Đoạn này Vietmap sẽ dẫn các bác về Hà Tiên dọc theo đường biên giới nhưng các bác đi theo trái ngã ba phía trước để đi qua thị trấn Tri Tôn - là một huyện miền Núi có diện tích lớn nhất và dân cư thưa thớt nhất của tỉnh An Giang.
Cách thị trấn Tri Tôn khoảng 17 km về phía tây nam là Nhà mồ Ba Chúc, Khu chứng tích được xây dựng nhằm tưởng nhớ 3157 người dân Ba Chúc bị quân Ponpot (Khmer đỏ) thảm sát, giết hại một cách tàn nhẫn dã man trong 11 ngày đêm vào năm 1978. Nhà mồ còn đang lưu giữ 1159 bộ xương cốt trong tủ kính. Xung quanh nhà mồ có Chùa Tam Bửu (tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) và Chùa Phi Lai (nơi vẫn còn để lại những vết máu trong cuộc thảm sát của Ponpot).
Khúc này sẽ chạy song song dòng Kênh Vĩnh Tế. Đây là một con kênh nổi tiếng nhất của vùng Đất Phương Nam được đào từ tháng 9 năm 1819 đến tháng 5 năm 1824 từ thời vua Gia Long đến thời vua Minh Mạng mới hoàn tất. Đây là tuyến đường thủy thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên và hiện nay vẫn được dùng để vận chuyển xi măng Hà Tiên đến Tp.HCM. Kênh có chiều dài 91 km, rộng 25 mét và sâu 3 mét. Trong 5 năm đào kênh, tổng số 80,000 dân binh được huy động chia làm 3 phiên và đào đắp bằng tay với vật dụng thô sơ hàng triệu mét khối đất đá và có khi phải làm việc cả ngày đêm ...để cho đúng tiến độ.. Tên Vĩnh Tế được đặt theo tên Châu Thị Tế - phu nhân của Thoại Ngọc Hầu.
Đường đi từ thị trấn Hà Tiên đến đền thờ họ Mạc khoảng 4 cây số, khu mộ của dòng họ Mạc nằm lưng chừng trên núi Bình San. Đường vào đền thờ hai bên đường là 2 hồ ao sen “Bảo ngọc liên trì” rất đẹp.
Đền thờ Mạc Công Miếu hay còn được gọi Trung Nghĩa Từ được vua Nguyễn ban tặng cho dòng họ dòng học Mạc. Hai câu đối trước đền với ý nghĩa như sau: "Nhất ngôn trung nghĩa gia thanh trọng, Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh." tạm dịch
Trước năm 1846, ngôi đền nằm bên trái chùa Tam Bảo, nay thuộc ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Buổi đầu, đền chỉ bằng gỗ lợp lá, do Mạc Công Du, cháu bốn đời của Mạc Cửu, thừa lệnh vua Gia Long lập khoảng các năm 1816-1818, khi ông giữ chức Hiệp trấn (1816) và Trấn thủ Hà Tiên (1818).
Gia Định thành thông chí được biên soạn khoảng năm 1820, ghi nhận là “Tam Bảo tự, tự tả Mạc Công từ” (Chùa Tam Bảo, bên tả chùa có đền Mạc Công)[4]
Năm 1833, Mạc Công Du theo Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mạng. Khi cuộc nổi dậy thất bại, Mạc Công Du, Mạc Công Tài, Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu đều bị tội, thì ngôi đền cũng dần bị đổ nát.
Về sau (1836), Đại học sĩ Trương Đăng Quế đi kinh lý, tổ chức lại việc cai trị ở các tỉnh vừa trải qua tai họa chiến tranh, khi về có tâu trình lên vua Thiệu Trị: “Việc mở mang đất Hà Tiên lúc ban đầu do công lao của Mạc Thiên Tứ rất lớn, nên lưu dụng lại con cháu họ Mạc.” Nhưng mãi đến đời Thiệu Trị thứ 5 (1845), nhân tấu trình của quan Tổng đốc An-Hà là Doãn Uẩn, vua Thiệu Trị mới có lệnh “tìm lại con cháu họ Mạc, người nào có tài có thể dùng thì tâu lên” và thuận cho xây dựng lại đền thờ mới[6]. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà vua cho lập lại đền kiên cố hơn, đẹp đẽ hơn, mái lợp ngói, hoàn thành năm 1847, nhưng ở một vị trí khác, đó là phía tây chân núi Bình San, tức vị trí bây giờ, và có tên là Trung Nghĩa Từ.
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), phong cho cháu cố là Mạc Văn Phong làm Đội trưởng để lo việc thờ cúng.
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chí sĩ Nguyễn Thần Hiến vận động nhân dân đóng góp tiền công, trùng tu lại đền và hoàn thành vào mùa đông năm Canh Tý 1900. Và từ đó cho đến nay, đền còn được tu bổ nhỏ nhiều lần.
Bên phải ngôi đền là đường lên núi, tại vị trí cao nhất là nơi an nghỉ của "Mạc Đại Ca".. là người có công mở bờ cõi vùng đất Hà Tiên với danh hiệu "Khai Trấn Quốc Công"..
Lịch sử về Mạc Cửu (hay còn gọi là Mạc Kinh Cửu sinh năm 1655 và mất năm 1735)..Quê gốc ở Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc). Do không thần phục nhà Thanh, năm 1671 ông đưa cả gia đình vào Mang Khảm miền tây Gia Định và chiêu tập dân nghèo lập 7 xã đầu tiên vùng ven biển và lập trấn Hà Tiên. Năm 1714, đem Hà Tiên sáp nhập vào phủ Gia Định và được chúa Nguyễn phong làm Tổng Binh. Với công lao khai phá một vùng đất Phương Nam chúng ta, coi bộ "Mạc đại ca" là chơi được nhất so với các chú TQ khác nhỉ??
Phía dưới lăng mộ của Mạc Cửu bên góc phải là lăng mộ của Mạc Thiên Tích.Tuy Mạc Cửu là người khám phá vùng đất Hà Tiên nhưng Mạc Thiên Tích người con của Mạc Cửu là người có tài giỏi đã có công khai hoang và phát triển vùng đất Hà Tiên.
Sau đây là thông tin lịch sử của Mạc Thiên Tích trích từ Kiwi:
Mạc Thiên Tứ, còn gọi là Mạc Thiên Tích là danh thần, danh sĩ đời chúa Nguyễn. Ông sinh năm Mậu Tuất (1718) và mất năm Canh Tý (1780). Ông là con Tổng binh Mạc Cửu - người được chúa Nguyễn phong là Tông Đức Hầu.
Khi phụ thân ông qua đời (1735), lúc ấy ông đã 29 tuổi, ông nối nghiệp cha mở mang đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn phong chức Tổng binh Đại Đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc xâm lấn của các lân bang Xiêm La và Chân Lạp.
Tranh chấp với Xiêm La
Năm 1767, quân Miến tiến chiếm Xiêm La bắt được vua Xiêm là Phong vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayutthaya, nhưng sau đó phải rút về vì Miến Điện bị Trung Hoa tấn công. Hai người con của Phong vương là Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Chân Lạp và Chiêu Thúy sang Hà Tiên lánh nạn. Một tướng Xiêm là Trình Quốc Anh, người Hoa gốc Triều Châu, là Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La, khởi binh chống lại quân Miến rồi tự xưng vương năm 1768. Trình Quốc Anh (Taksin) tổ chức lại lực lượng, chiêu mộ rất nhiều hải tặc gốc Hoa đang hoạt động trong Vịnh Thái Lan để tăng cường lực lượng. Trình Quốc Anh muốn triệt hạ uy lực của gia đình Mạc Thiên Tứ tại Hà Tiên vì đó là một đe dọa và là địch thủ lợi hại cho uy quyền của ông trong vịnh Thái Lan.
Năm 1768 lấy cớ truy lùng một hoàng tử Xiêm, Trình Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất, bắt giam và tra tấn nhiều giáo sĩ Công giáo để tìm nơi trú ẩn của Chiêu Thúy, đồng thời sai tướng Chất Tri (sau này là vua Rama Chakri tức là Rama I của Thái Lan) mang quân bảo hộ Chân Lạp và đưa Nặc Ông Nộn (Ang Non II) lên làm vua. Nặc Tôn (Outey II) chạy về Gia Định lánh nạn. Quân của Trình Quốc Anh đã ở lại Hòn Đất ba tháng để truy lùng vị hoàng tử Xiêm lưu vong nhưng không tìm ra. Trước khi rút về nước, Trình Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú Quốc và Hà Tiên.
Năm 1765 giáo sĩ Bá Đa Lộc (Béhaine de Pigneau) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện.
Năm 1769, quân Khmer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần Liên đổ bộ lên cướp phá Hòn Đất, rồi kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung và Mạc Khoán), tiến đánh Hà Tiên. Hai gia nhân làm phản và một số lớn cướp biển Khmer bị Thiên Tứ giết chết, Trần Liên thoát được chạy sang Xiêm La tị nạn. Lợi dụng cơ hội này Mạc Thiên Tứ chuẩn bị đưa hoàng tử Chiêu Thúy về Xiêm La đoạt lại ngôi báu. Ông cho luyện tập binh mã rồi mang quân ra chiếm lại Hòn Đất (1770) và chuẩn bị tiến công Xiêm La.
Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Trần Thái (Vinhly Malu, người Mã Lai) và Hoắc Nhiên (Hoc Nha Ku, người Khmer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trình Quốc Anh dùng Trần Liêm làm hướng đạo, đích thân chỉ huy đạo quân 20.000 người tiến chiếm Hà Tiên. Trình Quốc Anh thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc. Con cháu, hầu thiếp và người con gái út của Mạc Thiên Tứ bị Trình Quốc Anh bắt sống đem về Bangkok. Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1772, chúa Nguyễn mang 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền sang Chân Lạp đánh quân Xiêm và đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Trình Quốc Anh làm áp lực tại Hà Tiên buộc quân Việt phải dừng chân tại Nam Vang không được tiến xa hơn. Sau cùng hai bên đi đến một thỏa thuận: chúa Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp và chấp nhận để Nặc Ông Nôn (Ang Non II), người được vua Xiêm chỉ định, lên ngôi vua, còn quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên. Năm 1773 Trình Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú Quốc và Hòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ, nhưng buộc Mạc Thiên Tứ phải giao hoàng tử Chiêu Thúy cho quân Xiêm. Chiêu Thúy bị Trình Quốc Anh mang về Bangkok hành quyết.
Năm 1774, Giám mục Bá Đa Lộc trở về Hòn Đất thành lập họ đạo, năm sau ông được Mặc Thiên Tứ tiếp đãi trọng hậu và cho phép đi giảng đạo khắp Hà Tiên.
Lưu vong và mất tại Xiêm La
Vào khoảng năm 1776, khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định, truy kích tàn quân chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tích cùng Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm. Nhưng tháng 4 năm 1780, vua Xiêm là Taksin (Trịnh Quốc Anh) nghi ngờ ông làm gián điệp cho Gia Định, bắt giết các con lớn của ông là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày. Quá phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc. Về sau Mạc Tử Sanh được thả, trở về Gia Định phò giúp Nguyễn Ánh, được phong chức Tham tướng trấn thủ vùng Trấn Giang, có tiếng là tướng giỏi dù mới chỉ 19 tuổi, nhưng mất sớm.
Năm 1739, quốc vương Chân Lạp Nặc Bồn (hay Nặc Bôn) mang tới đánh Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu suốt ngày đêm. Vợ chánh Mạc Thiên Tứ là Nguyễn Thị Hiếu Túc đốc sức vợ binh lính chuyển khí cụ và lương thực cho binh sĩ...Quân xâm lấn tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách cử ông làm Đô đốc tướng quân và ban cho áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà vợ ông cũng được phong làm phu nhân (Hiếu Túc Thái Phu Nhân).
Năm 1747, giặc biển Đức Bụng vào cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên cũng bị đội quân của Mạc Thiên Tứ đánh đuổi.
Năm 1756, quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị tướng Nguyễn Cư Trinh đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.
Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.
Ngoài ra, từ 1775 đến 1777, Mạc Thiên Tứ đã cùng các con là Mạc Tử Dung, Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng (hoặc Thượng) phò tá chúa Nguyễn Phúc Thuần, đóng giữ ở Trấn Giang (nay là Cần Thơ) và dốc sức phát triển vùng đất này.
Phát triển kinh tế
Bính Thìn năm thứ 11 (1736). Mùa xuân chúa cho Thiên Tứ làm Hà Tiên trấn Đô đốc, ban cho ba thuyền Long Bài, được miễn thuế, lại sai mở lò đúc tiền để việc mua bán được thông thương. Thiên Tứ mở rộng phố chợ, thương nhân và lữ khách các nước tụ họp rất đông.
Dẫn lại đoạn sử trên, tác giả Nghiên cứu Hà Tiên khen: Ngay khi lãnh nhiệm vụ, Thiên Tứ đã vực dậy nền kinh tế, tạo dựng Hà Tiên thành một cảng khẩu trù phú, sung túc. Điều đó cho thấy năng lực của người lãnh đạo Hà Tiên (ý nói Thiên Tứ) thời đó quả không nhỏ.
Chia tay Đền thờ họ Mạc,hành trình điểm kế tiếp sẽ là Mũi Nai, nơi có bãi biển du lịch và cảnh đẹp rất đẹp. Theo truyền thuyết kể rằng: từ thuở hồng hoang, vùng đất này là mênh mông nước và mênh mông trời. Có một chú nai con thuộc dòng dõi nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say cảnh đẹp của biển trời Hà Tiên, chú không về kịp giờ đóng cửa rừng.
Buồn bã, chú nai quay lại bờ biển, thơ thẩn đi dạo. Nhưng biển đêm không hề thơ mộng êm ả vào mùa gió chướng. Gió nổi, sóng xô ầm ầm. Chú nai con gục ngã giữa biển.
Trước năm 1975, mực nước biển của bãi biển Mũi Nai được dùng làm điểm mốc trong việc so sách độ cao từ mực nước biển với các khu vực khác.
Các bác có thể túc tiệp tham quan các địa điểm còn lại là Thạch Động & Núi Đá Dựng
Khi nhắc đến Kiên Giang, người ta thường nhắc đến hình ảnh hòn Phụ Tử thuộc huyện Kiên Lương – Kiên Giang như là một “Logo” tự hào của người dân Kiên Giang. Có phải là không may mắn hay thiên nhiên đã định theo quy luật trời đất đối với con người, khoảng 3:45 sáng ngày 9 tháng 8 năm 2006, phần “Cha” có khối lượng nặng khoảng 1,000 tấn đã ngã chìm xuống biển … mặc dù đã có nhiều cảnh báo của người dân về qua các vết xói mòn của phần “Cha”..có thể nói chính quyền địa phương đã quá chậm chạp trong việc xử lý lời cảnh báo của người dân. Những kế hoạch đề xuất phục chế tốn kém hàng chục tỷ cũng đã không thể thực hiện… Thôi thì đổi “Slogan” mới “Hòn Mô Côi” nghe cũng hay