- Biển số
- OF-113723
- Ngày cấp bằng
- 21/9/11
- Số km
- 410
- Động cơ
- 392,000 Mã lực
- Tuổi
- 37
Bác Hồ và vùng đất thiêng K9
Ít ai biết, Bác đã chọn một nơi để nghỉ ngơi và làm việc giữa núi rừng Sơn Tây từ năm 1957. Sau này là nơi đầu tiên lưu giữ thi hài Bác… Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ lường trước thời cuộc, đã cử ông Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc để chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến.
Còn việc chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, Người đã tính trước ít nhất là 7-8 năm.
Vùng đất thiêng
Lần đầu lên thăm Di tích K9 - Đá Chông, Ba Vì, Hà Nội.Tôi được nghe giới thiệu qua về thời gian và địa hình nơi đây.Từ thuở khai thiên lập địa tới nay, vùng núi sông Ba Vì Sơn Tây vẫn là tâm điểm địa linh của đất nước.
Sông Đà, Sông Hồng đưa “Thủy Tinh” về đây chịu khuất phục “Sơn Tinh” – Tản Viên Sơn càng bồi đắp khí thiêng non sông đời đời bền vững.
Bây giờ, cả vùng này đang trở thành khu du lịch văn hóa nghỉ ngơi lý tưởng. Chứ vào những năm 1955 – 1957, nơi đây còn hoàn toàn hoang vắng.
Bác Hồ đã đôi lần qua đây thăm, dự tập trận của mấy đơn vị quân đội. Chính trưa 19/5/1957, Bác cùng 3 người đi theo đã nghỉ lại, đem cơm nắm ra ăn tại cụm đá chông “vợ – chồng – con” : ba tảng đá nhọn to – vừa – nhỏ.
Nay cụm đá này đã được bê tông hóa, có bậc lên xuống, có chỗ thắp hương để nhớ Bác. Đây được coi là nơi đầu tiên, ngày đầu tiên Bác Hồ đi khảo sát và cắm đất xây dựng khu sơ tán mà tới tận hôm nay chúng ta mới biết: Bác sơ tán thuở sinh thời và cả khi gìn giữ thi hài của Bác. Vùng đất thiêng của đất nước đã che chở cho Bác.
Thiết kế ban đầu của Bác được giao cho Cục doanh trại Tổng cục Hậu cần thi công chỉ gồm nhà sàn – ngược lên cách cụm ba đá chông chừng 300 mét, một nhà họp và làm việc, bên dưới có hệ thống hầm ngầm kiên cố và mấy ngôi nhà cấp bốn xung quanh dành cho anh em cảnh vệ, phục vụ. Đến năm 1960, ngày càng lộ rõ, chứng minh dự báo đúng đắn của Bác về việc Mỹ sẽ lao sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cơ sở K9 được củng cố, mở rộng, nhà xây, bê tông hóa hầm ngầm.
Nhưng, vẫn giữ nguyên vị trí cũ – những nơi tự Bác tìm hướng cắm đất cho mỗi công trình. ở đây, cây cối Người dặn phải giữ lại, không được chặt phá. Ngay cửa vào ngôi nhà có phòng họp, phòng y tế đặc biệt giữ gìn thi hài của Bác sau này, bên dưới là hầm ngầm.Quanh nhà sàn Bác thiết kế rải sỏi để Bác cháu tập thể dục chân trần massage bàn chân. Sỏi còn giúp cảnh giới, đêm đêm người lạ xâm nhập sẽ gây tiếng động lạo xạo.
Trên gác hai có phòng dành riêng cho khách quốc tế đặc biệt : Mới chỉ có phi công vũ trụ Ghecman Titôv và phu nhân cố Thủ tướng Chu Ân Lai Đặng Dĩnh Siêu sang thăm nghỉ ở đây một lần.
Thường vào dịp sinh nhật Người 19/5, Bác lên đây để tránh việc chúc thọ không cần thiết, và Bác lên nhiều từ khi Người đề nghị với Bộ Chính trị bố trí để Bác vào miền Nam…
Kế hoạch tập luyện đôi chân
Từ mùa hè 1966, sau lần đi thăm Thái Bình về, Bác bị cảm, bị co thắt động mạch não, liệt nhẹ nửa người bên trái, Bác phải hết sức kiên trì tập luyện để đi lại.
Ngày ngày Bác chống gậy đi bộ từ nhà sàn sang nhà ăn bên kia ao, kiên quyết không chịu để đồng chí Cẩn phục vụ cơm nước cho Bác mang sang nhà sàn.
Khi đi lại khá hơn, Bác bắt đầu lên K9 tập leo dốc (chứ không phải tập ở núi Nùng vườn Bách Thảo như có thông tin đã nêu - ông Vũ Kỳ đề nghị cải chính).
Dốc đây là từ dưới mép nước sông Đà lên nhà sàn, dốc thoai thoải, nay đã được lát bậc bê tông. Người vẫn kiên trì luyện đôi chân để thực hiện kế hoạch đi miền Nam.
Chúng ta đều biết, nay tại Bảo tàng Hồ Chí Minh còn lưu giữ “Thư gửi chú Duẩn” đề ngày 10/3/1968. Người gợi ý : Cách đi, B sẽ làm công trên một chiếc tầu thủy.
Cùng đi có hai chú Bảo và Kỳ (bác sĩ Nhữ Thế Bảo, Vũ Kỳ). Việc này B tự thu xếp, dễ thôi… Sau đó, Bác nhắc lại đề nghị với đồng chí Lê Đức Thọ ở Bắc Kinh trên đường qua Paris tham gia cuộc hòa đàm với Mỹ : không đi tầu thủy được thì đi máy bay qua Phnôm Pênh, Bác sẵn sàng “cắt bộ râu đi để cải trang”…
Nơi sơ tán thi hài Bác
Đáp ứng nguyện vọng giữ gìn thi hài Bác lâu dài để nhân dân ta và bầu bạn khắp năm châu sau này có dịp chiêm ngưỡng, nhất là đồng bào miền Nam chưa được thấy Bác, Bộ Chính trị đã quyết định triển khai công tác ướp giữ thi hài Người.
Trong khi chờ đợi xây Lăng, bộ đội công binh được giao xây dựng một phòng y tế kỹ thuật cao đặc biệt tại Viện Quân y 108 mang mật danh 75A, rồi 75B ở hội trường Ba Đình (trong những ngày làm lễ Quốc tang).
Thế nhưng, đề phòng không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, K9 lúc này mang mật danh K84 lại được cải tạo thành cơ sở đảm bảo đầy đủ các thông số kỹ thuật khắt khe, kể cả hầm ngầm, để bí mật sơ tán thi hài Bác lên đây vào 4 giờ sáng ngày 24/12/1969.
Đến ngày 21/11/1970, máy bay Mỹ thả biệt kích xuống thị xã Sơn Tây hòng cứu thoát tù binh Mỹ, K84 bị đe dọa không an toàn.
Thi hài Bác lại được lệnh đưa trở về 75A. Tiếp tới trận lũ lụt nặng nề tháng 8/1971, K84 lại được đón Bác trở lên, Quân đội được lệnh dùng cả xe tăng và khí tài hiện đại để củng cố việc bố phòng.
Tuy nhiên, sang năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc mỗi ngày một ác liệt, một hang sâu trong núi cao cách K84 15 cây số nhanh chóng được xây dựng để đón thi hài Bác từ 21/7/1972.
Tháng 1/1973, người Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, Bác trở lại K84 để rồi, ngày 18/8/1975, sau 6 năm sơ tán hết sức khó khăn, vất vả, “Bác đã ở trong Lăng, giấc ngủ bình yên”...
Đường lên được rải sỏi .
“Có rào dâm bụt đỏ hoa quê
Như cổng nhà xưa Bác trở về”
Phòng họp của Bác Hồ và Bộ Chính Trị.
Mỏm Đá Chông (Đồi Đá Chông) Nơi Bác nghỉ chân.
“Ô hay! Núi cứ ba hòn nhỉ!
Cứ kết liền nhau đến lạ kỳ”
Hầm trú ẩn khi cần thiết.
Xe đưa thi hài Bác trong những năm tháng chiến tranh.
Ngày 23/12/1969 đoàn xe đặc biệt xuất phát từ 75A đưa Bác lên K84 yên nghỉ. Để di chuyển thi hài Bác tuyệt đối an toàn, một chiếc xe Zin 157 đã được cải tạo lại theo đúng yêu cầu. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền Nam bùi ngùi đưa tiễn Bác trong đêm đông giá lạnh. Nhiều người đưa tiễn Bác ngày ấy còn nhớ như in, đó là vào một đêm gió mùa đông bắc tràn về giật từng cơn trên các lùm cây hai bên đường. Nhưng đoàn xe vẫn lặng lẽ vượt qua thị trấn, bò xuống các cây cầu, trườn lên trên bờ đê của chặng đường dài hơn 70 km, để đưa Bác đến nơi yên nghỉ an toàn .
Sau một năm Bác yên nghỉ tại đây, cuối tháng 11/1970, trước diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc, đặc biệt là vụ biệt kích Mỹ nhảy dù xuống Sơn Tây hòng giải vây trại giam tù binh Mỹ, Bộ Chính trị quyết định đưa Bác trở về khu 75A. Đúng 22 giờ ngày 3/12/1970 đoàn xe lại lặng lẽ rời K84 di chuyển Bác về Hà Nội.
Vào mùa thu năm 1971, Mỹ đã sử dụng 277 lượt chiếc máy bay rải 8.312 đơn vị hóa chất xuống vùng trời Hà Nội và các vùng rừng núi thuộc lưu vực sông Hồng và sông Đà, tạo ra những đám mây lạnh xúc tác trong không khí gây ra những trận mưa dữ dội làm Hà Nội và các vùng lân cận ngập chìm trong biển nước.
Trước tình hình đó, ngày 18/8 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lại quyết định chuyển Bác về khu căn cứ K84 trong mưa giông. Vì không thể chờ nước rút, thay vì sử dụng chiếc xe Zin 157 đã từng di chuyến Bác trong những lần trước đó, một chiếc xe Páp (xe lội nước) đã được thiết kế lại để đảm nhận nhiệm vụ này. Cùng với chiếc xe Páp còn có 3 chiếc xe bọc thép có trang bị pháo ĐKZ84 và 3 khẩu đội pháo 14,5 ly đi hộ tống, đề phòng máy bay địch phát hiện được cuộc hành quân đầy cam go này của ta. Bởi những lần trước thi hài Bác được di chuyển vào ban đêm, còn lần này di chuyển giữa ban ngày.
Đến mùa hè năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn khốc liệt nhất ở các chiến trường Quảng Trị, Khu V, Tây Nguyên, Bình Long, Phước Long,...Đề phòng chính quyền Ních Xơn có thể liều lĩnh đánh phá thủ đô Hà Nội và các vùng phụ cận, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lại quyết định di chuyển thi hài Bác đến Khu hang K2, phía tả ngạn sông Đà thuộc địa phận huyện Hưng Hòa, tỉnh Phú Thọ. Vậy là chiếc xe Páp lại một lần nữa được giao đảm đương nhiệm vụ này. Đúng 21 giờ ngày 11/7/1972 đoàn xe xuất phát từ Khu K84 tiến sang Khu K2.
Do điều kiện rừng núi hiểm trở đi lại khó khăn, đời sống người dân còn nhiều vất vả, lại thiếu nhiều tiện nghi phục vụ việc bảo quản thi hài Bác, cũng như nơi ăn ở cho các chuyên gia Liên Xô, đêm ngày mồng 4 Tết năm 1973 đoàn xe cập bến Khu hang đá K2 để di chuyển Bác về Khu K84. Dòng sông Đà mùa xuân nước chảy êm đềm, trong vắt. Hai bên bờ sông phủ một lớp sương mù mỏng như chiếc khăn voan khổng lồ, tạo nên cảm giác mờ ảo lạ thường như trong truyện cổ tích. Đoàn người và xe lặng lẽ vượt từ tả ngạn sang hữu ngạn sông Đà.
Và đúng 16 giờ ngày 18/7/1975, đoàn xe đặc biệt chở thi hài Bác được lệnh xuất phát rời khu căn cứ K84 tiến về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấm dứt thời kỳ “bôn ba” của Bác sau 6 năm Người đi xa.
Vậy là, sau khi Bác vĩnh biệt chúng ta, từ năm 1969- 1975, Người vẫn còn “bôn ba” nhiều lần, qua 3 địa điểm bí mật khác nhau trước khi trở về Quảng trường Ba Đình lịch sử. Mỗi lần như vậy cũng là một trận chiến đấu đầy cam go để giữ yên giấc ngủ cho Người của nhiều đơn vị, sĩ quan và chiến sĩ trong toàn quân.
Khu nhà ăn và tiếp khách.
Chiếc xe 470-189 chở thi hài Bác trên đường bộ từ Hà Nội về đêm 23-12
Chiếc Uoat sau khi Bác mất đã đến nhà 67 chở thi hài Bác vào Quân y viện 108 để làm thuốc trước khi đưa Bác lên Đồi Đá Chông.
Chiếc Zil 31-162 là xe lội nước chở thi hài Bác vượt dọc sông Đà sơ tán vào hang sâu trong núi năm 1972,khi đế quốc Mỹ bắn phá ác liệt Miền Bắc.
Ít ai biết, Bác đã chọn một nơi để nghỉ ngơi và làm việc giữa núi rừng Sơn Tây từ năm 1957. Sau này là nơi đầu tiên lưu giữ thi hài Bác… Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ lường trước thời cuộc, đã cử ông Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc để chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến.
Còn việc chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, Người đã tính trước ít nhất là 7-8 năm.
Lần đầu lên thăm Di tích K9 - Đá Chông, Ba Vì, Hà Nội.Tôi được nghe giới thiệu qua về thời gian và địa hình nơi đây.Từ thuở khai thiên lập địa tới nay, vùng núi sông Ba Vì Sơn Tây vẫn là tâm điểm địa linh của đất nước.
Sông Đà, Sông Hồng đưa “Thủy Tinh” về đây chịu khuất phục “Sơn Tinh” – Tản Viên Sơn càng bồi đắp khí thiêng non sông đời đời bền vững.
Bây giờ, cả vùng này đang trở thành khu du lịch văn hóa nghỉ ngơi lý tưởng. Chứ vào những năm 1955 – 1957, nơi đây còn hoàn toàn hoang vắng.
Bác Hồ đã đôi lần qua đây thăm, dự tập trận của mấy đơn vị quân đội. Chính trưa 19/5/1957, Bác cùng 3 người đi theo đã nghỉ lại, đem cơm nắm ra ăn tại cụm đá chông “vợ – chồng – con” : ba tảng đá nhọn to – vừa – nhỏ.
Nay cụm đá này đã được bê tông hóa, có bậc lên xuống, có chỗ thắp hương để nhớ Bác. Đây được coi là nơi đầu tiên, ngày đầu tiên Bác Hồ đi khảo sát và cắm đất xây dựng khu sơ tán mà tới tận hôm nay chúng ta mới biết: Bác sơ tán thuở sinh thời và cả khi gìn giữ thi hài của Bác. Vùng đất thiêng của đất nước đã che chở cho Bác.
Thiết kế ban đầu của Bác được giao cho Cục doanh trại Tổng cục Hậu cần thi công chỉ gồm nhà sàn – ngược lên cách cụm ba đá chông chừng 300 mét, một nhà họp và làm việc, bên dưới có hệ thống hầm ngầm kiên cố và mấy ngôi nhà cấp bốn xung quanh dành cho anh em cảnh vệ, phục vụ. Đến năm 1960, ngày càng lộ rõ, chứng minh dự báo đúng đắn của Bác về việc Mỹ sẽ lao sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cơ sở K9 được củng cố, mở rộng, nhà xây, bê tông hóa hầm ngầm.
Nhưng, vẫn giữ nguyên vị trí cũ – những nơi tự Bác tìm hướng cắm đất cho mỗi công trình. ở đây, cây cối Người dặn phải giữ lại, không được chặt phá. Ngay cửa vào ngôi nhà có phòng họp, phòng y tế đặc biệt giữ gìn thi hài của Bác sau này, bên dưới là hầm ngầm.Quanh nhà sàn Bác thiết kế rải sỏi để Bác cháu tập thể dục chân trần massage bàn chân. Sỏi còn giúp cảnh giới, đêm đêm người lạ xâm nhập sẽ gây tiếng động lạo xạo.
Trên gác hai có phòng dành riêng cho khách quốc tế đặc biệt : Mới chỉ có phi công vũ trụ Ghecman Titôv và phu nhân cố Thủ tướng Chu Ân Lai Đặng Dĩnh Siêu sang thăm nghỉ ở đây một lần.
Thường vào dịp sinh nhật Người 19/5, Bác lên đây để tránh việc chúc thọ không cần thiết, và Bác lên nhiều từ khi Người đề nghị với Bộ Chính trị bố trí để Bác vào miền Nam…
Kế hoạch tập luyện đôi chân
Từ mùa hè 1966, sau lần đi thăm Thái Bình về, Bác bị cảm, bị co thắt động mạch não, liệt nhẹ nửa người bên trái, Bác phải hết sức kiên trì tập luyện để đi lại.
Ngày ngày Bác chống gậy đi bộ từ nhà sàn sang nhà ăn bên kia ao, kiên quyết không chịu để đồng chí Cẩn phục vụ cơm nước cho Bác mang sang nhà sàn.
Khi đi lại khá hơn, Bác bắt đầu lên K9 tập leo dốc (chứ không phải tập ở núi Nùng vườn Bách Thảo như có thông tin đã nêu - ông Vũ Kỳ đề nghị cải chính).
Dốc đây là từ dưới mép nước sông Đà lên nhà sàn, dốc thoai thoải, nay đã được lát bậc bê tông. Người vẫn kiên trì luyện đôi chân để thực hiện kế hoạch đi miền Nam.
Chúng ta đều biết, nay tại Bảo tàng Hồ Chí Minh còn lưu giữ “Thư gửi chú Duẩn” đề ngày 10/3/1968. Người gợi ý : Cách đi, B sẽ làm công trên một chiếc tầu thủy.
Cùng đi có hai chú Bảo và Kỳ (bác sĩ Nhữ Thế Bảo, Vũ Kỳ). Việc này B tự thu xếp, dễ thôi… Sau đó, Bác nhắc lại đề nghị với đồng chí Lê Đức Thọ ở Bắc Kinh trên đường qua Paris tham gia cuộc hòa đàm với Mỹ : không đi tầu thủy được thì đi máy bay qua Phnôm Pênh, Bác sẵn sàng “cắt bộ râu đi để cải trang”…
Nơi sơ tán thi hài Bác
Đáp ứng nguyện vọng giữ gìn thi hài Bác lâu dài để nhân dân ta và bầu bạn khắp năm châu sau này có dịp chiêm ngưỡng, nhất là đồng bào miền Nam chưa được thấy Bác, Bộ Chính trị đã quyết định triển khai công tác ướp giữ thi hài Người.
Trong khi chờ đợi xây Lăng, bộ đội công binh được giao xây dựng một phòng y tế kỹ thuật cao đặc biệt tại Viện Quân y 108 mang mật danh 75A, rồi 75B ở hội trường Ba Đình (trong những ngày làm lễ Quốc tang).
Thế nhưng, đề phòng không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, K9 lúc này mang mật danh K84 lại được cải tạo thành cơ sở đảm bảo đầy đủ các thông số kỹ thuật khắt khe, kể cả hầm ngầm, để bí mật sơ tán thi hài Bác lên đây vào 4 giờ sáng ngày 24/12/1969.
Đến ngày 21/11/1970, máy bay Mỹ thả biệt kích xuống thị xã Sơn Tây hòng cứu thoát tù binh Mỹ, K84 bị đe dọa không an toàn.
Thi hài Bác lại được lệnh đưa trở về 75A. Tiếp tới trận lũ lụt nặng nề tháng 8/1971, K84 lại được đón Bác trở lên, Quân đội được lệnh dùng cả xe tăng và khí tài hiện đại để củng cố việc bố phòng.
Tuy nhiên, sang năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc mỗi ngày một ác liệt, một hang sâu trong núi cao cách K84 15 cây số nhanh chóng được xây dựng để đón thi hài Bác từ 21/7/1972.
Tháng 1/1973, người Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, Bác trở lại K84 để rồi, ngày 18/8/1975, sau 6 năm sơ tán hết sức khó khăn, vất vả, “Bác đã ở trong Lăng, giấc ngủ bình yên”...
“Có rào dâm bụt đỏ hoa quê
Như cổng nhà xưa Bác trở về”
Phòng họp của Bác Hồ và Bộ Chính Trị.
Mỏm Đá Chông (Đồi Đá Chông) Nơi Bác nghỉ chân.
“Ô hay! Núi cứ ba hòn nhỉ!
Cứ kết liền nhau đến lạ kỳ”
Hầm trú ẩn khi cần thiết.
Xe đưa thi hài Bác trong những năm tháng chiến tranh.
Ngày 23/12/1969 đoàn xe đặc biệt xuất phát từ 75A đưa Bác lên K84 yên nghỉ. Để di chuyển thi hài Bác tuyệt đối an toàn, một chiếc xe Zin 157 đã được cải tạo lại theo đúng yêu cầu. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền Nam bùi ngùi đưa tiễn Bác trong đêm đông giá lạnh. Nhiều người đưa tiễn Bác ngày ấy còn nhớ như in, đó là vào một đêm gió mùa đông bắc tràn về giật từng cơn trên các lùm cây hai bên đường. Nhưng đoàn xe vẫn lặng lẽ vượt qua thị trấn, bò xuống các cây cầu, trườn lên trên bờ đê của chặng đường dài hơn 70 km, để đưa Bác đến nơi yên nghỉ an toàn .
Sau một năm Bác yên nghỉ tại đây, cuối tháng 11/1970, trước diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc, đặc biệt là vụ biệt kích Mỹ nhảy dù xuống Sơn Tây hòng giải vây trại giam tù binh Mỹ, Bộ Chính trị quyết định đưa Bác trở về khu 75A. Đúng 22 giờ ngày 3/12/1970 đoàn xe lại lặng lẽ rời K84 di chuyển Bác về Hà Nội.
Vào mùa thu năm 1971, Mỹ đã sử dụng 277 lượt chiếc máy bay rải 8.312 đơn vị hóa chất xuống vùng trời Hà Nội và các vùng rừng núi thuộc lưu vực sông Hồng và sông Đà, tạo ra những đám mây lạnh xúc tác trong không khí gây ra những trận mưa dữ dội làm Hà Nội và các vùng lân cận ngập chìm trong biển nước.
Trước tình hình đó, ngày 18/8 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lại quyết định chuyển Bác về khu căn cứ K84 trong mưa giông. Vì không thể chờ nước rút, thay vì sử dụng chiếc xe Zin 157 đã từng di chuyến Bác trong những lần trước đó, một chiếc xe Páp (xe lội nước) đã được thiết kế lại để đảm nhận nhiệm vụ này. Cùng với chiếc xe Páp còn có 3 chiếc xe bọc thép có trang bị pháo ĐKZ84 và 3 khẩu đội pháo 14,5 ly đi hộ tống, đề phòng máy bay địch phát hiện được cuộc hành quân đầy cam go này của ta. Bởi những lần trước thi hài Bác được di chuyển vào ban đêm, còn lần này di chuyển giữa ban ngày.
Đến mùa hè năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn khốc liệt nhất ở các chiến trường Quảng Trị, Khu V, Tây Nguyên, Bình Long, Phước Long,...Đề phòng chính quyền Ních Xơn có thể liều lĩnh đánh phá thủ đô Hà Nội và các vùng phụ cận, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lại quyết định di chuyển thi hài Bác đến Khu hang K2, phía tả ngạn sông Đà thuộc địa phận huyện Hưng Hòa, tỉnh Phú Thọ. Vậy là chiếc xe Páp lại một lần nữa được giao đảm đương nhiệm vụ này. Đúng 21 giờ ngày 11/7/1972 đoàn xe xuất phát từ Khu K84 tiến sang Khu K2.
Do điều kiện rừng núi hiểm trở đi lại khó khăn, đời sống người dân còn nhiều vất vả, lại thiếu nhiều tiện nghi phục vụ việc bảo quản thi hài Bác, cũng như nơi ăn ở cho các chuyên gia Liên Xô, đêm ngày mồng 4 Tết năm 1973 đoàn xe cập bến Khu hang đá K2 để di chuyển Bác về Khu K84. Dòng sông Đà mùa xuân nước chảy êm đềm, trong vắt. Hai bên bờ sông phủ một lớp sương mù mỏng như chiếc khăn voan khổng lồ, tạo nên cảm giác mờ ảo lạ thường như trong truyện cổ tích. Đoàn người và xe lặng lẽ vượt từ tả ngạn sang hữu ngạn sông Đà.
Và đúng 16 giờ ngày 18/7/1975, đoàn xe đặc biệt chở thi hài Bác được lệnh xuất phát rời khu căn cứ K84 tiến về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấm dứt thời kỳ “bôn ba” của Bác sau 6 năm Người đi xa.
Vậy là, sau khi Bác vĩnh biệt chúng ta, từ năm 1969- 1975, Người vẫn còn “bôn ba” nhiều lần, qua 3 địa điểm bí mật khác nhau trước khi trở về Quảng trường Ba Đình lịch sử. Mỗi lần như vậy cũng là một trận chiến đấu đầy cam go để giữ yên giấc ngủ cho Người của nhiều đơn vị, sĩ quan và chiến sĩ trong toàn quân.
Khu nhà ăn và tiếp khách.
Chiếc xe 470-189 chở thi hài Bác trên đường bộ từ Hà Nội về đêm 23-12
Chiếc Uoat sau khi Bác mất đã đến nhà 67 chở thi hài Bác vào Quân y viện 108 để làm thuốc trước khi đưa Bác lên Đồi Đá Chông.
Chiếc Zil 31-162 là xe lội nước chở thi hài Bác vượt dọc sông Đà sơ tán vào hang sâu trong núi năm 1972,khi đế quốc Mỹ bắn phá ác liệt Miền Bắc.
Chỉnh sửa cuối: