Nhân xung đột Nga - Ukraine, có rất nhiều các hoạt động quân sự của cả 2 bên gần như "công khai" bởi các clip, các bức ảnh của các cá nhân, tổ chức. Về khía cạnh truyền thông, nó giúp độc giả trên thế giới biết được những điểm nóng, tin nóng chiến sự. Tuy nhiên về khía cạnh quân sự, quả là thách thức không nhỏ với các nhà quân sự, các bộ tham mưu.
Ảnh vệ tinh thương mại cho thấy Nga tập kết khí tài, trang bị quân sự gần Ukraine
Máy bay quân sự Nga tại căn cứ Millerovo trong ảnh chụp ngày 15/2 từ vệ tinh thương mại
Ảnh vệ tinh chụp được xe quân sự Nga đang tiến về biên giói Nga - Ukraine
Máy bay trực thăng quân sự Nga gần biên giới Nga - Ukraine
Viễn thám sử dụng các vệ tinh để chụp lại các vật thể trên mặt đất. Viễn thám đang phát triển nhanh chóng, từ chỗ mục tiêu ban đầu chỉ tập trung chủ yếu vào xác định mối đe dọa tình báo chiến lược và an ninh quốc gia, thì hiện nay đã hướng tới mối đe dọa trong tác chiến của lực lượng quân sự. Viễn thám sẽ càng làm phức tạp hơn mối đe dọa về thông tin tình báo và định vị mục tiêu từ các máy bay không người lái và các xenxơ khác trên chiến trường, đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Các công nghệ viễn thám ưu việt sẽ cho phép quan sát lực lượng quân sự thời gian thực ở mọi nơi, mọi lúc và mọi điều kiện thời tiết. Quan sát toàn cảnh sẽ cung cấp một lợi thế quân sự vô cùng lớn cho quốc gia biết tận dụng nó trong khi các quốc gia khác sẽ gặp bất lợi. Các biện pháp ngoại giao, pháp lý và quân sự hiện tại để quản lý mối đe dọa như vậy không còn đáp ứng được đối với mức độ thách thức mà các xenxơ này đặt ra trong chiến tranh hiện đại.
Sáng sớm ngày 8/1/2020, đã có quả 10 tên lửa của Iran tấn công vào Căn cứ Không quân al-Assad tại I-rắc, một căn cứ quan trọng của quân đội Mỹ trong khu vực1. Trong cùng ngày, các hãng tin toàn thế giới đã bình luận về hiệu quả rõ ràng của các tên lửa Iran và các thiệt hại do cuộc tấn công này gây ra. Phần lớn các bình luận và phân tích đã sử dụng hình ảnh vệ tinh chất lượng cao - cung cấp bởi công ty Planet được cấp phép có trụ sở tại Mỹ - chụp được sau cuộc tấn công một vài giờ đồng hồ. Các bức ảnh cho phép thế giới thấy được mức độ thiệt hại và đánh giá độ chính xác của các cuộc tấn công này. Một công ty thương mại viễn thám có trụ sở tại Mỹ cũng tung ra những hình ảnh vệ tinh chi tiết và cùng ngày về ảnh hưởng của cuộc chiến giữa Mỹ và một cường quốc nước ngoài. Iran đã có được thông tin quan trọng mà lẽ ra đã không thể có về tính hiệu quả của các tấn công và nhắm tới mục tiêu của mình. Sử dụng hình ảnh này cho phép Iran tiến hành phân tích sau đợt tấn công tên lửa để cải tiến, phục vụ cho các đợt tấn công trong tương lai, gây ra mối đe dọa thậm chí còn lớn hơn cho các lực lượng Mỹ và I-rắc. Nếu không có dữ liệu vệ tinh của Planet, Iran sẽ chỉ có thể truy cập vào những báo cáo rời rạc và không được xác nhận từ các nhân chứng ở mặt đất. Những biện pháp khác để thu thập hình ảnh trên không, như là việc sử dụng máy bay hoặc máy bay không người lái, nhiều khả năng sẽ thất bại bởi cả I-rắc lẫn Mỹ đều không cho phép Iran bay qua Căn cứ Không quân al-Assad mà không bị phát hiện. Cuối cùng, Iran đã chọn không tiếp tục tấn công và làm xung đột leo thang, giảm thiểu bất kỳ các thiệt hại có thể xảy ra bởi hình ảnh của Planet. Tuy nhiên, việc nhanh chóng công khai hình ảnh vệ tinh chất lượng cao về cuộc tấn công vào lực lượng Mỹ báo hiệu một sự khởi đầu của một kỷ nguyên chiến tranh mới - kỷ nguyên mang lại những thách thức, rủi ro và cơ hội lớn cho cuộc chiến trong tương lai.
Căn cứ Không quân al-Assad bị tên lửa Iran tập kích
Sự phát triển của viễn thám, các xu hướng và tương lai của chiến tranh
Sự phát triển của viễn thám
Trước khi vệ tinh ra đời, thu thập thông tin tình báo chi tiết về vị trí và cách bố trílực lượng của đối phương trong cuộc xung đột đòi hỏi phải có các chuyến bay mạo hiểm hoặc sử dụng trinh sát mặt đất. Bên ngoài cuộc xung đột, có được hình ảnh trên không của các quốc gia khác cho mục đích tình báo thậm chí còn khó khăn hơn nếu không có vệ tinh bởi các quốc gia quản lý chặt không phận của họ. Qua hàng thập kỷ, vệ tinh thu được các thông tin tình báo giá trị trên không này rất đắt, hiếm và chỉ có ở một vài nước. Trong thập kỷ vừa qua, sự tiến bộ của công nghiệp đã dẫn tới sự gia tăng của công nghệ viễn thám, với ít nhất 25 quốc gia hiện đang sở hữu một số vệ tinh viễn thám với chất lượng khác nhau. Đối với các nước không có nền tảng quốc gia, hình ảnh chất lượng cao có sẵn từ các nguồn thương mại. Dân chủ hóa thông tin viễn thám dại diện cho một mối đe dọa mới và thực tế đối với các lực lượng quân sự khi chúng chỉ làm gia tăng sự phức tạp cho các chiến trường trong tương lai. Hiện có một vài xu hướng bao trùm sự phát triển của vệ tinh viễn thám và chúng là một mối đe dọa lớn đối với tác chiến trong tương lai.
Với sự ra đời của viễn thám vào những năm 1960, các vệ tinh có thể thay thế phần lớn máy bay cho việc thu thập thông tin với mục đích tình báo, nhưng không phải không có hạn chế. Trong khi một vệ tinh có thể bay trên không tự do theo quỹ đạo của nó, nó không thể thay đổi quỹ đạo của mình để bay tới một mục tiêu cụ thể sớm hơn. Do đó, tình báo vũ trụ được quyết định bởi giới hạn thời gian (độ phân giải tạm thời) mà trở nên khó khăn hơn bởi chi phí và các giới hạn độ phân giải mục tiêu (độ phân giải không gian). Khi việc trở lại bằng kỹ thuật số là khả thi và hình ảnh vệ tinh không còn chỉ dùng một lần, một sự cân bằng cần phải đạt được giữa độ phân giải và tuổi thọ của vệ tinh. Các vệ tinh hình ảnh đang, hoặc ít nhất đã từng, vô cùng đắt đỏ, vậy nên chúng cần được bay đủ cao quanh quỹ đạo của mình để tránh lực cản khí quyển ở mức độ nào đó mà sẽ làm giảm tuổi thọ của chúng. Độ cao lớn dẫn đến nhu cầu về những ống kính lớn hơn và chất lượng để đảm bảo rằng độ phân giải không gian là phù hợp, từ đó làm tăng chi phí. Các chi phí lớn đã làm tình báo vũ trụ là một đặc quyền giới hạn chỉ cho một vài nước có đủ tiền để chế tạo, phóng và vận hành các vệ tinh viễn thám. Bởi vì hình ảnh chụp từ vũ trụ vẫn còn đắt, số lượng các nền tảng thương mại vẫn còn tương đối ít, hạn chế khả năng hoạt động của chúng.
Điều này bắt đầu thay đổi vào năm 2001 khi hình ảnh có độ phân giải tương đối cao trở nên sẵn có để bên thứ ba có thể mua, với sự ra đời của QuickBird-2 và các vệ tinh viễn thám có khả năng cao và hoàn toàn thương mại hóa. Vệ tinh đầu tiên phá vỡ giới hạn độ phân giải 0.5-m là DigitalGlobe’s WorldView-1 có trụ sở tại Mỹ, ra mắt vào năm 2007. Khả năng của WorldView-1’s đã bị WorldView-3 vượt qua vào năm 2014. Vệ tinh này có thể chụp ảnh ở độ phân giải toàn sắc ở 0.3-m nhưng tốn gần 600 triệu USD và trường hợp lý tưởng nhất cho phép truy cập ở bất kỳ nơi nào trên thế giới chỉ trong thời gian hơn một ngày. Vệ tinh thương mại gần đây nhất làm theo mô hình chất lượng này là WorldView-4, ra mắt vào năm 2016 và rơi khỏi quỹ đạo vào đầu năm 2019 - chỉ hai năm theo vòng đời dự kiến 10 năm. Các vệ tinh này trả lại hình ảnh có độ phân giải cao nhưng bị giới hạn bởi nhiều yếu tố kĩ thuật để chụp một khu vực có diện tích 680.000 km2 trong một ngày, một khu vực bằng khoảng bang Texas7. Với độ phân giải không gian cao, nhưng độ phân giải tạm thời thấp, các vệ tinh này là các công cụ tình báo giá trị nhưng vẫn có rủi ro tác chiến tương đối thấp đối với các lực lượng quân sự trên chiến trường.
Việc tăng độ phân giải tạm thời yêu cầu phải phóng thêm vệ tinh, nhưng hạn chế về mặt kỹ thuật được nhắc tới ở phần trước khiến cho việc này rất đắt đỏ khi mà chi phí phóng vẫn còn cao. Chỉ từ khi năm 2015 chi phí phóng mới bắt đầu giảm thật bởi các công ty thương mại đúng nghĩa, nổi bật là SpaceX, tham gia vào thị trường trước đó gần như độc quyền bởi nhà nước. Độc quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào các hợp đồng của chính phủ tài trợ và không thực sự có đối thủ, nên họ ít có động lực để tiến hành cách mạng công nghệ. Bắt đầu với hợp đồng Dịch vụ Vận tải Quỹ đạo Thương mại của NASA đã cơ bản cung cấp nguồn tài trợ ban đầu cho SpaceX, cạnh tranh thương mại thực sự đã xuất hiện tại thị trường phóng lần đầu tiên, dẫn tới bước nhảy vọt mạnh mẽ về công nghệ và mở ra những cơ hội về thị trường mới.
Các xu hướng viễn thám
Một sự thay đổi mô hình đã diễn ra với việc giảm chi phí phóng đồng thời với sự thay đổi nhanh chóng trong việc thu nhỏ vệ tinh. Việc thu nhỏ vệ tinh đã thay đổi tính kinh tế trong chế tạo vệ tinh, dẫn đến một cuộc cách mạng về hình ảnh vệ tinh. Các vệ tinh nhỏ hơn giá rẻ hơn. Hàng chục chiếc có thể được phóng đồng thời trên một mặt phẳng quỹ đạo duy nhất, nơi mà việc điều khiển cẩn trọng trong môi trường vũ trụ có thể sắp xếp chúng một cách hợp lý và giảm độ phân giải tạm thời. Đổi lại là các vệ tinh viễn thám được phóng theo cách này sẽ ít có khả năng mang tải ống kính lớn, từ đó giảm độ phân giải không gian. Các vệ tinh viễn thám nhỏ sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách phóng lên độ cao quỹ đạo thấp hơn nhiều - 250 km so với 600 km hoặc hơn đối với các vệ tinh WorldView truyền thống của DigitalGlobe. Tuy nhiên, việc gia tăng lực cản khí quyển lên vệ tinh trên các quỹ đạo này cũng làm giảm đáng kể vòng đời của chúng. Do đó, duy trì một chùm vệ tinh đòi hỏi các vệ tinh nhỏ phải được bổ sung thường xuyên. Việc chu kỳ thay thế được rút ngắn thúc đẩy nhu cầu cần thêm vệ tinh cũng như phóng chúng, từ đó giảm chi phí đơn vị và cho phép cải tiến liên tục cho cả hai nhu cầu này. Những lợi ích trên củng cố thêm các động lực kinh tế khi sử dụng cách tiếp cận này. Một cuộc chạy đua đang diễn ra xem ai đạt được độ phân giải không gian và tạm thời tốt nhất có thể.
Cuối năm 2017, công ty Planet có trụ sở tại Mỹ đã đạt được mục tiêu chụp toàn bộ bề mặt Trái Đất ở độ phân giải 3-5m trong vòng một ngày8. Phần lớn sẽ cân nhắc mô hình này khi mà đạt được sự thay đổi là không thể chỉ vài năm về trước. Đó chính là một trong số các vệ tinh giá rẻ cung cấp hình ảnh ban đầu về Căn cứ Không quân al-Assad. Planet không đơn độc trong việc giới thiệu các cách tiếp cận đột phá trong viễn thám. Hàng chục các nhà cung hình ảnh mới đã bắt đầu tham gia vào thị trường, cung cấp sự đa dạng trong khả năng từ rađakhẩu độ tổng hợp (SAR) tới chụp ảnh siêu kính. Tính đến năm 2021, nhiều hệ thống này đã có trên quỹ đạo với số lượng nhỏ như một nhóm đầu tiên của các chùm vệ tinh tương tự.
Giai đoạn cuối của cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp thương mại và quốc gia tận dụng công nghệ thương mại là việc phủ sóng toàn cầu ở độ phân giải cao ở mọi nơi mọi lúc. Sự hội tụ độ phân giải này sẽ chắc chắn xảy ra trước năm 2030. Tuy nhiên, các dấu hiệu cho thấy bản năng chiến thắng cuộc chiến của quan sát toàn diện trong chiến tranh hiện đại đã được mô tả trong cuộc xung đột gần đây giữa Ác-mê-ni-a và A-déc-bai-dan, mặc dù bằng các xenxơ từ máy bay chứ không phải từ vũ trụ.
Xe tăng Armenia bị máy bay không người lái Azerbaijan phá hủy
Thiết bị quân sự Armenia bị máy bay không người lái Azerbaijan phá hủy
Các tác động của xu hướng viễn thám tới chiến tranh tương lai
Vào cuối năm 2020, Ác-mê-ni-a và A-déc-bai-dan đã có một cuộc chiến nhỏ khốc liệt ở khu vực tranh Nagorno-Karabakh đã cho thấy các cuộc tấn công chính xác tầm xa và hỏa lực gián tiếp, hỗ trợ bởi tình báo trên không có thể một sự kết hợp dẫn tới chiến thắng. Khi bắt đầu cuộc xung đột, Ác-mê-ni-a được cho rằng có quân đội tiêu chuẩn vượt trội hơn A-déc-bai-dan khi khả năng huấn luyện và chỉ huy đều tốt hơn9. Tuy vậy, họ nhanh chóng bị đánh bại bởi chiến thuật sử dụng máy bay không người lái khi chúng cung cấp dữ liệu nhắm tới mục tiêu cho pháo binh và các vũ khí tầm xa khác của A-déc-bai-dan. Ban đầu, Ác-mê-ni-a điều khiển một hệ thống phòng không do Nga chế tạo mà A-déc-bai-dan phải tiêu diệt chúng để có thể sử dụng được đầy đủ khả năng từ máy bay không người lái do Thổ Nhĩ Kỳ và Ít-xa-ren cung cấp10. A-déc-bai-dan đã buộc phải sử dụng 11 chiếc máy bay không người lái AN-2 thời Liên Xô làm mồi nhử để Ác-mê-ni-a bắn chúng và từ đó xác định và tiêu diệt hệ thống phòng không này. Một khi A-déc-bai-dan đã vô hiệu hóa được hệ thống phòng không, họ có thể dùng máy bay không người lái để truy tìm và tiêu diệt các lực lượng Ác-mê-ni-a trên mặt đất. Theo một số tính toán, A-déc-bai-dan đã tiêu diệt gần 1.000 xe tăng, xe bọc thép và các loại xe khác trong chiến dịch ngắn ngày, sử dụng hỏa lực chính xác, buộc Ác-mê-ni-a phải ký vào yểu cầu lập lại hòa bình. Sự thành công của A-déc-bai-dan trong việc sử dụng máy bay không người lái để cung cấp dữ liệu mục tiêu cho các vũ khí gián tiếp cung cấp một góc nhìn khái quát về chiến tranh trong tương lai.
Bất chấp sự thành công ở cuộc xung đột Nagorno-Karabakh, chiến tranh bằng máy bay không người lái không phải không có hạn chế mà tình báo từ vệ tinh có thể khắc phục và mở rộng. Thứ nhất, A-déc-bai-dan đã đánh bại Ác-mê-ni-a bằng tác chiến từ trên không, nhưng chúng có tầm nhìn hạn chế và phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khi tác chiến - hạn chế mà vệ tinh không bị ảnh hưởng. Thứ hai, Nga đã nhanh chóng đưa vào một hệ thống tác chiến điện tử chống máy bay không người lái, Krashukha-4, đã bắn hạ thành công máy bay không người lái của Thổ Nhĩ Kỳ trong phạm vi lên tới 300 km. Hệ thống chống máy bay không người lái nhanh và hiệu quả này cho thấy chúng dễ bị tổn thương bởi chiến tranh điện tử. Rõ ràng, chiến tranh sẽ được áp dụng cho các vệ tinh nếu chúng cũng trở thành mối đe dọa, nhưng không giống như các máy bay không người lái, chúng không thể ngay lập tức chịu tổn thương từ các tác nhân vật lý. Hình ảnh về mục tiêu từ vệ tinh cũng sẽ chi tiết hơn so các nền tảng hình ảnh thương mại khác nhau của máy bay không người lái cùng bay trên không và điều đó có thể hỗ trợ cho kẻ địch hoặc không. Cuối cùng, trong khu vực xung đột, các bên tham chiến có thể tuyên bố vùng cấm bay. Khả năng này là không thể trong quỹ đạo không gian, từ đó hỗ trợ rất nhiều cho năng lực xác định và truy tìm các mục tiêu có khả năng là kẻ thù.
Hệ thống Krashukha-4
Các chi tiết chính xác của bất kỳ cuộc xung đột nào không bao giờ được lặp lại, khi mà các tình huống, địa hình và công nghệ liên tục phát triển. Tuy nhiên, người ta có thể rút ra một số dự đoán từ Nagorno-Karabakh về cách các đối thủ có khả năng hơn sẽ chiến đấu trong tương lai. Thứ nhất, bài học lớn hơn từ cuộc xung đột này là phần lớn tổn thất chiến đấu trong xung đột nhà nước-quốc gia tiếp tục tới từ hệ thống hỏa lực gián tiếp và các vũ khí tầm xa khác15. Thứ hai, khả năng tìm và nhắm chính xác tới đối phương là rất quan trọng đối với hiệu quả của các hệ thống này, vậy nên bên nào có thông tin tình báo tốt hơn sẽ có khả năng tiêu diệt đối phương nhanh hơn. Cuối cùng, để ngăn đối phương phối hợp không gian chiến đấu bằng các xenxơ - dù là máy bay không người lái hay các hệ thống khác - sẽ là ưu tiên quan trọng cho bên phòng ngự. Tóm lại, bên nào có thể kết hợp được thông tin tình báo với hỏa lực tầm xa một cách tốt nhất sẽ làm chủ chiến trường.
Vai trò của tình báo thời gian thực từ các vệ tinh viễn thám trong một cuộc xung đột tương lai sẽ giống như vai trò của máy bay không người lái trong việc thu thập thông tin tình báo cho A-déc-bai-dan. Sự gia tăng năng lực viễn thám thương mại và của quốc gia trong việc chụp ảnh chi tiết các khu vực rộng lớn và truyền phát hình ảnh đó tới các trung tâm chỉ huy hỏa lực sẽ là một nút thắt quan trọng trong chuỗi tiêu diệt đối phương. Các nhà cung cấp thương mại đã và đang sử dụng các vệ tinh làm nhiệm vụ và phản hồi theo thời gian thực. Những nỗ lực xây dựng có mục tiêu như lớp tìm kiếm và truyền phát của Cơ quan Phát triển Vũ trụ sẽ chắc chắn có khả năng hơn các hệ thống thương mại và rất quan trọng cho sự thành công về chiến thuật trên chiến trường tương lai. Việc ngày càng giảm độ phân giải không gian tạm thời của vệ tinh viễn thám sẽ giúp tình báo vũ trụ phát triển, từ việc sử dụng một công cụ ở cấp độ chiến lược mang tính lịch sử tới một công cụ chiến thuật. Việc giảm thiểu sự thay đổi này sẽ đòi hỏi sự kết hợp giữa các công cụ chủ động, thụ động, pháp lý và ngoại giao.
Những cách tiếp cận và phương án lựa chọn
Những tác động của độ phân giải ảnh vệ tinh lên các chiến dịch quân sự sẽ không thể bị bỏ qua trong thập kỷ tới. Khi các nền tảng viễn thám thay đổi từ chủ yếu là đánh giá mức độ nguy hiểm về mặt tình báo sang mức độ nguy hiểm trong tác chiến thời gian thực đối với các lực lượng quân sự, thì các biện pháp quản lý các hệ thống này một cách hiệu quả là cần thiết. Các biện pháp quân sự chủ động trong nhắm tới mục tiêu bằng vệ tinh viễn thám sẽ là yếu tố then chốt trong tương lai để quản lý mối đe dọa này. Hiện tại, Nga và Trung Quốc đang phát triển các hệ thống lade mặt đất nhằm chống lại các hệ thống viễn thám ở quỹ đạo thấp18. Hệ thống này nhiều khả năng sẽ là một biện pháp phản công hiệu quả chống lại các nền tảng viễn thám của đối phương. Tuy nhiên, bức tranh về mối đe dọa trong quỹ đạo phức tạp hơn nhiều về mặt chính trị so với môi trường trên không. Tính chất của cơ chế quỹ đạo là các nền tảng viễn thám từ hàng chục các quốc gia và thực thể thương mại hàng ngày sẽ đi qua bất kỳ vùng xung đột nào. Đối với các nước tương đối đóng cửa mặt ngoại giao, chẳng hạn như Nga hoặc Trung Quốc, giao chiến với bất kỳ vệ tinh nào không trực tiếp thuộc về đồng minh, bằng các biện pháp quân sự chủ động là có thể xảy ra. Tuy nhiên, một đất nước cởi mở hơn về mặt ngoại giao như Mỹ - quốc gia vốn có lịch sử tự hào về liên minh của mình và thường tuân thủ luật pháp quốc tế - sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc sử dụng các biện pháp quân sự chủ động của mình. Do đó, cần có một cách tiếp cận mềm dẻo hơn để quản lý các mối đe dọa vệ tinh mà đó là một sự kết hợp với giữa các biện pháp ngoại giao và pháp lý rồi đến quân sự khi cần thiết. Phần tiếp sẽ thảo luận về các cách tiếp cận hiện tại và có khả năng nhằm quản lý mối đe dọa ngoài phạm vi các biện pháp quân sự chủ động.
Các biện pháp chủ động là cần thiết chống lại các hệ thống viễn thám của kẻ thù, nhưng chúng nên sử dụng như là biện pháp cuối cùng chống lại các hệ thống thương mại nội địa hoặc được sở hữu bởi bên thứ ba. Các hệ thống này vẫn là mối đe dọa tác chiến khi mà các hình ảnh chúng chụp được có thể mua bán hoặc truy cập công khai và cung cấp thông tin tình báo giá trị cho kẻ địch. Trong các trường hợp nước kẻ thù không có năng lực viễn thám nội địa lớn, các biện pháp chủ động đã nhắc tới ở phần trước là không cần thiết. Thay vào đó, một sự kết hợp giữa các phương án pháp lý và ngoại giao sẽ là biện pháp chính nhằm hạn chế sự phân phối các thông tin tình báo giá trị trên không19. Hiện tại, Mỹ có thị trường viễn thám thương mại lớn nhất và nhiều khả năng tiếp tục dẫn đầu thị trường bởi một cơ cấu pháp lý ngày càng cởi mở, một cơ sở công nghiệp vững chắc và các hợp đồng chính phủ nhiều lợi nhuận. Phần còn lại của thị trường thương mại toàn cầu sẽ nhiều khả năng vẫn tập trung ở các nước đồng minh thân cận và đối tác của Mỹ. Vậy nên, Mỹ gặp phải những khó khăn cụ thể trong quản lý các mối đe dọa viễn thám bởi sử dụng các biện pháp quân sự chủ động lên các hệ thống thương mại nội địa hoặc đồng minh không phải là một phương án ngoại giao phù hợp. Tuy nhiên, cơ chế pháp lý của Mỹ có thể được sử dụng cũng như các biện pháp khác nhằm kiểm soát viễn thám thương mại nội địa. Bên cạnh đó, các biện pháp ngoại giao đi kèm bởi các thỏa thuận đối ứng và lưu ý quốc tế cũng là một cách kiểm soát hiệu quả các hệ thống của đồng minh và bên thứ ba. Một sự kết hợp kiểm soát giữa pháp lý và ngoại giao có thể bổ sung hiệu quả cho các biện pháp quân sự trong kiểm soát thông tin tình báo viễn thám, hạn chế rủi ro tác chiến và thông tin tình báo vô tình gây ra bởi các hệ thống này.
(Còn nữa ạ)
Ảnh vệ tinh thương mại cho thấy Nga tập kết khí tài, trang bị quân sự gần Ukraine
Máy bay quân sự Nga tại căn cứ Millerovo trong ảnh chụp ngày 15/2 từ vệ tinh thương mại
Ảnh vệ tinh chụp được xe quân sự Nga đang tiến về biên giói Nga - Ukraine
Máy bay trực thăng quân sự Nga gần biên giới Nga - Ukraine
Viễn thám sử dụng các vệ tinh để chụp lại các vật thể trên mặt đất. Viễn thám đang phát triển nhanh chóng, từ chỗ mục tiêu ban đầu chỉ tập trung chủ yếu vào xác định mối đe dọa tình báo chiến lược và an ninh quốc gia, thì hiện nay đã hướng tới mối đe dọa trong tác chiến của lực lượng quân sự. Viễn thám sẽ càng làm phức tạp hơn mối đe dọa về thông tin tình báo và định vị mục tiêu từ các máy bay không người lái và các xenxơ khác trên chiến trường, đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Các công nghệ viễn thám ưu việt sẽ cho phép quan sát lực lượng quân sự thời gian thực ở mọi nơi, mọi lúc và mọi điều kiện thời tiết. Quan sát toàn cảnh sẽ cung cấp một lợi thế quân sự vô cùng lớn cho quốc gia biết tận dụng nó trong khi các quốc gia khác sẽ gặp bất lợi. Các biện pháp ngoại giao, pháp lý và quân sự hiện tại để quản lý mối đe dọa như vậy không còn đáp ứng được đối với mức độ thách thức mà các xenxơ này đặt ra trong chiến tranh hiện đại.
Sáng sớm ngày 8/1/2020, đã có quả 10 tên lửa của Iran tấn công vào Căn cứ Không quân al-Assad tại I-rắc, một căn cứ quan trọng của quân đội Mỹ trong khu vực1. Trong cùng ngày, các hãng tin toàn thế giới đã bình luận về hiệu quả rõ ràng của các tên lửa Iran và các thiệt hại do cuộc tấn công này gây ra. Phần lớn các bình luận và phân tích đã sử dụng hình ảnh vệ tinh chất lượng cao - cung cấp bởi công ty Planet được cấp phép có trụ sở tại Mỹ - chụp được sau cuộc tấn công một vài giờ đồng hồ. Các bức ảnh cho phép thế giới thấy được mức độ thiệt hại và đánh giá độ chính xác của các cuộc tấn công này. Một công ty thương mại viễn thám có trụ sở tại Mỹ cũng tung ra những hình ảnh vệ tinh chi tiết và cùng ngày về ảnh hưởng của cuộc chiến giữa Mỹ và một cường quốc nước ngoài. Iran đã có được thông tin quan trọng mà lẽ ra đã không thể có về tính hiệu quả của các tấn công và nhắm tới mục tiêu của mình. Sử dụng hình ảnh này cho phép Iran tiến hành phân tích sau đợt tấn công tên lửa để cải tiến, phục vụ cho các đợt tấn công trong tương lai, gây ra mối đe dọa thậm chí còn lớn hơn cho các lực lượng Mỹ và I-rắc. Nếu không có dữ liệu vệ tinh của Planet, Iran sẽ chỉ có thể truy cập vào những báo cáo rời rạc và không được xác nhận từ các nhân chứng ở mặt đất. Những biện pháp khác để thu thập hình ảnh trên không, như là việc sử dụng máy bay hoặc máy bay không người lái, nhiều khả năng sẽ thất bại bởi cả I-rắc lẫn Mỹ đều không cho phép Iran bay qua Căn cứ Không quân al-Assad mà không bị phát hiện. Cuối cùng, Iran đã chọn không tiếp tục tấn công và làm xung đột leo thang, giảm thiểu bất kỳ các thiệt hại có thể xảy ra bởi hình ảnh của Planet. Tuy nhiên, việc nhanh chóng công khai hình ảnh vệ tinh chất lượng cao về cuộc tấn công vào lực lượng Mỹ báo hiệu một sự khởi đầu của một kỷ nguyên chiến tranh mới - kỷ nguyên mang lại những thách thức, rủi ro và cơ hội lớn cho cuộc chiến trong tương lai.
Căn cứ Không quân al-Assad bị tên lửa Iran tập kích
Sự phát triển của viễn thám, các xu hướng và tương lai của chiến tranh
Sự phát triển của viễn thám
Trước khi vệ tinh ra đời, thu thập thông tin tình báo chi tiết về vị trí và cách bố trílực lượng của đối phương trong cuộc xung đột đòi hỏi phải có các chuyến bay mạo hiểm hoặc sử dụng trinh sát mặt đất. Bên ngoài cuộc xung đột, có được hình ảnh trên không của các quốc gia khác cho mục đích tình báo thậm chí còn khó khăn hơn nếu không có vệ tinh bởi các quốc gia quản lý chặt không phận của họ. Qua hàng thập kỷ, vệ tinh thu được các thông tin tình báo giá trị trên không này rất đắt, hiếm và chỉ có ở một vài nước. Trong thập kỷ vừa qua, sự tiến bộ của công nghiệp đã dẫn tới sự gia tăng của công nghệ viễn thám, với ít nhất 25 quốc gia hiện đang sở hữu một số vệ tinh viễn thám với chất lượng khác nhau. Đối với các nước không có nền tảng quốc gia, hình ảnh chất lượng cao có sẵn từ các nguồn thương mại. Dân chủ hóa thông tin viễn thám dại diện cho một mối đe dọa mới và thực tế đối với các lực lượng quân sự khi chúng chỉ làm gia tăng sự phức tạp cho các chiến trường trong tương lai. Hiện có một vài xu hướng bao trùm sự phát triển của vệ tinh viễn thám và chúng là một mối đe dọa lớn đối với tác chiến trong tương lai.
Với sự ra đời của viễn thám vào những năm 1960, các vệ tinh có thể thay thế phần lớn máy bay cho việc thu thập thông tin với mục đích tình báo, nhưng không phải không có hạn chế. Trong khi một vệ tinh có thể bay trên không tự do theo quỹ đạo của nó, nó không thể thay đổi quỹ đạo của mình để bay tới một mục tiêu cụ thể sớm hơn. Do đó, tình báo vũ trụ được quyết định bởi giới hạn thời gian (độ phân giải tạm thời) mà trở nên khó khăn hơn bởi chi phí và các giới hạn độ phân giải mục tiêu (độ phân giải không gian). Khi việc trở lại bằng kỹ thuật số là khả thi và hình ảnh vệ tinh không còn chỉ dùng một lần, một sự cân bằng cần phải đạt được giữa độ phân giải và tuổi thọ của vệ tinh. Các vệ tinh hình ảnh đang, hoặc ít nhất đã từng, vô cùng đắt đỏ, vậy nên chúng cần được bay đủ cao quanh quỹ đạo của mình để tránh lực cản khí quyển ở mức độ nào đó mà sẽ làm giảm tuổi thọ của chúng. Độ cao lớn dẫn đến nhu cầu về những ống kính lớn hơn và chất lượng để đảm bảo rằng độ phân giải không gian là phù hợp, từ đó làm tăng chi phí. Các chi phí lớn đã làm tình báo vũ trụ là một đặc quyền giới hạn chỉ cho một vài nước có đủ tiền để chế tạo, phóng và vận hành các vệ tinh viễn thám. Bởi vì hình ảnh chụp từ vũ trụ vẫn còn đắt, số lượng các nền tảng thương mại vẫn còn tương đối ít, hạn chế khả năng hoạt động của chúng.
Điều này bắt đầu thay đổi vào năm 2001 khi hình ảnh có độ phân giải tương đối cao trở nên sẵn có để bên thứ ba có thể mua, với sự ra đời của QuickBird-2 và các vệ tinh viễn thám có khả năng cao và hoàn toàn thương mại hóa. Vệ tinh đầu tiên phá vỡ giới hạn độ phân giải 0.5-m là DigitalGlobe’s WorldView-1 có trụ sở tại Mỹ, ra mắt vào năm 2007. Khả năng của WorldView-1’s đã bị WorldView-3 vượt qua vào năm 2014. Vệ tinh này có thể chụp ảnh ở độ phân giải toàn sắc ở 0.3-m nhưng tốn gần 600 triệu USD và trường hợp lý tưởng nhất cho phép truy cập ở bất kỳ nơi nào trên thế giới chỉ trong thời gian hơn một ngày. Vệ tinh thương mại gần đây nhất làm theo mô hình chất lượng này là WorldView-4, ra mắt vào năm 2016 và rơi khỏi quỹ đạo vào đầu năm 2019 - chỉ hai năm theo vòng đời dự kiến 10 năm. Các vệ tinh này trả lại hình ảnh có độ phân giải cao nhưng bị giới hạn bởi nhiều yếu tố kĩ thuật để chụp một khu vực có diện tích 680.000 km2 trong một ngày, một khu vực bằng khoảng bang Texas7. Với độ phân giải không gian cao, nhưng độ phân giải tạm thời thấp, các vệ tinh này là các công cụ tình báo giá trị nhưng vẫn có rủi ro tác chiến tương đối thấp đối với các lực lượng quân sự trên chiến trường.
Việc tăng độ phân giải tạm thời yêu cầu phải phóng thêm vệ tinh, nhưng hạn chế về mặt kỹ thuật được nhắc tới ở phần trước khiến cho việc này rất đắt đỏ khi mà chi phí phóng vẫn còn cao. Chỉ từ khi năm 2015 chi phí phóng mới bắt đầu giảm thật bởi các công ty thương mại đúng nghĩa, nổi bật là SpaceX, tham gia vào thị trường trước đó gần như độc quyền bởi nhà nước. Độc quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào các hợp đồng của chính phủ tài trợ và không thực sự có đối thủ, nên họ ít có động lực để tiến hành cách mạng công nghệ. Bắt đầu với hợp đồng Dịch vụ Vận tải Quỹ đạo Thương mại của NASA đã cơ bản cung cấp nguồn tài trợ ban đầu cho SpaceX, cạnh tranh thương mại thực sự đã xuất hiện tại thị trường phóng lần đầu tiên, dẫn tới bước nhảy vọt mạnh mẽ về công nghệ và mở ra những cơ hội về thị trường mới.
Các xu hướng viễn thám
Một sự thay đổi mô hình đã diễn ra với việc giảm chi phí phóng đồng thời với sự thay đổi nhanh chóng trong việc thu nhỏ vệ tinh. Việc thu nhỏ vệ tinh đã thay đổi tính kinh tế trong chế tạo vệ tinh, dẫn đến một cuộc cách mạng về hình ảnh vệ tinh. Các vệ tinh nhỏ hơn giá rẻ hơn. Hàng chục chiếc có thể được phóng đồng thời trên một mặt phẳng quỹ đạo duy nhất, nơi mà việc điều khiển cẩn trọng trong môi trường vũ trụ có thể sắp xếp chúng một cách hợp lý và giảm độ phân giải tạm thời. Đổi lại là các vệ tinh viễn thám được phóng theo cách này sẽ ít có khả năng mang tải ống kính lớn, từ đó giảm độ phân giải không gian. Các vệ tinh viễn thám nhỏ sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách phóng lên độ cao quỹ đạo thấp hơn nhiều - 250 km so với 600 km hoặc hơn đối với các vệ tinh WorldView truyền thống của DigitalGlobe. Tuy nhiên, việc gia tăng lực cản khí quyển lên vệ tinh trên các quỹ đạo này cũng làm giảm đáng kể vòng đời của chúng. Do đó, duy trì một chùm vệ tinh đòi hỏi các vệ tinh nhỏ phải được bổ sung thường xuyên. Việc chu kỳ thay thế được rút ngắn thúc đẩy nhu cầu cần thêm vệ tinh cũng như phóng chúng, từ đó giảm chi phí đơn vị và cho phép cải tiến liên tục cho cả hai nhu cầu này. Những lợi ích trên củng cố thêm các động lực kinh tế khi sử dụng cách tiếp cận này. Một cuộc chạy đua đang diễn ra xem ai đạt được độ phân giải không gian và tạm thời tốt nhất có thể.
Cuối năm 2017, công ty Planet có trụ sở tại Mỹ đã đạt được mục tiêu chụp toàn bộ bề mặt Trái Đất ở độ phân giải 3-5m trong vòng một ngày8. Phần lớn sẽ cân nhắc mô hình này khi mà đạt được sự thay đổi là không thể chỉ vài năm về trước. Đó chính là một trong số các vệ tinh giá rẻ cung cấp hình ảnh ban đầu về Căn cứ Không quân al-Assad. Planet không đơn độc trong việc giới thiệu các cách tiếp cận đột phá trong viễn thám. Hàng chục các nhà cung hình ảnh mới đã bắt đầu tham gia vào thị trường, cung cấp sự đa dạng trong khả năng từ rađakhẩu độ tổng hợp (SAR) tới chụp ảnh siêu kính. Tính đến năm 2021, nhiều hệ thống này đã có trên quỹ đạo với số lượng nhỏ như một nhóm đầu tiên của các chùm vệ tinh tương tự.
Giai đoạn cuối của cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp thương mại và quốc gia tận dụng công nghệ thương mại là việc phủ sóng toàn cầu ở độ phân giải cao ở mọi nơi mọi lúc. Sự hội tụ độ phân giải này sẽ chắc chắn xảy ra trước năm 2030. Tuy nhiên, các dấu hiệu cho thấy bản năng chiến thắng cuộc chiến của quan sát toàn diện trong chiến tranh hiện đại đã được mô tả trong cuộc xung đột gần đây giữa Ác-mê-ni-a và A-déc-bai-dan, mặc dù bằng các xenxơ từ máy bay chứ không phải từ vũ trụ.
Xe tăng Armenia bị máy bay không người lái Azerbaijan phá hủy
Thiết bị quân sự Armenia bị máy bay không người lái Azerbaijan phá hủy
Các tác động của xu hướng viễn thám tới chiến tranh tương lai
Vào cuối năm 2020, Ác-mê-ni-a và A-déc-bai-dan đã có một cuộc chiến nhỏ khốc liệt ở khu vực tranh Nagorno-Karabakh đã cho thấy các cuộc tấn công chính xác tầm xa và hỏa lực gián tiếp, hỗ trợ bởi tình báo trên không có thể một sự kết hợp dẫn tới chiến thắng. Khi bắt đầu cuộc xung đột, Ác-mê-ni-a được cho rằng có quân đội tiêu chuẩn vượt trội hơn A-déc-bai-dan khi khả năng huấn luyện và chỉ huy đều tốt hơn9. Tuy vậy, họ nhanh chóng bị đánh bại bởi chiến thuật sử dụng máy bay không người lái khi chúng cung cấp dữ liệu nhắm tới mục tiêu cho pháo binh và các vũ khí tầm xa khác của A-déc-bai-dan. Ban đầu, Ác-mê-ni-a điều khiển một hệ thống phòng không do Nga chế tạo mà A-déc-bai-dan phải tiêu diệt chúng để có thể sử dụng được đầy đủ khả năng từ máy bay không người lái do Thổ Nhĩ Kỳ và Ít-xa-ren cung cấp10. A-déc-bai-dan đã buộc phải sử dụng 11 chiếc máy bay không người lái AN-2 thời Liên Xô làm mồi nhử để Ác-mê-ni-a bắn chúng và từ đó xác định và tiêu diệt hệ thống phòng không này. Một khi A-déc-bai-dan đã vô hiệu hóa được hệ thống phòng không, họ có thể dùng máy bay không người lái để truy tìm và tiêu diệt các lực lượng Ác-mê-ni-a trên mặt đất. Theo một số tính toán, A-déc-bai-dan đã tiêu diệt gần 1.000 xe tăng, xe bọc thép và các loại xe khác trong chiến dịch ngắn ngày, sử dụng hỏa lực chính xác, buộc Ác-mê-ni-a phải ký vào yểu cầu lập lại hòa bình. Sự thành công của A-déc-bai-dan trong việc sử dụng máy bay không người lái để cung cấp dữ liệu mục tiêu cho các vũ khí gián tiếp cung cấp một góc nhìn khái quát về chiến tranh trong tương lai.
Bất chấp sự thành công ở cuộc xung đột Nagorno-Karabakh, chiến tranh bằng máy bay không người lái không phải không có hạn chế mà tình báo từ vệ tinh có thể khắc phục và mở rộng. Thứ nhất, A-déc-bai-dan đã đánh bại Ác-mê-ni-a bằng tác chiến từ trên không, nhưng chúng có tầm nhìn hạn chế và phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khi tác chiến - hạn chế mà vệ tinh không bị ảnh hưởng. Thứ hai, Nga đã nhanh chóng đưa vào một hệ thống tác chiến điện tử chống máy bay không người lái, Krashukha-4, đã bắn hạ thành công máy bay không người lái của Thổ Nhĩ Kỳ trong phạm vi lên tới 300 km. Hệ thống chống máy bay không người lái nhanh và hiệu quả này cho thấy chúng dễ bị tổn thương bởi chiến tranh điện tử. Rõ ràng, chiến tranh sẽ được áp dụng cho các vệ tinh nếu chúng cũng trở thành mối đe dọa, nhưng không giống như các máy bay không người lái, chúng không thể ngay lập tức chịu tổn thương từ các tác nhân vật lý. Hình ảnh về mục tiêu từ vệ tinh cũng sẽ chi tiết hơn so các nền tảng hình ảnh thương mại khác nhau của máy bay không người lái cùng bay trên không và điều đó có thể hỗ trợ cho kẻ địch hoặc không. Cuối cùng, trong khu vực xung đột, các bên tham chiến có thể tuyên bố vùng cấm bay. Khả năng này là không thể trong quỹ đạo không gian, từ đó hỗ trợ rất nhiều cho năng lực xác định và truy tìm các mục tiêu có khả năng là kẻ thù.
Hệ thống Krashukha-4
Các chi tiết chính xác của bất kỳ cuộc xung đột nào không bao giờ được lặp lại, khi mà các tình huống, địa hình và công nghệ liên tục phát triển. Tuy nhiên, người ta có thể rút ra một số dự đoán từ Nagorno-Karabakh về cách các đối thủ có khả năng hơn sẽ chiến đấu trong tương lai. Thứ nhất, bài học lớn hơn từ cuộc xung đột này là phần lớn tổn thất chiến đấu trong xung đột nhà nước-quốc gia tiếp tục tới từ hệ thống hỏa lực gián tiếp và các vũ khí tầm xa khác15. Thứ hai, khả năng tìm và nhắm chính xác tới đối phương là rất quan trọng đối với hiệu quả của các hệ thống này, vậy nên bên nào có thông tin tình báo tốt hơn sẽ có khả năng tiêu diệt đối phương nhanh hơn. Cuối cùng, để ngăn đối phương phối hợp không gian chiến đấu bằng các xenxơ - dù là máy bay không người lái hay các hệ thống khác - sẽ là ưu tiên quan trọng cho bên phòng ngự. Tóm lại, bên nào có thể kết hợp được thông tin tình báo với hỏa lực tầm xa một cách tốt nhất sẽ làm chủ chiến trường.
Vai trò của tình báo thời gian thực từ các vệ tinh viễn thám trong một cuộc xung đột tương lai sẽ giống như vai trò của máy bay không người lái trong việc thu thập thông tin tình báo cho A-déc-bai-dan. Sự gia tăng năng lực viễn thám thương mại và của quốc gia trong việc chụp ảnh chi tiết các khu vực rộng lớn và truyền phát hình ảnh đó tới các trung tâm chỉ huy hỏa lực sẽ là một nút thắt quan trọng trong chuỗi tiêu diệt đối phương. Các nhà cung cấp thương mại đã và đang sử dụng các vệ tinh làm nhiệm vụ và phản hồi theo thời gian thực. Những nỗ lực xây dựng có mục tiêu như lớp tìm kiếm và truyền phát của Cơ quan Phát triển Vũ trụ sẽ chắc chắn có khả năng hơn các hệ thống thương mại và rất quan trọng cho sự thành công về chiến thuật trên chiến trường tương lai. Việc ngày càng giảm độ phân giải không gian tạm thời của vệ tinh viễn thám sẽ giúp tình báo vũ trụ phát triển, từ việc sử dụng một công cụ ở cấp độ chiến lược mang tính lịch sử tới một công cụ chiến thuật. Việc giảm thiểu sự thay đổi này sẽ đòi hỏi sự kết hợp giữa các công cụ chủ động, thụ động, pháp lý và ngoại giao.
Những cách tiếp cận và phương án lựa chọn
Những tác động của độ phân giải ảnh vệ tinh lên các chiến dịch quân sự sẽ không thể bị bỏ qua trong thập kỷ tới. Khi các nền tảng viễn thám thay đổi từ chủ yếu là đánh giá mức độ nguy hiểm về mặt tình báo sang mức độ nguy hiểm trong tác chiến thời gian thực đối với các lực lượng quân sự, thì các biện pháp quản lý các hệ thống này một cách hiệu quả là cần thiết. Các biện pháp quân sự chủ động trong nhắm tới mục tiêu bằng vệ tinh viễn thám sẽ là yếu tố then chốt trong tương lai để quản lý mối đe dọa này. Hiện tại, Nga và Trung Quốc đang phát triển các hệ thống lade mặt đất nhằm chống lại các hệ thống viễn thám ở quỹ đạo thấp18. Hệ thống này nhiều khả năng sẽ là một biện pháp phản công hiệu quả chống lại các nền tảng viễn thám của đối phương. Tuy nhiên, bức tranh về mối đe dọa trong quỹ đạo phức tạp hơn nhiều về mặt chính trị so với môi trường trên không. Tính chất của cơ chế quỹ đạo là các nền tảng viễn thám từ hàng chục các quốc gia và thực thể thương mại hàng ngày sẽ đi qua bất kỳ vùng xung đột nào. Đối với các nước tương đối đóng cửa mặt ngoại giao, chẳng hạn như Nga hoặc Trung Quốc, giao chiến với bất kỳ vệ tinh nào không trực tiếp thuộc về đồng minh, bằng các biện pháp quân sự chủ động là có thể xảy ra. Tuy nhiên, một đất nước cởi mở hơn về mặt ngoại giao như Mỹ - quốc gia vốn có lịch sử tự hào về liên minh của mình và thường tuân thủ luật pháp quốc tế - sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc sử dụng các biện pháp quân sự chủ động của mình. Do đó, cần có một cách tiếp cận mềm dẻo hơn để quản lý các mối đe dọa vệ tinh mà đó là một sự kết hợp với giữa các biện pháp ngoại giao và pháp lý rồi đến quân sự khi cần thiết. Phần tiếp sẽ thảo luận về các cách tiếp cận hiện tại và có khả năng nhằm quản lý mối đe dọa ngoài phạm vi các biện pháp quân sự chủ động.
Các biện pháp chủ động là cần thiết chống lại các hệ thống viễn thám của kẻ thù, nhưng chúng nên sử dụng như là biện pháp cuối cùng chống lại các hệ thống thương mại nội địa hoặc được sở hữu bởi bên thứ ba. Các hệ thống này vẫn là mối đe dọa tác chiến khi mà các hình ảnh chúng chụp được có thể mua bán hoặc truy cập công khai và cung cấp thông tin tình báo giá trị cho kẻ địch. Trong các trường hợp nước kẻ thù không có năng lực viễn thám nội địa lớn, các biện pháp chủ động đã nhắc tới ở phần trước là không cần thiết. Thay vào đó, một sự kết hợp giữa các phương án pháp lý và ngoại giao sẽ là biện pháp chính nhằm hạn chế sự phân phối các thông tin tình báo giá trị trên không19. Hiện tại, Mỹ có thị trường viễn thám thương mại lớn nhất và nhiều khả năng tiếp tục dẫn đầu thị trường bởi một cơ cấu pháp lý ngày càng cởi mở, một cơ sở công nghiệp vững chắc và các hợp đồng chính phủ nhiều lợi nhuận. Phần còn lại của thị trường thương mại toàn cầu sẽ nhiều khả năng vẫn tập trung ở các nước đồng minh thân cận và đối tác của Mỹ. Vậy nên, Mỹ gặp phải những khó khăn cụ thể trong quản lý các mối đe dọa viễn thám bởi sử dụng các biện pháp quân sự chủ động lên các hệ thống thương mại nội địa hoặc đồng minh không phải là một phương án ngoại giao phù hợp. Tuy nhiên, cơ chế pháp lý của Mỹ có thể được sử dụng cũng như các biện pháp khác nhằm kiểm soát viễn thám thương mại nội địa. Bên cạnh đó, các biện pháp ngoại giao đi kèm bởi các thỏa thuận đối ứng và lưu ý quốc tế cũng là một cách kiểm soát hiệu quả các hệ thống của đồng minh và bên thứ ba. Một sự kết hợp kiểm soát giữa pháp lý và ngoại giao có thể bổ sung hiệu quả cho các biện pháp quân sự trong kiểm soát thông tin tình báo viễn thám, hạn chế rủi ro tác chiến và thông tin tình báo vô tình gây ra bởi các hệ thống này.
(Còn nữa ạ)