Theo sách "Phủ biên tạp lục" của cụ Lê Quí Đôn - năm 1776, trang 39 có đoạn sau ghi về Hoàng Sa:
"Thăng-hoa, Điện-bàn 2 phủ có ba xứ Phường-tây, Thu-bồn và Vậc-lằn đều là đại đồng
điền. Ở phủ Quảng-nghĩa, xã Phú-xuân thuộc huyện Bình-sơn, xã Phúc-khang thuộc huyện
Chương-nghĩa đều gần sông, nước lành đất tốt, đồng điền rộng và bằng phẳng, cũng có nơi
ruộng cao, mỗi hạng ruộng có đến vài nghìn mẫu, gọi là "Tiểu Đồng-nai". Trước kia họ
Nguyễn lập ra 72 trại, chiêu tập dân ở núi và các khách hộ làm ruộng, đuợc nhiều thóc lắm.
Xã Vĩnh-an thuộc huyện Bình-sơn, phủ Quảng-nghĩa ở gần bể, ngoài bể về phía đông bắc
có hải đảo, linh tinh đến hơn một trăm ba mươi ngọn cách nhau hoặc một ngày đường hoặc
vài trống canh, trên núi có chỗ có suối ngọt, trong đảo có bải Cát-vàng (Hoàng-sa-chử), dài
hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi, nước trong suốt đến đáy. Bên đảo có vô số tổ chim yến,
các loại chim đến hàng nghìn hàng vạn trông thấy người cứ đậu vòng quanh không bay. Bên
bãi cát rất nhiều vật lạ, có thứ ốc có vằn, gọi tên là ốc tai voi, to như cái chiếu, bụng nó có
hột to như ngón tay, sắc nó không được trong như ngọc con trai, vỏ nó có thể chẻ ra từng
phiến và làm vôi trát vách cũng có thứ gọi là ốc xà cừ có thể làm đồ vật. Có thứ ốc hương,
thịt ốc đều có thể ướp và nấu ăn. Loài đồi mồi rất to, có thứ gọi là Hải-ba tục gọi là tráng
bông như đồi mồi, nhưng nhỏ, vỏ nó mỏng, có thể làm đồ vật, trứng nó giống như đầu ngón
tay cái, ướp ăn được. Có thứ gọi là hải sâm, tục gọi là đột đột, thường lặn ở bãi cát, nguời ta
nhặt lấy nó rồi lấy vôi bóp rửa cho sạch, vứt cái ruột đi, đem phơi khô, khi ăn lấy nước cua
đồng rửa cho sạch, cùng nấu với tôm, hay thịt lợn đều ngon. Tàu thuyền của các nơi khi gặp
gió bão thuờng nương tựa vào đảo ấy.
Truớc kia họ Nguyễn đặt đội Hoàng-sa 70 xuất, lấy nguời ở Vĩnh-an điền vào chân ấy, thay
phiên cứ hằng năm tháng ba nhận giấy hành sai, phải mang lương 6 tháng, đem 5 chiếc
thuyền câu nhỏ ra bể ba ngày ba đêm mới đến hải đảo, ở lại đấy tùy ý tìm kiếm, bắt chim,
cá làm đồ ăn, các thứ kiếm được tảo vật, các vật ở tàu đi bể bị đắm mà trôi ra như bạc,
đồng, thiếc, đồ sứ, ngà voi, gươm, súng, sáp ong cùng đồi mồi, hải ba, hải sâm, văn loa lạp
rất nhiều. Đến tháng tám là kỳ hẹn được về, vào cửa Eo (Yêu-môn) đến thành Phú-xuân đệ
nạp. Sau khi đã được khám nghiệm, cân xong và định hạng rồi, mới cho phép bán riêng các
vật như văn loa, hải ba, hải sâm và cấp giấy cho về, cũng có người không kiếm đuợc gì,
cũng có người được ít, được nhiều không nhất định. Xét ở sổ biên của cựu cai đội đức hầu :
năm giáp ngọ nhặt được bạc 30 hốt, năm giáp thân được thiếc 5.100 cân, năm ất dậu được
bạc 126 hốt, có nhiều năm được đồi mồi, hải ba và súng đồng, khối thiếc ít nhiều.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc-hải lấy các người tình nguyện ở thôn Tứ-chính phủ Bình-thuận
hay là nguời xã Cảnh-dương cấp giấy cho đi hành sai và miễn tiền sưu cùng các thứ thuế
tuần, đo cho đem thuyền câu nhỏ của riêng họ ra Bắc-hải, cù lao Côn-luân và cồn Hà-tiên
để tìm kiếm các đồ vật ở tàu bể trôi ra như đồi mồi, hải ba ? cùng đồn ngu đảo ? (quý ngu)
hải sâm v.v... Đội Bắc-hải cũng do cơ quan trông coi ở đội Hoàng-sa kiêm quản.
Hoàng-sa-chử gần phủ Liêm-châu thuộc Hải-nam, thuyền đánh cá của ta thường gặp
thuyền đánh cá Trung-quốc nói chuyện với nhau.
Có được xem Chính-đường quan Quỳnh-châu Văn-xương huyện xét công văn Thuận-hóa
nói : Kiền-long năm thứ 19, An-nam Quảng-nghĩa phủ, Chương-nghĩa huyện, Cát-liêm đội,
An-bình xã quân nhân 10 tên đến vạn lý trường sa tìm kiếm các vật, có 8 tên lên bờ, còn 2
tên giữ thuyền, bị gió bão làm đứt giây neo, thuyền giạt vào cảng Thanh-lan, viên quan ấy
xét thực, cho nguời dẫn về nguyên quán. Nguyễn-phúc-Chu cho Cai-bạ Thuận-hóa là
Thức-luợng-hầu viết thư trả lời..."