Đọc bài bạn viết tôi cảm nhận dân tộc do thái vĩ đại . Là dân tộc bị xua đuổi ,kỳ thị từ bờ từ bờ tây họ bị lực lượng hồi giáo áp bức phải trôi dạt xang châu âu ở đâu họ cũng là cộng đông phát triển có bản sắc riêng của mình
Hãy ngược lại dòng lịch sử chúng ta thấy trước đây Dân tộc Do Thái bắt đầu định cư ở vùng đất Israel ngày nay từ khoảng 1800 năm TCN, sau đó di cư sang Ai Cập trong 1 thời gian. Đến khoảng 1255 TCN, nhà tiên tri
Moses dẫn dắt dân tộc Do Thái trở về đất nước Israel. Trong thời gian sau đó, người Israel liên tục phải chiến đấu chống lại quân du mục
Philistine khi bộ tộc này bị đuổi khỏi quê hương của họ là
đảo Crete.
Cái tên
Israel có lẽ lúc ban đầu được nhắc tới để chỉ một nhóm dân tộc chứ không phải một địa điểm, nhóm dân đó là người
Merneptah Stele Ai Cập từ khoảng năm
1210 TCN[5]. Trong hơn 3.000 năm,
người Do Thái đã coi
Vùng đất Israel là quê hương của họ, nó vừa là
Đất thánh và là miền
Đất hứa. Vùng đất Israel là vùng đất thiêng liêng đối với người Do Thái, gồm chứa những vị trí quan trọng nhất của
Do Thái giáo - gồm cả những phần còn sót lại của
Đền thứ nhất và
Đền thứ hai, cũng như những nghi thức liên quan tới các đền đó
[6]. Bắt đầu từ khoảng năm
1200, một loạt
vương quốc và quốc gia Do Thái đã tồn tại liên tục trong vùng trong hơn một
thiên niên kỷ. Vào năm 1028 TCN, Saoul, một quý tộc quân sự được các bộ tộc Hebrew tôn làm vua. Triều vua David (1012 - 972 TCN).
Dưới thời cai trị của
Babylonia,
Ba Tư Achaemenes,
Hy Lạp,
La Mã,
Đông La Mã và (một thời gian ngắn)
Ba Tư Sassanid, sự hiện diện của người Do Thái trong vùng bị thu hẹp vì các đế chế này đã trục xuất người Do Thái hàng loạt. Đặc biệt, thất bại của cuộc
khởi nghĩa Bar Kochba chống lại
Đế quốc La Mã đã dẫn tới sự
trục xuất hàng loạt người Do Thái ở quy mô lớn. Chính trong giai đoạn này, người La Mã đã đặt tên
Syria Palaestina cho mảnh đất này để cố gắng xoá bỏ các mối liên hệ của người Do Thái với nó.
Mishnah và
Jerusalem Talmud, hai bản kinh tôn giáo quý giá nhất của Do Thái giáo, đã được viết ra ở vùng này và cũng trong giai đoạn này. Những người
Hồi giáo chinh phục vùng đất từ tay
Đế chế Byzantine năm
638. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều quốc gia Hồi giáo (chỉ bị ngắt quãng ở thời
Thập tự chinh) trước khi trở thành đất thuộc
Đế quốc Ottoman của người
Thổ Nhĩ Kỳ năm
1517.
Làn sóng di cư cận đại đầu tiên của người Do Thái tới Israel, hay
Aliyah bắt đầu năm
1881 khi họ trốn chạy khỏi sự ngược đãi, hay đi theo những tư tưởng
xã hội Zion của
Moses Hess và những người khác về "sự cứu rỗi của đất đai". Những người Do Thái mua đất đai từ Ottoman và những chủ đất người Ả Rập khác. Sau khi người Do Thái đã lập nên những khu định cư nông nghiệp, căng thẳng nảy sinh giữa người Do Thái và người Ả Rập.
Theodor Herzl (1860–1904), một người Do Thái đến từ
Áo, đã lập ra
Phong trào Zion. Năm
1896, ông xuất bản cuốn
Der Judenstaat (Quốc gia Do Thái), trong đó kêu gọi thành lập một nhà nước Do Thái. Năm sau đó, ông góp phần triệu tập
Hội nghị Zion quốc tế đầu tiên.
Sự thành lập chủ nghĩa phục quốc Do Thái dẫn tới
Aliyah thứ hai (1904–1914) với số người Do Thái lên tới khoảng 40.000. Năm
1917, Bộ trưởng ngoại giao Anh
Arthur J. Balfour đưa ra
Tuyên bố Balfour "ủng hộ việc thành lập tại vùng đất Do Thái cũ đã bị người Palestine chiếm một nhà nước quê hương cho những người dân Do Thái". Năm
1920, vùng này được giao cho
Hội Quốc Liên và được quản lý bởi Anh.
Làn sóng di cư của người Do Thái lại tiếp tục
lần thứ ba (1919–1923) và
lần thứ tư (1924–1929) sau
Thế chiến thứ nhất.
Những cuộc bạo động ở Palestine năm 1929 của người Ả Rập đã giết chết 133 người Do Thái, gồm 67 người ở
Hebron.
Sự trỗi dậy của
Chủ nghĩa Phát xít năm
1933 dẫn tới làn sóng
Aliyah thứ năm. Người Do Thái trong vùng tăng từ 11% của dân số năm 1922 lên tới 30% năm 1940. Việc
tàn sát người Do Thái có tính chất diệt chủng ở
châu Âu của
Adolf Hitler khiến người dân Do Thái ở mọi miền châu Âu trốn chạy tạo nên làn sóng tỵ nạn mới. Tới cuối
Thế chiến thứ hai, số lượng người Do Thái ở Palestine đã lên tới xấp xỉ 600.000.
Năm
1939, Anh đưa ra
Sách trắng năm 1939, hạn chế sự tỵ nạn của người Do Thái trong thời gian diễn ra chiến tranh là 75.000 và hạn chế không cho người Do Thái mua nhiều đất, có lẽ nguyên nhân do có cuộc
Khởi nghĩa Ả Rập vĩ đại (1936-1939). Cuốn sách trắng này bị cộng đồng Do Thái và những người theo chủ nghĩa phục quốc coi là phản bội, họ cho rằng nó trái ngược với
Tuyên bố Balfour năm 1917. Người Ả Rập cũng không hoàn toàn hài lòng, họ muốn cuộc di cư của người Do Thái phải dừng lại vĩnh viễn. Tuy nhiên, chính sách của Anh vẫn bám chặt vào cuốn sách này cho tới tận cuối thời kỳ uỷ trị của họ.
Năm
1947, khi xung đột vũ trang ngày càng gia tăng với các nhóm quân sự Do Thái và những nỗ lực hoà giải không thành công giữa người Do Thái và người Ả Rập, chính phủ Anh quyết định rút khỏi
Lãnh thổ ủy trị Palestine của Hội Quốc Liên.
Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua
Kế hoạch phân chia năm 1947 của Liên hiệp quốc chia lãnh thổ đó làm hai quốc gia, với vùng Do Thái chiếm khoảng 55% diện tích và vùng Ả Rập khoảng 45%. Theo kế hoạch,
Jerusalem sẽ trở thành một vùng do
Liên hiệp quốc quản lý để tránh xung đột về trạng thái của nó.
Ngay sau khi kế hoạch phân chia của Đại hội đồng Liên hiệp quốc được thông qua ngày
29 tháng 10 năm
1947,
David Ben-Gurion chưa dứt khoát chấp nhận nó, trong khi
Liên đoàn Ả Rập từ chối nó. Nhiều cuộc tấn công của người Ả Rập vào dân cư Do Thái nhanh chóng biến thành xung đột khắp nơi giữa người Ả Rập và người Do Thái, các xung đột này là giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh giành độc lập năm 1948.
Ngày
14 tháng 5 năm
1948, trước khi hết thời hạn uỷ trị của Anh tại Palestine vào lúc
nửa đêm ngày
15 tháng 5 năm 1948, nhà nước Israel được tuyên bố thành lập.
Dân tộc do thái như vậy đấy chỉ vì có trí tuệ vĩ đại ở đâu họ cũng bị kỳ thị