng của ta mới bắt đầu dồn được đội hình để chuẩn bị mở cuộc phản công quy mô lớn, hứa hẹn là hoành tráng. Quân đoàn 2, được cầu hàng không do Liên xô giúp, bắt đầu di chuyển từ K về Hà Bắc, hướng biên giới xứ Lạng.
Vũ khí huỷ diệt lớn nhất mà ta có lúc ấy: trung đoàn Ca chiu sa BM-21 duy nhất, cũng được điều lên Cai Kinh- Lạng Sơn.
Cầu hàng không do Liên xô giúp, tấp nập hạ cánh xuống Gia Lâm, Nội Bài. Từ Liên xô sang là vũ khí, khí tài. Từ K về là quân của quân đoàn 2.
Tại mỗi tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, mỗi huyện đều đang tiến hành thành lập bộ khung của 1 tiểu đoàn, đang bổ xung quân cho đủ quân số để ném lên phản công (riêng ở Hà Nội, lính của tiểu đoàn Sóc Sơn-sư 301, khi lên biên sau này, là kém nhất, nhưng đó là 1 câu chuyện khác).
Tóm lại, ta đang tích tụ năng lượng, kiểu như đang căng dây chun để bắn đi viên đạn phục thù (đang căng nhé, chứ chưa căng xong, và càng chưa đến đoạn sắp thả tay).
Tất nhiên, lúc này chưa xuất hiện câu chuyện về phòng tuyến Sông Cầu huyền thoại, câu chuyện về kế hoạch đi sơ tán ở Đà Nẵng, câu chuyện về hệ thống hầm phòng không ở Hà Nội. Đó là câu chuyện của những ngày sau, của đoạn hồi ức sau. Năng lượng được dồn nén, cảm nhận thấy được ngay cả ở đơn vị TuanBim.
Đầu tuần thứ ba của chiến tranh, trung đội TuanBim ôn lại bài chiến thuật: trung đội bộ binh đột phá cửa mở. Tay TuanBim cầm cái mõ quay giả làm tiếng trung liên RPK mà không thấy giả chút nào. Cũng mài người sau bụi cây xấu hổ, ấn thân mình xuống rãnh bùn trên đuờng vận động, mỗi khi nghe tiếng còi của giáo viên đang cầm lá cờ đuôi nheo, giả làm khẩu DK của quân địch phát hoả, chẳng sá kể đang là tháng 3 rét mướt, mưa phùn.
Hỡi ôi. Chiến tranh luôn là những chuỗi bất ngờ.
Cuộc chiến bỗng nhiên kết thúc 1 cách đột ngột. Giống hệt như nó đã bất ngờ nổ ra.
Thứ hai, 05/03/1979, ngày thứ 16 của cuộc chiến tranh.
Khoảng 2 giờ chiều, trung đội TuanBim đang ngồi gói lượng nổ cho bài đánh bộ phá, thì anh Th (con trung tướng Song Hào, học cùng hệ với bọn mình) mới từ nhà lên, báo ngay 1 tin sét đánh: TQ rút quân rồi, TQ đã thông báo xin mình không truy đuổi, và ta đã trả lời đồng ý. (híc)
Thế là thế nào, chẳng nhẽ lại kết thúc một cách lãng nhách vậy sao. Một cảm giác hẫng hụt bao trùm toàn thân. Các bác cứ hình dung như ở 1 cuộc đi săn mà xem. Lừa lúc ta sơ ý, con mãnh thú đã ngoạm được ta vài phát. Lòng ta sôi réo trả đòn cho các vết thương đang rỉ máu. Rồi sau bao ngày gian nan, chịu để gai cào rướm máu, lê lết thân qua các bụi chông gai ẩm ướt, giá băng, lừa thế mãi, ta mới đưa được con mãnh thú vào đường ngắm, đang hít hơi để ngón trỏ chắc cò, thì bỗng:…… toét!!!. Còi của ban lãnh đạo 'rúc' lên là: hết giờ, phải để nó sống, để bảo tồn ??. (sic!)
Đã đành rằng cụ Nguyễn Trãi còn cấp lương- thuyền khi Vương Thông đã dâng sớ qui hàng. Nhưng giá như lính mình bây giờ cứ được ‘trên’ phóng lên biên, như mũi tên rời khỏi ná, làm một trận bát gạo nấu nốt cái đã, rồi 'trên' hú rằng: lính chúng nó chưa nhận được lệnh, do điện đài trục trặc-chẳng hạn. Như quân của cụ Nguyễn Trãi đã từng chém Liễu Thăng trước, cấp gạo cho Vương Thông sau, thì có hơn không.
Thế nhưng, thế thời thế, thế thời phải thế.
Kể từ 2 giờ chiều ngày 05/03/1979, ngày thứ 16 của cuộc chiến, trung đội TuanBim đã biết rằng: sẽ không thể có lệnh phản công nào được đưa ra.
Mặc cho, chiến binh quân đoàn 2 vẫn đang ùn ùn đổ xuống Gia Lâm.
Mặc cho, dàn Ca chia sa BM -21 đã tập kết ở Cai Kinh, đang muốn bắn thử, phục thù.
Mặc cho, oanh tạc cơ A-37 và chặn kích F-5 vừa chuyển sân ra phía bắc, mà trên đường đáp xuống Nội Bài phải hạ độ cao qua thao trường của mình, đã tập kết đầy đủ ở Đa Phúc.
Mặc cho, trên vừa điều mấy thằng khoá dưới, xuống cảng Hải Phòng để phiên dịch cho tầu Liên xô chuyển xe tăng cho ta,
Mặc cho, kế hoạch phản công của ta, dường như đã được cả đại tướng Liên xô tham vấn.
Như để bồi thêm vào nỗi hẫng hụt để sổng con mồi. Lại một lần nữa, địch quân bành trướng Trung Quốc lại chơi thêm cho ta một đòn mắc nỡm.
Trong một động thái đã được lên lịch sẵn của cỗ máy chiến tranh đã được khởi động và bắt đầu tăng tốc vận hành, mà không 1 chiếc phanh nào có thể bắt nó dừng ngay lại được. Giống như đang trong quá trình căng giây thun, không thể buông tay nửa chừng. Mãi đến 6 giờ rưỡi tối ngày 05/03/1979, đài phát thanh mới phát bản tin thời sự đặc biệt: Lệnh tổng động viên, do chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký lệnh ban hành.
Lệnh Tổng động viên được ban hành quá muộn. Sau 16 ngày chiến tranh và chậm 12 tiếng đồng hồ, sau khi Trung Quốc đã tuyên bố rút quân.
Một quả đấm, nhưng hụt vào hư không.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
08- Những ngày sau khi bọn bành trướng Trung Quốc rút quân.
Cho dù đến tận ngày 18/03/1979, địch quân mới hoàn tất việc rút hết quân khỏi biên giới nước ta. Nhưng kể từ ngày 05/03/1979, ngày địch quân tuyên bố rút quân, ta cũng đã tôn trọng lời hứa. Không phản công, không truy đuổi. Mặc giù đây đó vẫn còn tiếng súng, nhưng đó chỉ là va chạm giữa các lực lượng địa phương ta, khi sớm quay lại địa bàn của mình, với hậu quân của kẻ thù.
Trong giai đoạn này, chỉ có một sự kiện nổi bật: đó là cái chết của nhà báo Nhật, hình như tên là Isao Takano. Ngày 07/03/1979, sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, tay nhà báo này được ta bố trí đưa lên thị xã Lạng Sơn để giúp ta tuyên truyền.
Báo chí chính thống thì nói là tay phóng viên này bị ăn đạn của quân Trung Quốc. Còn phía địch quân không thừa nhận có hoạt động quân sự ở địa điểm đó, vào thời gian đó. Cuộc chiến báo chí lúc ấy về sự kiện này khá là om sòm.
Tuy nhiên, TuanBim thiên về thông tin của tham mưu con lúc ấy. Tay nhà báo này được bố trí đi bằng xe Bắc Kinh, mắt thì 1 mí, béo tốt. Lại mò vào đến thị xã xứ Lạng lúc 10 giờ sáng ngày 07/03, nên quân của sư 3 Sao Vàng, đang nóng tiết về trận Khánh Khê, thổi cho 1 quả B-40, ấy cũng là 1 điều dễ hiểu trong chiến tranh.
Tuy cuộc chiến tranh đã đột ngột chấm dứt vào ngày 05/03/1979 và coi như tạm kết thúc vào ngày 18/03/1979 (TuanBim cho đó là cuộc chiến biên giới lần thứ nhất), nhưng-như TuanBim đã hồi tưởng ở trên: một khi cỗ máy chiến tranh đã được khởi động và vận hành, việc phanh nó lại là 1 việc không hoàn toàn dễ dàng.
Cỗ máy chiến tranh đã chạy thêm 10 năm nữa mới chịu dừng hẳn vào năm 1989, kinh qua thêm 2 cuộc chiến trên bộ và 1 cuộc chiến trên biển nữa. Đó là cuộc chiến trên bộ thứ 2, cuộc chiến ở bình độ 400-Lạng Sơn năm 1981. Và cuộc chiến trên bộ thứ 3, cuộc chiến ở Hà Giang năm 1984 (Trong cộng đồng cư dân mạng, do có sự tham gia và khai sáng của các chiến binh Donga Doan, Vu Anh Nguyen và thời gian gần đây có thêm bác Thắng Còng, thì cộng đồng mạng được ‘giác ngộ’ rằng: cuộc chiến Hà Giang 84 này là "vĩ đại nhất trong mọi cuộc chiến"-híc híc).
Còn cuộc chiến trên biển, CQ-88 của Quân chủng Hải quân của TuanBim, thì TuanBim là người trong cuộc rùi.
Cũng cỗ máy chiến tranh đó, cũng chạy tròn 10 năm trên đất Căm Pu Chia, từ 1979 đến 1989. Giai đoạn 10 năm này (1979-1989) mới là giai đoạn gian khó nhất (TuanBim nhấn mạnh từ gian khó, hơn là từ ác liệt-hy sinh) của cánh lính miền Bắc ải.
Đây là giai đoạn mà nổi bật trong sự tuyên truyền và trong quan niệm của tuyệt đại dân chúng Việt Nam ta là: đã hết chiến tranh với TQ rồi, hết từ tháng 3/1979 lận. (híc!)
Sang năm 1980, chiếm tỷ lệ tuyệt đối trên phương tiện truyền thông, trong tâm trí người dân là sự kiện ta có đài vệ tinh mặt đất Hoa Sen ở HN và ở HCM, anh Tuân bay ‘ké’ vào vũ trụ, thế vận hội Mạc tư khoa 1980. Những người biết về cỗ máy chiến tranh vẫn đang vận hành trên Ải Bắc, bên Tây Nam, thật hiếm biết bao.
Vì thế, đây là lúc những người lính lâm vào tình trạng khó nói.
Phía sau chiến hào biên giới độ chừng 5 km, là 1 cuộc sống khác hẳn. Ở đó người ta đang hò nhau sắm con cúp Nhật bãi rác. Bắt đầu nhẩy đầm, đi Đức hay Tiệp để làm giầu. Còn trên chiến hào biên giới, là cánh lính đang phải nhường nhau từng cành lá xu hào, là máu đổ trên 1509, là hang Làng Lò, là truy quét ở Tây Nam.
Vì thế, trong nhân dân, ít có sự cảm thông với người lính nơi biên ải hơn.
Đây cũng là lúc mà khi hành quân lên biên, bác Vu Anh Nguyen bị ném đất vào người, bác Muc Tau bị dân hò hét khi ra chợ ở gần Cai Kinh.
Với cảm nhận của một người, sống đủ 10 năm trong sự vận hành của cỗ máy chiến tranh (đến tận 1989 mới ra quân), TuanBim xin hồi tưởng về thời gian khó ấy. Về những huyền thoại: phòng tuyến Sông Cầu, kế hoạch đi sơ tán ở Đà Nẵng, hệ thống hầm phòng không ở Hà Nội, câu chuyện về vót chông gửi lên biên giới và những kỷ niệm khác. Những câu chuyện của một thời: người lính ở vào tâm trạng khó nói.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
09- Hầm phòng không ở Hà Nội.
Sau khi địch quân đã hoàn tất việc rút quân vào ngày 18/03/1979 rồi, vào cuối tháng 3, kế hoạch phòng không cho nhân dân Hà Nội mới được triển khai.
Việc đầu tiên là khôi phục các hầm trú ẩn cũ, được làm từ hồi chống máy bay Mỹ.
Trước hết là cái hầm ở Bờ Hồ, chỗ bán cà phê, đối diện bót Hàng Trống. Sau đó là cái hầm ở vườn hoa Hàng Đậu.
Rồi tập báo động phòng không đâu như được 2 lần vào ban tối ở Hà Nội, để phóng viên chụp ảnh đăng báo: bà con đang bình tĩnh, trật tự xuống hầm trú ẩn. Rồi sau nữa mới đến đoạn: ở một vài nơi trong Hà Nội, triển khai đào giao thông hào, hầm trú ẩn, như ở trường học của bà cụ thân sinh bác Donga Doan.
Trong quân đội, như ở đơn vị như của TuanBim, trong nhà trực ban luôn có dán 1 tờ thông báo: thời gian bay từ Mông Tự, Nam Ninh hay Hải Nam đến đơn vị.. (để trống, đơn vị nào tự đề tên đơn vị đó) là….. phút (để trống, do tác chiến từng đơn vị tự đề).
Đây là một động thái của cỗ máy chiến tranh, do đã được khởi động mà chưa thể hãm dừng. Kế hoạch phòng không này, chủ yếu mang tính chất của công tác ****, công tác chính trị, nhằm mục đích tác động vào tâm lý của quần chúng. Còn giá trị của khía cạnh quân sự, còn phải bàn nhiều.
Không có 1 tổng kết hay mệnh lệnh nào huỷ bỏ công tác này. Chỉ thấy đầu năm 1980, công ty công viên bắt đầu lấp cửa hầm ở Bờ Hồ và trồng hoa, cỏ lên đó. Bây giờ các bác vẫn còn thấy cái đồi cỏ ấy, trước cửa bót Hàng Trống.
Cũng đầu năm 1980, các ống cống tròn làm tăng xê ở các vỉa hè được bật đèn xanh cho nhân dân đào về làm phi đựng nước. Năm ấy, trong lần về phép, TuanBim cũng mất 2 đêm làm cửu để đi đào tăng xê trên hè phố Trần Hưng Đạo cho gia đình ông nhạc tương lai.
Huyền thoại đào hầm như nhiều bác đã kể, dưới góc nhìn của TuanBim, nó là vậy.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
10- Sơ tán về Đà Nẵng.
Đã khởi động phong trào triển khai hầm phòng ở Hà Nội, trong trí nhớ của vài cụ cốp (có tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ) lúc ấy, ám ảnh của từ sơ tán chắc lại đã hiện về. Tuy nhiên, cuộc chiến khác nhau, thì tính chất sơ tán cũng phải khác nhau.
Thời chống Mỹ, các cơ quan chỉ cần dịch ra khỏi Hà Nội vài chục cây số, đã được coi là đi sơ tán. Còn lần này ???
Thực sự là bây giờ, đã sau 35 năm, TuanBim cũng không thể tìm ra quân sư nào đã hiến ra cái sáng kiến vĩ đại đấy. Quân sư đó dường như đã thổi vào tai mấy cụ cốp rằng:
Không quân TQ không đáng ngại bằng không quân Mỹ. Trình độ và trang bị của ta bây giờ, sau khi tịch thu được hằng hà sa số máy bay của Mỹ, đáng được xếp vào hàng thứ ba trên thế giới, thì cái đám Míc cổ lỗ của quân bành trướng kia, chỉ đáng làm rau gém. Tuy nhiên, cái đáng ngại lại nằm ở chỗ: TQ hiện đã trang bị đại trà loại tên lửa vượt đại châu, mang đầu nổ thông thường. Từ trận địa bố trí gần biên giới Việt Nam nhất, loại tên lửa này có tầm bắn với đến tận đèo Hải Vân ???.
Thế là 1 kế hoạch sơ tán hoành tráng được ra đời: không sơ tán loanh quanh ra khỏi nội thành Hà Nội nữa, mà phải sơ tán ra ngoài tầm tên lửa đối phương !
Thế là tên của thành phố Đà Nẵng bắt đầu được ra đời trong cái kế hoạch huy hoàng ấy. Bởi vì Đà Nẵng vừa khuýp là ra khỏi tầm bắn tên lửa đối phương, lại vừa là chốn đô thị (tuy rằng thời 1979 thì Đà Nẵng cũng mới chỉ như thành phố Thanh Hóa bây giờ, chứ chưa được phát triển như ngày nay), lại có cung đường vận chuyển gần Hà Nội nhất.
Thế là cái tên Đà Nẵng xuất hiện trong tất cả các kế hoạch sơ tán của kính thưa tất cả mọi loại cơ quan. Cái tên thành phố Đà Nẵng được nhắc nhiều đến mức, ngay cả trẻ con cũng thuộc lòng. Đến nỗi ngày nay, khi hồi tưởng lại, nhiều bác tham gia diễn đàn này hồi ấy mới chỉ tầm 5 tuổi, đã bật lên ngay: hồi đó cơ quan ông già em định về Đà Nẵng.
Cũng may, nước nhà còn vượng, nên còn có kẻ trung quân can gián. Kế hoạch rời đô vào Đà Nẵng đã kịp dừng lại trên giấy tờ.
Sang năm 1980, cùng với việc cho dân đào ống tăng xê lên làm của riêng, kế hoạch đi sơ tán ở Đà Nẵng, được đưa về kho lưu chiểu.
Đại phúc.
-------------------------------------------------------------------------------------------------