Chứng túc mạng thông biết kiếp trước của mình
Trích bài giảng
"Biết túc mạng" tại Tịnh Xá Ngọc Phương của Hòa thượng Thích Trí Quảng - Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nguyên Phó CHủ tịch HĐTS TƯ GHPGVN, Viện Trưởng học viện Phật Giáo Việt Nam tại TPHCM, Trưởng ban Trị Sự GHPGVN TPHCM, Tổng Biên tập báo Giác Ngộ:
Phật đắc đạo có ba giai đoạn. Giai đoạn một, Phật chứng được Túc mạng minh. Còn chúng ta chưa chứng Túc mạng, nên chúng ta thấy lờ mờ, vì chúng ta bị kẹt trong sáu căn sáu trần gọi là lục nhập. Nghĩa là mắt chúng ta chỉ thấy việc xung quanh mình. Tai chỉ nghe âm thanh gần mình, v.v… Như vậy, cuộc sống của chúng ta lệ thuộc sáu căn sáu trần, ta hiểu biết trong phạm vi này, không thể biết hơn. Nhưng biết Túc mạng là đóng kín sáu căn, không cho sáu căn tiếp xúc với sáu trần, nghĩa là cách ly thế giới vật chất để đi vào thế giới tâm linh. Đức Phật ngồi ở cội bồ-đề, Ngài không cho căn trần tiếp xúc thì Thức không sanh gọi là Bạch tịnh thức, bấy giờ, tâm hoàn toàn trắng mà kinh Đại thừa gọi là Bồ-tát đạt tới đệ bát địa, chuyển đổi tâm hành giả thành trắng, không biết theo sáu căn sáu trần nữa. Từ đây, hành giả nhìn lại thấy khác với trước kia, khác với hiểu biết theo cuộc sống bình thường, chẳng hạn thấy ông A tu bao nhiêu lâu và được cái gì;
nhưng chứng Túc mạng thì thấy đời trước của người này đã làm gì mới dẫn đến cuộc sống hiện tại như vầy. Hoặc thấy Ni trưởng Ngoạt Liên đời trước tu gì mà đời này làm trụ trì tịnh xá này. Người không giác ngộ thì nói Ni trưởng học không bằng mình nhưng làm trụ trì.
Đắc đạo, quán thấy nhiều kiếp trước. Thật vậy, Đức Phật quán sát túc mạng thấy nhiều kiếp trước của Kiều Trần Như là ông vua ác tên Ca Lợi. Lúc đó, tiền thân Phật là Sằn Đề tiên nhân đã bị Ca Lợi vương móc mắt, chặt tay, lóc thịt. Nhưng Ngài đã thành tựu pháp nhẫn nhục ba-la-mật, mới nói rằng nhờ Ca Lợi vương sát hại Ngài, nên Phật đã đến độ ông trước.
Chưa đắc đạo, chưa chứng Túc mạng thì chúng ta không biết ai thân, ai thù, ai giả, ai thật, cho nên thường gặp nguy hiểm. Một số thầy trụ trì than rằng bị bà A gạt lấy hết tiền. Người đến gạt mà cũng không biết. Phật nói người tu nhìn mặt người khác thì tối thiểu phải biết họ lừa đảo, không thật, họ đóng vai cư sĩ giả.
Một góc Ngọc Phương
Điều quan trọng là phải biết túc mạng. Trên bước đường tu, thực tập pháp này, tôi thấy qua nhiều giai đoạn khi hành Bồ-tát đạo, tối thiểu biết lờ mờ bằng cảm giác. Khi tâm thanh tịnh, cắt bỏ tham lam, bè phái, thấy sự việc thì mình có cảm giác biết đối tượng tốt hay xấu. Người tu phải đạt được cái biết lờ mờ này, khi ba nghiệp tạm thời thanh tịnh, thì quán sát biết được. Vì vậy, nếu tiếp xúc với người mà tôi thấy tâm mình không thanh tịnh và quán sát không chính xác thì tôi không làm, nên không bị quả báo. Tâm không thanh tịnh mà làm, ít có kết quả tốt. Tâm thanh tịnh và tiếp xúc với người, với cuộc đời, bằng cảm giác, ta nhận ra người tốt hay xấu. Thí dụ đời trước họ là bạn tốt của ta thì tái sanh đời này, ta thấy họ thân quen và có thiện cảm liền. Cũng là người, nhưng chúng ta thương và giúp đỡ thì biết có thể là bạn đồng tu, hay quyến thuộc đời trước. Chúng ta có hai thứ quyến thuộc, quyến thuộc thế gian và quyến thuộc Bồ-đề. Chưa tu, lấy quyến thuộc thế gian làm nội quyến thuộc là cha mẹ, anh em của mình, còn bạn bè là ngoại quyến thuộc. Ta phải nhận ra quyến thuộc.
Khi chưa xuất gia, Thái tử Sĩ Đạt Ta có Tịnh Phạn là cha, Di mẫu là mẹ, Nan Đà là anh em dòng tộc. Nhưng khi Ngài xuất gia thành Phật, quyến thuộc Bồ-đề của Ngài là mười đại đệ tử, tức những người nồng cốt hộ pháp cho Phật, đó là trí tuệ Xá Lợi Phất, thần thông Mục Kiền Liên, mật hạnh La Hầu La, đầu đà Ca Diếp, thiên nhãn A Na Luật, nghị luận Ca Chiên Diên, ngộ tánh Tu Bồ-đề, thuyết pháp Phú Lâu Na, trì luật Ưu Bà Ly, đa văn A Nan.
Chúng ta tu, cầu Bồ-đề quyến thuộc. Tu mà không có quyến thuộc Bồ-đề, chỉ có quyến thuộc thế gian thì không đắc đạo được. Mười đại đệ tử của Phật có đặc tánh đặc biệt là luôn luôn gắn bó với Phật. Quyến thuộc Bồ-đề rất quan trọng. Ngài thành Phật phát hiện những bạn đồng tu là quyến thuộc Bồ-đề thì họ tái sanh ở đâu, Phật đến độ, vì Phật chỉ độ được người có duyên với Ngài. Độ người không có duyên, họ sẽ làm phiền mình, hay độ ngược lại mình.
Ngày nay, nếu chúng ta chứng được Túc mạng thì biết người có gắn bó với mình, tức có duyên với mình, chúng ta dắt họ về, cho xuất gia. Ngày xưa, Hòa thượng Hồng Đạo là bạn tôi, thấy tôi có thầy thị giả dễ thương, nên nói với tôi rằng ông đã lớn tuổi lại ở một mình, nên xin tôi cho thị giả này về sống với ông. Thầy thị giả ở với Hòa thượng Hồng Đạo một tuần thì Hòa thượng đưa trả về tôi, nói rằng thầy này không dễ thương. Ở với tôi thì thầy này dễ thương, vì đã có nhân duyên quá khứ với tôi. Khi tôi tốt nghiệp ở Nhật về, thầy này theo tôi học đạo, nhưng Hòa thượng bắt về cuốc đất, trồng rau, thầy không thích; đó là thực tế mà chúng ta phải thấy. Và Hòa thượng lại kiếm xin mấy trẻ về nuôi, nhưng khi Hòa thượng lên thành phố, nó cạy tủ lấy tiền rồi trốn mất.
Trên bước đường tu, sống một mình cũng được. Phật nói thà sống một mình, tuy buồn, nhưng không làm bạn với những người ác. Vì vậy, đối với quyến thuộc Bồ-đề, chúng ta tiếp nhận, ác ma thì tránh.
Trên bước đường hoằng hóa độ sanh, Đức Phật đắc đạo, có Túc mạng, Ngài thấy những bạn đồng tu đời trước trong hiện đời họ sanh ở đâu và làm gì, Ngài tìm đến đó để độ. Vì vậy, Phật độ người nào là được người đó. Đức Phật độ ông Sunita hốt phân đắc La-hán, nhưng chỉ có một ông duy nhất là Sunita đắc quả, không phải tất cả người gánh phân đều đắc La-hán. Nếu không hiểu mà chấp vào đó rồi kiếm người làm thuê ở mướn cho xuất gia để mong họ đắc La-hán là thất bại liền.
Các Ni sư cạo đầu trẻ mồ côi nên cân nhắc xem chúng có hạt giống Bồ-đề hay không. Đức Phật biết rõ Sunita hốt phân nhưng đời trước ông là đại Pháp sư nổi tiếng. Vì phạm một lỗi nhỏ mà tái sanh đời này phải trả quả báo gánh phân. Phật thấy rõ nên cứu độ ông, giúp ông bỏ gánh phân xuống và chỉ tu một đêm đắc đạo. Sự thật ông là La-hán rồi, nhưng sanh lại để trả quả, không phải người hốt phân thiệt mà đắc đạo dễ dàng như vậy. Nói theo ngày nay, trí thức hóa người lao động là việc quá khó. Dạy chữ nghĩa cho người dốt thì khó vô cùng. Thực tế cho chúng ta thấy việc nâng thành phần lao động tay chân lên hàng trí thức không đơn giản.
Tôi nhớ thuở nhỏ đọc truyện chàng nhái. Một bà công chúa nuôi con chàng nhái, một thời gian sau, nó cởi lốt thành người giỏi, đẹp, làm quan, làm tướng. Bà công chúa khác thấy vậy, ganh tức, nên cũng bắt chước nuôi, nhưng nuôi hoài nó cũng không cởi lốt, vì nó là con nhái thiệt thì muôn đời vẫn là con nhái. Còn con nhái kia ở bên trong nó là cốt hoàng tử, nhưng phải mang xác bên ngoài là con nhái, mới có thể cởi bỏ xác nhái mà trở thành người. Cốt cách bên trong của mỗi người khác nhau, có người là Phật, là Bồ-tát, là La-hán, hay chư Thiên, hoặc là ma quỷ sanh lại.
Những người bần cùng, ngu dốt, sanh lại để trả quả báo thì làm sao nâng họ lên cao được, cần phải cân nhắc. Sunita đời trước tu cao, nhưng phạm sai lầm. Tu cao coi chừng bị đọa sâu. Đức Phật kể rằng tiền thân Sunita rất giỏi, nhưng bảo ông đạo đổ bô cho ông. Có ý niệm sai bảo người khác làm việc hạ tiện mà bị quả báo đời sau làm người gánh phân. Đức Phật biết túc mạng của Sunita như vậy, Ngài tới khai ngộ ông. Cốt lõi ông là Pháp sư sắp đắc đạo, nên chỉ cần được khai ngộ là ông đắc đạo. Vì vậy, trong một đêm, ông nhớ lại tất cả những quả vị đời trước của ông, cao nhất là A-na-hàm kề cận A-la-hán. Biết rõ quá khứ của mình như vậy và nhờ lực Phật gia trì, ông liền chứng La-hán.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật độ người hốt phân làm Sa-môn liền nổi giận tìm tới coi. Khi thấy Sunita tỏa hào quang chiếu như Phật, vua sụp lạy rồi mới vô hỏi Phật có phải Ngài đã độ người hốt phân làm Sa-môn. Phật nói có ông Sunita vừa được xuất gia. Vua nói Phật cho người hạ tiện xuất gia thì làm sao hàng Sát-đế-lợi đảnh lễ được. Phật dạy rằng không có giai cấp, ai cũng có thể tu đắc đạo được. Sunita sanh trong giai cấp thấp, nhưng ông tu đắc đạo thì vua lạy được không. Đương nhiên vua không lạy người hốt phân, nhưng lạy Thánh La-hán được. Hôm qua Sunita hốt phân, nhưng hôm nay đắc La-hán thì sao.
Quý vị nên suy nghĩ điều này, độ chúng cần cân nhắc coi có đủ nhân duyên độ được không, nếu không thì ở một mình. Các Ni đừng ham đệ tử. Tôi không có đệ tử, nhưng có học trò đông và hành đạo được. Tôi nghe có thầy có cả trăm đệ tử Tỳ-kheo. Nếu chỉ là hình thức Tỳ-kheo thì đáng sợ, phải dạy được họ. Ai cũng cho xuất gia, coi chừng khổ. Người có duyên, có căn lành, mình độ, họ mới là pháp khí Đại thừa làm lợi cho đạo. Tôi mong quý vị mãn hạ, trở về bổn độ sẽ có cái nhìn sáng hơn, thấy người có căn lành và có nhân duyên thì độ họ để sau này, họ thay mình gánh vác Phật sự. Cầu Phật gia hộ cho đại chúng sống an lạc trong Chánh pháp.