Chuyện thằng câu ếch và sự tái sinh dân làng Đơ
Ngày xửa ngày xưa, khi mới lập làng, dân Đơ còn thưa vắng lắm. Người hiếm nên càng quý trọng nhau, cuộc sống tuy nghèo nhưng khá hòa thuận, yên vui.
Bỗng tai họa tày trời chụp xuống dân lành. Ấy là vào một hôm đẹp trời, ngoài đường cái quan xuất hiện đoàn người đông đúc với cờ quạt, kèn trống inh ỏi diễu qua. Hỏi ra mới biết đấy là họ đang hộ tống Bà Chúa từ Kinh thành đi du xuân.
Cùng lúc, ở bờ ao ven đường có một thằng câu ếch vốn người làng bên (làng Hà Trì) đang mải quăng mồi. Vừa khi kiệu Bà Chúa đến thì con ếch cụ đớp mồi. Thằng câu ếch khoái chí ra sức văng mạnh cần câu. Trớ trêu thay, lưỡi câu không móc vào hàm ếch, mà lại bay lên móc vào yếm đào của Bà Chúa. Thằng câu ếch sợ quá, càng giật mạnh thì lưỡi càng móc sâu, đến độ rách toang vạt yếm để lộ cả đôi gò bồng đảo. Bị bất ngờ, vừa xấu hổ vừa tức giận, Bà vội lấy tay che ngực và hét toáng lên làm cả đám rước nhốn nháo. Lợi dụng tình thế ấy, thằng câu ếch vội vứt cả giỏ cả cần tẩu thoát. Đoàn rước phải bỏ dở cuộc hành trình, quay vội về Kinh thành.
Chuyện gở đã qua đi ít ngày, làng xóm vẫn bình yên nhưng mấy cụ già trong làng chưa nguôi lo lắng. Họ kháo nhau: “Thằng câu ếch làng bên đã mất tung tích. Họa này không khéo quýt làm cam chịu, rồi làng ta phải gánh đây.”
Lo thì lo vậy nhưng chẳng biết đâu mà lường, mà tránh.
Thế rồi điều gì đến cũng phải đến. Nhằm đúng một ngày nông nhàn, trời lại sậm sụt mưa gió nên ít ai ra khỏi làng thì đùng một cái, giặc giã ở đâu ập tới, lùng sục khắp ngõ hẻm ngách sâu, gươm giáo sáng loáng, gặp ai giết nấy bất kể già trẻ gái trai. Ngập trời tiếng gào khóc la hét bi ai. Chẳng mấy chốc, bọn ác biến hết bỏ lại xác người ngập máu, nhà cửa đổ nát hoang tàn. Làng xóm câm lặng, có chăng chỉ vài tiếng quạ thấy mùi tử khí, quàng quạc trên không.
Mãi sau này, người ta mới biết là Bà Chúa cho lính về trừng phạt dân làng Đơ về tội thằng câu ếch lếu láo gây ra. Nào có biết dân ấy đã bị tội oan.
Ai cũng tưởng dân làng Đơ đã bị tận diệt đận ấy.
May thay, trời còn có mắt nên họa lớn chưa tới mức tận cùng. Mờ sáng cái hôm kinh hoàng ấy, có hai anh em nhà kia - anh trai, em gái, bố mẹ gọi dậy sớm, sai đi chợ Gốt bán rau lú bú - vốn là thứ rau đặc sản của đồng làng. Đến khi tan chợ trở về thì ôi thôi, anh em chỉ còn cách ôm nhau khóc ròng khóc rã đến mấy ngày trời.
Dù cảnh ngộ thế nào, cũng phải sống đã. Dần dà nỗi đau cũng nguôi ngoai, anh em nhà kia bảo nhau dựng lại nhà cửa, cày cấy lại ruộng đồng.
Thấm thoắt qua đi, họ đã đến tuổi trai tìm vợ, gái tìm chồng. Nhưng tìm đâu ra chứ. Làng xóm thì hết người, thiên hạ thì xa lạ? Không biết hỏi ai, anh em họ đành sửa cái lễ mọn đặt giữa trời kêu hỏi các đấng thần linh. Lòng thành của họ đã thấu đến cao xanh. Người anh vừa dứt lời khấn, một ông Tiên phúc hậu đã hiện ra, ôn tồn nói: “Này các con nghe ta dặn đây. Đúng giờ Tý đêm nay, hai con chia làm hai ngả cùng đi vòng quanh làng. Giữa đường các con gặp ai đầu tiên thì lấy người ấy làm chồng, làm vợ. Chúc các con ăn ở với nhau hòa thuận để sinh hạ lại dân làng.”
Nghe lời Tiên ông, chờ đúng nửa đêm, khi con cuốc ngoài bờ tre đã im tiếng, con dế dưới gốc bầu đã ngừng kêu, hai anh em lặng lẽ chia hai ngả để cùng bắt đầu cuộc hành trình cầu duyên linh thiêng. Và rồi, không thể là ai khác, anh em họ đã gặp nhau đúng nơi trước kia làng dựng miếu thần. Họ làm lễ tạ ơn thiên địa, rồi từ đó ăn ở với nhau, sinh năm đẻ bảy, lần nào cũng vuông tròn, suôn sẻ. Đời này tiếp đời kia, cứ thế, dân làng Đơ dần dần trở lại nhộn nhịp đông vui từ bao giờ chẳng mấy ai để ý.
Để ghi nhớ đại họa xưa, sau đó dân làng Đơ mỗi năm có chung một ngày giỗ, gọi là “Ngày giỗ trận”. Hôm ấy nhà nào cũng làm cỗ cúng tổ tiên và mời con cháu họ hàng ở xa về dự để cùng nhắc lại chuyện cũ, cũng là để nhắc nhau một câu cửa miệng: “Dân làng Đơ dù là họ Lưu, họ Nguyễn hay họ Lê họ Trần… tất cả đều là con cháu sinh ra từ một cội, phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau.”