Trông mấy cái tầu của chú Ỉn sang thăm Vịt ta bẩn bẩn thế nào ý nhỉ, chả khác mấy loại petya và Gepard cả, thế này đấu sao nổi chú tầu đây, chắc định bán tống đồ cũ cho ta đây mà, đểu thật.
'Thăm' 2 chiến hạm Ấn Độ vừa cập cảng Hải Phòng
Hôm 30/5, hai tàu hải quân INS Ranjit và INS Kulish của Ấn Độ đã cập cảng thăm hữu nghị thành phố Hải Phòng. Thủy thủ đoàn của hai tàu sẽ giao lưu với bộ đội hải quân Việt Nam.
Trong hải quân Ấn Độ hiện tại, hai tàu này đều đóng vai trò chống hạm, chống ngầm và phòng không.
Sau đây là một số thông tin kĩ thuật về hai chiến hạm này:
Khu trục hạm INS Ranjit (D53)
INS Ranjit là khu trục hạm mang tên lửa có điều khiển thuộc lớp Rajut - là phiên bản cải tiến từ tàu khu trục lớp Kashin của hải quân Liên Xô.
Tổng cộng có năm tàu lớp Rajut ra đời (D51 Rajut, D52 Rana, D53 Ranjit, D54 Ranvir và D55 Ranvirjay), INS Ranjit là chiếc thứ ba đưa vào biên chế trong hải quân Ấn Độ ngày 24/11/1983. Chúng được dùng để thay thế các tàu săn ngầm lớp Petya của nước này thời điểm đó.
Khu trục hạm mang tên lửa có điều khiển INS Ranjit (D53). INS Ranjit có lượng choán nước 4.974 tấn, chiều dài 174 mét. Toàn bộ thủy thủ đoàn trên tàu lên tới 320 người, trong đó có 35 sĩ quan chỉ huy.
Đối với các loại ra đa trên tàu INS Ranjit bao gồm: hai ra đa định vị Volga; một ra đa tìm kiếm trên không Bharat RAWL thay thế cho loại MP-500 trên các tàu khác thuộc lớp Rajut; ra đa tìm kiếm trên không – trên biển MR 310U “Angara” (tầm hoạt động 128km). Riêng ra đa điều khiển hỏa lực thì tùy từng loại vũ khí sẽ có ra đa tương ứng kết hợp.
Lớp Rajut được thiết kế chung để thực hiện các nhiệm vụ phòng không, chống hạm, săn ngầm. Trong quá trình hiện đại hóa về sau, các tàu Rajut mang các đặc tính vũ khí khác nhau.
Trong đó, khu trục INS Ranjit (D53) vũ trang:
- Bốn tên lửa đối hạm P-20D (SS-N-2D Styx), dẫn đường tầm nhiệt, vận tốc cận âm Mach 0,9, tầm bắn 100km mang đầu đạn 513kg. Đây là loại tên lửa đã cũ được Liên Xô chế tạo từ những năm 1960, mặc dù Ấn Độ đang sử dụng một trong những phiên bản cải tiến mới nhất của loại này nhưng nó vẫn hạn chế về tầm bắn và độ chính xác.
Lớp Rajut là chiến hạm đầu tiên của Ấn Độ được trang bị tên lửa hành trình siêu âm Bhramos. Tuy nhiên, chỉ có ba tàu lớp này được lắp đặt Bhramos riêng INS Ranjit và INS Rana vẫn sử dụng tên lửa P-20M.
Hình ảnh tên lửa P-20M (SS-N-2D) phóng đi từ chiến hạm lớp Rajut. - Pháo hạm Ak-176M kết hợp ra đa điều khiển MR-105 Turel. Pháo hạm có tầm bắn 15km dùng để tiêu diệt các mục tiêu cỡ nhỏ trên biển.
- Tổ hợp pháo phòng thủ tầm cực gần Ak-630M (không rõ kết hợp ra đa nào), tầm bắn 4.000 – 5.000m, tốc độ bắn 5.000 viên/phút.
- Tên lửa hải đối không S-125M (SA-N-1) kết hợp ra đa điều khiển hỏa lực Parus, tên lửa S-125M có tầm bắn 31,5km, mang đầu đạn 60kg.
Tên lửa hải đối không S-125M. - Máy phóng ngư lôi PTA 533 533mm dùng để bắn ngư lôi chống ngầm loại SET-65E (tầm bắn 15km, tốc độ 40 hải lý/giờ) và ngư lôi chống ngầm Type 53-65 (tầm bắn 19km, tốc độ 45 hải lý/giờ).
- Ngoài ra, còn có vũ khí chống ngầm truyền thống của Liên Xô gồm hai giàn phóng rocket chống ngầm RBU-6000 với 12 ống phóng, tầm bắn 6.000m và tiêu diệt tàu ngầm ở độ sâu tối đa 500m.
- INS Ranjit mang được một trực thăng chống ngầm Ka-28 hoặc HAL Chetak (Ấn Độ tự sản xuất).
Rocket chống ngầm RBU-6000 phóng đi từ một trong những chiếc tàu thuộc lớp Rajut.
Trực thăng săn ngầm Ka-28 chuẩn bị hạ cánh trên khu trục hạm thuộc lớp Rajut. INS Ranjit trang bị bốn động cơ tuốc bin khí (70.000 mã lực) cho phép đạt tốc độ 35 hải lý/giờ và tầm hoạt động khoảng 6.500km nếu chạy với tốc độ 18 hải lý/giờ.
Nhìn chung, INS Ranjit trang bị nhiều thế hệ vũ khí cũ, độ chính xác kém. Do được chế tạo khá lâu nên khả năng tự động hóa trên tàu không cao, số lượng thủy thủ đoàn quá đông.
Các hoạt động gần đây nhất của INS Ranjit là có chuyến viếng thăm tới Myanmar (năm 2005) và căn cứ hải quân Thanh Đảo, Trung Quốc (năm 2007).
Tàu hộ tống INS Kulish (P63)
INS Kulish là tàu hộ tống thuộc lớp Kora (Type 25A) được sử dụng để thay thế các tàu hộ tống lớp Petya II trong hải quân Ấn Độ.
INS Kulish là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc lớp Kora đang biên chế, Kulish hạ thủy vào tháng 8/1997 và đưa vào trang bị chính thức tháng 8/2001.
Tàu hộ tống INS Kulish (P63). Lượng choán nước INS Kulish 1.350 tấn, chiều dài 91,1m. Thủy thủ đoàn trên tàu gồm 119 người trong đó có 9 sĩ quan chỉ huy.
Các hệ thống điện tử trên tàu Kulish có ra đa tìm kiếm trên không MR 352 Poritiv-E (tầm hoạt động 130km), ra đa định vị Bharat 1245, hệ thống truyền dữ liệu chiến đấu IPN-10.
Được thiết kế để thực hiện vai trò chủ yếu tiêu diệt kẻ địch trên biển, INS Kulish vũ trang 16 tên lửa Kh-35 Uran (hay còn gọi là 3M-24E hoặc SS-N-25) được chia ra bốn cụm ống phóng KT-184. Tên lửa dẫn đường bằng ra đa chủ động, tầm bắn 130km mang đầu đạn nặng 145kg.
Các cụm ống phóng tên lửa Uran bố trí đặt sau tháp pháo 76mm.
Cận cảnh tên lửa Uran rời bệ phóng. Tổ hợp tên lửa Uran kết hợp với ra đa điều khiển hỏa lực Garpun-Bal. Ra đa này kết hợp hoạt động trên hai kênh chủ động và bị động. Trong chế độ kênh chủ động nó phát hiện được 150 mục tiêu ở cự lý 35 – 45km.
Ở kênh bị động, hoạt động trong chế độ tìm kiếm tín hiệu xung, CW và nhận diện chính xác nguồn phát ra tín hiệu nhờ được xây dựng “thư viện” 1.000 tín hiệu. Tầm hoạt động tối đa trên kênh bị động là 100km nhưng phụ thuộc vào băng tần.
Kulish trang bị vũ khí phòng không nhẹ gồm tổ hợp pháo phòng thủ tầm cực gần (CIWS) AK-630 và tên lửa đối không tầm ngắn Strela-2M (SA-N-5). Tuy nhiên, có một vài nguồn tin nói rằng INS Kulish sử dụng loại tên lửa Igla (SA-16).
Cuối cùng, Kulish được lắp một pháo hạm bắn nhanh Otobreda 76mm (tốc độ bắn 120 viên/phút). Otobreda 76mm và Ak-630 đều được điều khiển bởi radar Lynx GFCS.
Boong tàu phía sau bố trí một chỗ cất hạ cánh cho trực thăng HAL Chetak.
Động lực của tàu là hai động cơ diesel 14.400 mã lực, đạt tốc độ tối đa 25 hải lý/giờ, tầm hoạt động khoảng 6.500km nếu chạy tốc độ 16 hải lý/giờ.