Giang hồ

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Mình chia tay nhau anh nhé

Đã có lần anh vô cớ nói chia tay…

Em đã dệt đêm bằng ngút ngàn nước mắt …

Và bây giờ, em lặp lại Vô cớ…chẳng vì sao...

Bao bọc quanh hai chữ định mệnh đó là cả trái tim em tan nát…

Tiếng thở dài nôn nao tâm trí…

….

Em luôn băn khoăn…

Em đang yêu anh hay em đang chơi trò cút bắt niềm tin … ?!

Có những nỗi buồn không gọi nổi thành tên…

Yêu anh, tim em đã mang những nỗi buồn như vậy …

Em chẳng ghen với quá khứ của anh…

Với nồng nàn xưa… với người cũ…

Em luôn tự dỗ dành…

Mình là người đến sau…

Tình đầu luôn đẹp nhưng tình cuối mới là vĩnh cửu…



Nhưng…


Ai bảo em yêu anh nhiều thế …

Lòng ích kỷ thôi thúc em chiếm hữu cả tâm trí anh…

Hiện tại và mãi về sau…

Còn quá khứ của anh?!… Em day dứt đớn đau

Làm thế nào để chiếm hữu đây…

.....

Em đan ngày dài bằng chất chứa u mê…

... đêm đong đầy mỏi mệt ...

Đôi khi giật mình trong hoang mang…

Từ khi yêu anh… em đang dần đánh mất em…

Em đã buông rơi thời con gái…

… bước qua ngưỡng cửa mơ mộng…

…để trở thành 1 người đàn bà, còn khờ khạo vẹn nguyên"

...

Buồn như mây...

Em mặc kệ nỗi nhớ gào thét tên anh…

Em chôn kín chút hạnh phúc ít ỏi giữa chúng mình…

Tự cắn môi em đến bật máu để trôi đi dư âm nụ hôn anh…

Bờ vai muốn hất tan những dấu tích của vòng tay êm ái…



Em muốn tìm lại bản thân đang lầm lũi lẩn khuất vào ký ức…



Chia tay anh nhé!



Em đã nhìn thấy nét mặt sẽ hờ hững nơi anh…

Đam mê, say đắm anh cũng quay bước…

Bỏ mặc sau lưng, em đơn độc gục đầu vào nỗi đau…
 

HVB

Xe tăng
Biển số
OF-13417
Ngày cấp bằng
23/2/08
Số km
1,618
Động cơ
534,410 Mã lực
Nơi ở
Nghĩa Đô, Cầu Giấy
Thơ của bác tâm trạng thế. Cả chữ ký cũng vậy. Hi vọng bác là người mạnh mẽ đi tìm bình yên vì chữ ký của bác "Một cảm giác bình yên" màu đỏ :)
 

cupbin

Xe đạp
Biển số
OF-12426
Ngày cấp bằng
3/1/08
Số km
22
Động cơ
523,820 Mã lực
Nơi ở
BVC
Anh như kẻ bán hàng đang đắt chợ
Như người nghèo thắng bạc đêm qua
Em ước muốn nhưng làm sao có thể
Anh cao sang ngự đỉnh tháp ngà

Em đành lòng ươm cây chờ bóng mát
Chờ chiều hôm tan chợ khách ra về
Chờ đồng bạc cuối cùng anh tiêu hết
Chờ một ngày tạnh ráo mọi đam mê

Em đã đợi , thời gian đâu có đợi
Không gian như đóng lại cả ba chiều
Lời hẹn ước dùng dằng đêm tiễn biệt
Mái tóc thề lốm đốm những lời yêu

Chẳng thể đồng hành hai nỗi cô đơn
Chẳng có được bình yên với hai người chiến bại
Anh kiêu hãnh , anh đâu cần thương hại
Như lúc này , em chẳng thể cầu xin

Có những lời nói thật chẳng ai tin
Câu nói dối lên ngôi mà vĩ đại
Anh là đấng trong em mãi mãi
Kẻ muộn màng sám hối , chính là em !
 

autopro

Xe hơi
Biển số
OF-4718
Ngày cấp bằng
14/5/07
Số km
199
Động cơ
548,990 Mã lực
Tuổi
44
Nơi ở
סביב Tuyen Quang - הא ג 'יאנג
Trái tim anh, em select bằng mouse
Chốn hẹn hò, internet forum
Lời yêu thương truyền bằng phương thức get
Nhận dáng hình qua địa chỉ IP
Nếu một mai em vĩnh viễn ra đi
Anh sẽ chết giữa muôn ngàn biển search
Lời tỏ tình không dễ gì convert
Lưu ngàn đời vào biến constant​
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Trái tim em là trái tim con gái
Rất cả tin và dễ tổn thương
Đập lo âu khắc khoải giữa đời thường
Bỗng một ngày run lên bối rối
Trái tim đập những điều em không nói
Dù trước anh em kiêu hãnh lặng im
Giọt lệ trào sau hàng mi giấu vội
Nuốt vào trong thành nước mắt của tim

Trái tim em chẳng một phút bình yên
Cứ gào gọi, cứ vẫy vùng thôi thúc
Muốn vỡ tung và xé toang lồng ngực
Để trao anh minh chứng của tình yêu

Nhưng trái tim phiền muộn đã nhiều
Trước tương lai luôn phập phồng lo sợ
Chân trời xa nắng ấm có bao nhiêu
Sẽ hạnh phúc hay sẽ là đau khổ

Trái tim em trái tim bé nhỏ
Trĩu nặng thế em không mang nổi một mình
Muốn sẻ bớt nửa thương nhớ sang anh
Nhờ anh giữ cùng em trái tim con gái
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Mây Tan Đi Trong Gió ....Có Bao Giờ Mây Trôi

1. Nhớ ngày xưa tháng 9
Chìm trong ánh trăng xanh
Dưới cây mận lặng thinh
Tôi ôm chặt mối tình
Nhợt nhạt và lặng lẽ
Như ôm trong vòng tay
Giấc mộng tình đẹp đẽ
Đêm hè trời đầy sao
Có đám mây trắng muốt
Bồng bềnh tít trên cao
Và khi tôi ngẩng đầu
Nhìn mây - không trôi nữa
Mây tan đi trong gió
Có bao giờ mây trôi


2. Từ ấy bao mùa trăng
Đã trôi qua lặng lẽ
Cây mận xưa có thể
Bị người ta chặt rồi
Và nếu anh hỏi tôi
Chuyện tình yêu đôi lứa
Xin thưa để anh hay
Tôi không còn nhớ nữa
Ngay đến khuân mặt nàng
Thật tình tôi không nhớ
Riêng điều này tôi rõ
Và còn nhớ lâu hơn
Trên khuân mặt người ấy
Tôi đã ghé môi hôn...



3. Ngay cả đến chiếc hôn
Có thể tôi chẳng nhớ
Nếu trời đêm hôm đó
Không có đám mây qua ...
Cây mận xưa nở hoa
Có lẽ còn nhớ mãi ...
Và giờ đây người ấy
Chắc đến 7 con rồi.
Nhưng đám mây trắng trôi
Chỉ bồng bềnh giây lát
Và khi tôi ngẩng đầu
Mây đã tan biến mất
Mây tan đi trong gió
Có bao giờ mây trôi ...
Nhìn mây - không trôi nữa
Mây tan đi trong gió
Có bao giờ mây trôi



St
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
100 bài thơ hay nhất thế kỉ 20 !

(Tổng hợp từ forum trường đại học Ngoại Thương, diễn đàn VDC-VNN và một số nguồn khác)
Được phát động từ đầu năm 2005, cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã lựa ra được 100 thi phẩm xuất sắc và công bố trong Đêm
Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam (3/3). Nhưng sự vắng mặt của nhiều bài thơ nổi tiếng trong danh sách này không khỏi khiến người yêu thơ phải nuối tiếc.

Không thiếu những Tràng giang - Huy Cận; Ông Đồ - Vũ Đình Liên, Đất nước - Nguyễn Đình Thi, Núi Đôi - Văn Cao, Tây tiến - Quang Dũng, Người về - Hoàng Hưng..., cuộc bình chọn do Trung tâm văn hóa Doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức đã góp phần tôn vinh những sáng tác nổi bật của một thế kỷ thi ca Việt Nam. 100 bài thơ, chia đều cho 100 tác giả, không một ai được vinh dự góp mặt với hơn một sáng tác. Hiện tượng này khiến không ít độc giả ngậm ngùi tiếc nuối khi Xuân Diệu có Nguyệt cầm nhưng không có Đây mùa thu tới hay Vội vàng... Hoàng Cầm có Bên kia sông Đuống nhưng không có Lá diêu bông... Nguyễn Duy có Đò lèn nhưng lại vắng Tre Việt Nam hay Hơi ấm ổ rơm...

Tỏ ra thích thú trước kết quả cuộc bình chọn, Mỹ Anh, sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cho biết: "Đây là một bộ sưu tập những bài thơ hay của Việt Nam. Tôi biết phần lớn các bài thơ trong top 100 này, nhưng cũng có nhiều bài tôi chưa hề nghe tên, ví như Một vị tướng về hưu của Nguyễn Đức Mậu, Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê hương của Việt Phương... Chắc chắn tôi sẽ tìm đọc thêm những tác phẩm này".

Phong trào Thơ Mới góp mặt trong danh sách với số lượng tác giả, tác phẩm lớn nhất. Tiếp đó là những sáng tác có ảnh hưởng sâu nặng đến suy nghĩ và hành động của bao thế hệ độc giả qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp. Nhà văn Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, cho biết: "Chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết công phu, thể hiện tình yêu và thái độ trân trọng với thơ ca. Có những độc giả viết đến hàng chục trang bình chọn và đưa ra nhiều lý lẽ bảo vệ cho sự lựa chọn của mình".

100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã được Nhà xuất bản in thành sách và phát hành rộng rãi. Dưới đây là danh sách 100 bài thơ hay nhất. Ngoài Nguyên Tiêu, 99 bài còn lại được sắp xếp theo tên tác giả dựa vào bảng chữ cái.

1) Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh.

2) Ngày Hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc.

3) Những bóng người trên sân ga - Nguyễn Bính.

4) Tạm biệt Huế - Thu Bồn.

5) Vào chùa - Đồng Đức Bốn.

6) Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh.

7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao.

8) Núi Đôi - Vũ Cao.

9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm.

10) Tràng Giang - Huy Cận.

11) Dọn về làng - Nông Quốc Chấn.

12) Quê hương - Nguyễn Bá Chung.

13) Say đi em - Vũ Hoàng Chương.

14) Miền Trung - Hoàng Trần Cương.

15) Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ.

16) Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ.

17) Nguyệt cầm - Xuân Diệu.

18) Cô bộ đội ấy đã đi rồi - Phạm Tiến Duật.

19) Tây tiến - Quang Dũng.

20) Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng.

21) Đò lèn - Nguyễn Duy.

22) Chiều - Hồ Dzếnh.

23) Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà.

24) Cha tôi - Lê Đạt.

25) Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm.

26) Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang.

27) Mắt buồn - Bùi Giáng.

28) Hai sắc hoa tigôn - T.T.KH.

29) Đọc thơ Ức Trai - Sóng Hồng.

30) Bài thơ tình ở Hàng Châu - Tế Hanh.

31) Trở về quê nội - Ca Lê Hiến.

32) Đêm mưa - Hoàn.

33) Những đứa trẻ chơi trước cửa đền - Thi Hoàng.

34) Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng.

35) Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ.

36) Nỗi niềm Thị Nở - Quang Huy.

37) Đường khuya trở bước - Đinh Hùng.

38) Người về - Hoàng Hưng.

39) Đồng chí - Chính Hữu.

40) Khi con tu hú - Tố Hữu.

41) Lên Cấm sơn - Thôi Hữu.

42) Lời nói dối nhân ái - Trang Thế Hy.

43) Gánh nước đêm - Á Nam Trần Tuấn Khải.

44) Tỳ bà - Bích Khê.

45) Gửi bác Trần Nhuận Minh - Trần Đăng Khoa.

46) Thu điếu - Nguyễn Khuyến.

47) Bến Mi Lăng - Yến Lan.

48) Tháp Chàm - Văn Lê.

49) Ông đồ - Vũ Đình Liên.

50) Đèo cả - Hữu Loan.

51) Viếng bạn - Hoàng Lộc.

52) Tiếng thu - Lưu Trọng Lư.

53) Nhớ rừng - Thế Lữ.

54) Một vị tướng về hưu - Nguyễn Đức Mậu.

55) Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây.

56) Dặn con - Trần Nhuận Minh.

57) Hội Lim - Vũ Đình Minh.

58) Khóc người vợ hiền - Tú Mỡ.

59) Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ.

60) Quê hương - Giang Nam.

61) Thị Màu - Anh Ngọc.

62) Nhớ - Hồng Nguyên.

63) Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn.

64) Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi.

65) Nhớ máu - Trần Mai Ninh.

66) Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh.

67) Bông và mây - Ngô Văn Phú.

68) Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương - Việt Phương.

69) Đợi - Vũ Quần Phương.

70) Tên làng - Y Phương.

71) Lời mẹ dặn - Phùng Quán.

72) Có khi nào - Bùi Minh Quốc.

73) Tự hát - Xuân Quỳnh.

74) Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa.

75) Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao.

76) Người đẹp - Lò Ngân Sủn.

77) Đồng dao cho người lớn - Nguyễn Trọng Tạo.

78) Tống biệt hành - Thâm Tâm.

79) Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo.

80) Đất nước - Nguyễn Đình Thi.

81) Những người đàn bà gánh nước sông - Nguyễn Quang Thiều.

82) Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh.

83) Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông.

84) Bờ sông vẫn gió - Trúc Thông.

85) Bến đò ngày mưa - Anh Thơ.

86) Thăm lúa - Trần Hữu Thung.

87) Cổ lũy cô thôn - Phạm Thiên Thư.

88) Nói sao cho vợi - Thu Trang.

89) Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân.

90) Bên mộ cụ Nguyễn Du - Vương Trọng.

91) Nhớ Huế quê tôi - Thanh Tịnh.

92) Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ.

93) Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.

94) Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui.

95) Em tắm - Bạc Văn Ùi.

96) Một ngày ta ngoái lại - Đinh Thị Thu Vân.

97) Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên.

98) Bếp lửa - Bằng Việt.

99) Vườn trong phố - Lưu Quang Vũ.

100) Thương vợ - Trần Tế Xương.
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Nguyên tiêu

HỒ CHÍ MINH

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

1948

Dịch nghĩa:

Đêm rằm tháng riêng

Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền.

1948

Dịch thơ:

Rằm tháng riêng

Rằm xuân ***g lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

XUÂN THỦY dịch



Trăng xưa ngời sáng với xuân này

Lời bình của Thư Trai

Cuối năm 1947, với ảo vọng "đánh nhanh thắng nhanh", thực dân xâm lược Pháp mở những trận càn lớn vào chiến khu Việt Bắc, ngỡ có thể chớp nhoáng tiêu diệt bộ chỉ huy tối cao cuộc kháng chiến cứu nước của quân và dân ta.

Song, quân giặc đã phải chuốc lấy thất bại thảm hại... Đầu xuân 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc Hội nghị Trung ương mở rộng, vạch phương hướng và nhiệm vụ mới cho một giai đoạn phát triển của Cách mạng Việt Nam, chuẩn bị từng bước vững chắc để đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Nhà thơ Xuân Thủy kể lại: Sau cuộc họp ở chốn "yên ba thâm xứ", Bác xuôi thuyền về nơi căn cứ. Nhân trăng sáng, cảnh đẹp, Bác cảm hứng đọc:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên

Rồi thêm hai câu nữa thành bài Nguyên tiêu.

Có người đề nghị Bác cho dịch ra tiếng Việt. Bác bảo: "Có Xuân Thủy đây, Xuân Thủy dịch đi".

Sau một hồi suy nghĩ, Xuân Thủy đọc bản dịch.

Bác khen: "Dịch lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa với nhau mà bản dịch chỉ có hai chữ xuân, thế là ý thì đủ mà chữ còn thiếu"...

Về sau, nhà thơ - dịch giả Xuân Thủy đưa thêm một chữ xuân nữa vào bản dịch như chúng ta đã biết.

Nhưng giữa ba chữ xuân trên cùng một dòng thơ và ba chữ xuân trên cả hai dòng là cả một khoảng cách không dễ gì thu ngắn lại. Sự lặp lại ở đây vừa chuyển tải nội dung vừa là điểm nhấn của hình thức nghệ thuật.

Bản dịch có được sự thanh thoát và độ biểu cảm khá nhuần nhuyễn. Nhất là một chữ ngân thêm vào ở dòng kết như một xuất thần của người dịch. Song, độ sâu sắc và những chi tiết hiện thực, vốn là đặc điểm của phong cách ngôn từ Hồ Chí Minh trong nguyên tác thì bản dịch đã không sao thể hiện hết được.

Với "yên ba thâm xứ", tác giả vừa muốn gợi lại một không khí rất Đường thi trong thơ cổ lại vừa ghi khắc được màn sương mù dày đặc vùng cao những ngày mùa đông Việt Bắc hồi giữa thế kỷ trước.

Giữa dòng gần như chưa nói được điều gì. Chính trong màn sương huyền ảo và kín đáo đó những nhà cách mạng, trao đổi những điều có tính chất sống còn của Tổ quốc, của dân tộc. Câu thơ "Yên ba thân xứ đàm quân sự" khi đọc lên ta nghe mang một âm hưởng như có gì chùng xuống. Những từ xứ, sự gợi lên sự trầm khuất. Nhưng ngoài ra, ở ba dòng còn lại:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên



Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

với những từ nguyên, viên, thiên, thuyền là những âm vang tạo cho âm hưởng câu thơ nét lạc quan, tươi sáng.

Câu thơ cuối Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền với thanh huyền ở vần thuyền kết bài gợi cho ta một không gian thật bát ngát, cũng là dư vang cho cả bài thơ. Nhà thơ trở về trên một con thuyền đầy trăng. Thật là thơ mộng. Như bao nhiêu bậc thi nhân lớn của truyền thống thơ phương Đông.

Cảm hứng của Nguyên tiêu là cảm hứng của niềm vui, hạnh phúc, tin tưởng và hy vọng. Trong cuộc đời đầy thử thách của tác giả, những khoảnh khắc như thế này thật quý giá. Nhất là lại đêm Nguyên tiêu và vầng trăng Nguyên tiêu bao giờ cũng gợi lên những tình cảm thật thiêng liêng trong tâm thức phương Đông, tâm thức Việt Nam. Dù ta biết trăng và thơ vẫn luôn song hành trong suốt cuộc đời Người. Nhưng ở bài thơ này vẫn có một điều gì thật xúc động.

Bài thơ vừa có được vẻ đẹp cổ điển mẫu mực vừa mang hơi thở ấm áp của thời đại. Mà đây lại là thời đại bão táp cách mạng. Ta thấy hiện lên rất đẹp cái tôi trữ tình của tác giả - Người mà sự hòa hợp hoàn hảo đã được thi sĩ - Phêlich Pita Rôđrighêt - gợi lên trong mấy dòng hết sức cô đọng:

Bởi vì Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nhà thơ Hồ Chí Minh
Người nông dân Việt Nam trầm tĩnh Hồ Chí Minh...

Bài thơ chỉ được viết trong khoảnh khắc. Nhưng khoảnh khắc đã trở thành vĩnh cửu. Và, từ một câu thơ khác của Bác cũng viết ở Việt Bắc thuở ấy, Trăng xưa, hạc cũ với xuân này, trong ta cũng chợt thoáng lên niềm xúc động nghĩ rằng: Trăng xưa ngời sáng với xuân này.
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Ngày hoà bình đầu tiên

PHÙNG KHẮC BẮC

Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp và anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả
Van anh
Hôm qua chưa nhận được một viên đạn
Hôm nay nhận được lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này là hai bàn tay...
Mẹ giục ăn cơm con
Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm

-----------------------

Những bóng người trên sân ga

NGUYỄN BÍNH

Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.

Có lần tôi thấy hai cô bé
áp má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
"Đường về nhà chị chắc xa xôi".

Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu.

Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhoà trong bóng tối từ lâu.

Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu anh thắt lại
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi".

Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga.

Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly.

Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

(Hà Nội 1937)

--------------------------

Tạm biệt Huế

THU BỒN

Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu

Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ hư vô
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô

Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế mà đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh đi mãi chẳng về đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.

-----------------------

Vào chùa

ĐỒNG ĐỨC BỐN

Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày

-----------------------

Sư đoàn

PHẠM NGỌC CẢNH

Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đày chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã chết
Bất kỳ nơi đâu
Từ một cây "mút nhét"
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa
Vạch lối điều quân
Vai chảy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm sau dàn trận chính qui
Đến trận bão hiệp đồng cả nước
Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi...
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân dân
Lại tiếp
Trang ấp Bắc - Plây me
Và chiến công lên ngực áo những binh nhì
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thep
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông bẫy đá cung tên
Này đây Cực Nam Phan Rang - Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi - Phú Yên
Trên nguồn xa Ô Lâu - Thạch Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên

Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió
Đón con em
Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang!

(1966)

---------------------

Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc

VĂN CAO

Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma...
Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần

Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa
Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
- Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu

Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hồn đất trích
Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, dài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc

Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
- Hang tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xa dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.

(1945)

---------------------------

Núi đôi

VŨ CAO

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa
Bữa thì anh tới bữa em sang.

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Ai ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành chết thuỷ chung.

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn Đôi mà anh mất em.

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.

Cha mẹ dìu nhau về tận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm

-------------------------------

Bên kia sông Đuống

HOÀNG CẦM

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?

Hé một cánh liếp
-- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời


Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

(Việt Bắc, tháng 4, 1948)

---------------------------

Tràng Giang

HUY CẬN

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc giữa dòng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, chiều lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Tràng giang

HUY CẬN

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc giữa dòng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, chiều lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

-----------------------------

Dọn về làng

NÔNG QUỐC CHẤN

Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.

Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên Tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân.

Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi.

Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi *********, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi: cha không biết nói rồi...
Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín" con im.
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố!
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...
Mày sẽ chết! thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả!

Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa không lo
Ngày hai bữa rau ta có muối
Ngày hai buổi, không tìm củ pầu, củ nâu
Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín tự rụng
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa

Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ

(Mùa đông 1950)

--------------------------

Quê hương

Nguyễn Bá Chung

Ba mươi năm xa cách quê hương
Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ
Nhớ lần đầu - tóc tang trời ủ rũ
Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên

Có cái gì là lạ không thể quên
Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi
Như nỗi đau không thể làm dịu vợi
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm

Như bầu trời nửa xám nửa không quen
Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ
Những người xưa vì nước xả thân mình

Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh
Bao năm tháng những người làng chịu đói
Năm Ất Dậu tất cả làng tụ lại
Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời

Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời
Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại
Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi
Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày

Để về đây nhận lại mặt người
Để mình biết mình vẫn là mình cũ
Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ
Nhìn quê hương để lại nhận ra mình.

--------------------------------

Say đi em

VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng xót thương càng nhớ thương
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo,
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương,
Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp. Nghê thường lẳng lơ.

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm, não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Âm ba gờn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta !
Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa
Tay mềm mại, bước còn chưa chuếnh choáng.
Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng.
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men.

Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt.
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!

Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi
Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ;
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

-------------------------

Miền Trung

Hoàng Trần Cương

Bao giờ em về thăm
Quê hương anh một thời ngút lửa
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành giải lụa Sông Lam

Miền Trung
Tấm lưng trần đen sạm
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn
Thoáng bóng giặc núi bửa báng súng
Những đứa con văng mình như mảnh đạn
Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi

Miền Trung
Bao đời núi bể kề đôi
Ôi! Biển Đông - giọt nước mắt của muôn ngàn thế hệ
Nóng hổi như vừa lăn xuống
Theo những tượng đá cụt đầu của Trường Sơn uy nghiêm

Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm

Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mùng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai giao mà trắng mặt người

Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong

--------------------------------

Đường Về quê mẹ

ĐOÀN VĂN CỪ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.


Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê .
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề .


Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au .


Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.


Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.


Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên

----------------------------

Anh đừng khen em

LÂM THỊ MỸ DẠ

Lần đầu khi mới làm quen
Anh khen cái nhìn em đẹp
Trời mưa òa cơn nắng đến
Anh khen đôi má em hồng
Gặp người tàn tật em khóc
Anh khen em nhạy cảm thông
Thấy em sợ sét né giông
Anh khen sao mà hiền thế
Thấy em nâng niu con trẻ
Anh khen em thật dịu dàng
Khi hôn lên câu thơ hay
Ấp trang sách vào mái ngực
Em nghe tim mình thổn thức
Thương người làm thơ đã mất
Trái tim giờ ở nơi đâu
Khi đọc một cuộc đời buồn
Lòng em xót xa ấm ức
Anh khen em cảm xúc
Và bao điều nữa...Anh khen

Em sợ lời khen của anh
Như sợ đêm về trời tối
Nhiều khi ngồi buồn một mình
Trách anh sao mà nông nỗi
Hãy chỉ cho em cái kém
Ðể em nên người tốt lành
Hãy chỉ nơi anh cái xấu
Ðể em chăm chút đời anh
Anh ơi anh có biết không
Vì anh em buồn biết mấy
Tình yêu khắt khe thế đấy
Anh ơi anh đừng khen em.

---------------------------

Nguyệt cầm

XUÂN DIỆU

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề...
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

--------------------------

Cô bộ đội ấy đã đi rồi

Phạm Tiến Duật

Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy
Em gái đi, các anh ở lại
Biết đến bao giờ mới được gặp nhau

Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu
Để hun hút nhớ nhau biền biệt
Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết
Xa nhau như xa nhau hôm nay

Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay
Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá
Anh biết rồi bao nhiêu vất vả
Tháng năm dài cùng nhau đi qua

Để sáu bảy năm em gái xa nhà
Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói
Cả một thời trẻ trung sôi nổi
Ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa

Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già
Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát
Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát
Con chó vàng cọ chân em đòi ăn

Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm
Căn nhà dột tóc em ướt hết
Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ

Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ
Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển
Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến
Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe

Trưa vác gạo ta dừng bên khe
Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó
Bên những thằng người áo quần loang lổ
Bóng em ***g bóng suối trong veo

Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào
Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước
Ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc
Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè

Đến chào anh sáng mai em đi
Như ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay

Rồi ngày mai xa vắng nơi đây
Em lại có bao nhiêu đồng đội mới
Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi
Là nhân dân đoàn tụ muôn đời

Cô bộ đội ấy đã đi rồi.

--------------------------

Tây tiến

QUANG DŨNG

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

(Phù Lưu Chanh -- 1948)

-------------------------

Lên Côn Sơn

KHƯƠNG HỮU DỤNG

Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi
Trên đầu xanh ngắt một bầu không
Bàn cờ thế sự quân không động
Mà thấy quanh mình nỗi bão dông
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Đò lèn

NGUYỄN DUY

Thuở nhỏ tôi ra Cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ Đền Sòng.
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói củ giong riềng luộc sượng.
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm

Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn?

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

(9-1982)

Lời bình của Trịnh Thanh Sơn

Câu thơ giản dị nhất, đau xót nhất: "khi tôi biết thương bà thì đã muộn" mang tất cả linh hồn của bài thơ. Và tôi coi Đò Lèn là bài thơ hay nhất, mang trọn vẹn phong cách thơ Nguyễn Duy.

Bài thơ như một câu chuyện kể, có cốt truyện, có nhân vật, có không gian và thời gian... và được vào đề rất hồn nhiên.

Thoạt đầu, nhà thơ kể về sự gắn bó của mình với quê ngoại. Người xưa nói: "Cháu ngoại vác mai qua mồ?" Nhưng với bé Duy, quê ngoại gắn bó với toàn bộ thời thơ ấu của anh.

Chỉ bằng việc anh kể ra một loạt địa danh của vùng Đò Lèn, Hà Trung (Thanh Hoá); người đọc đã hiểu và tin nhà thơ gắn bó máu thịt với quê ngoại và bà ngoại như thế nào. Mười hai địa danh được liệt kê một cách đầy nghệ thuật bởi mỗi địa danh đều được thổi vào tâm trạng, tâm hồn, nông nỗi của bà ngoại anh, đến nỗi nếu không có những địa danh ấy, ta không hình dung ra gương mặt tinh thần của bà ngoại anh được. Đây nhé: "Thuở nhỏ tôi ra Cống Na câu cá, níu váy bà đi chợ Bình Lâm..." Rồi nào là: "Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần..."

Nguyễn Duy kể tên những cống, những chợ, những đền, những chùa... một cách hết sức tự nhiên mà xiết bao hoài niệm.

Trong mạch hồi ức miên man của mình, anh còn kể tiếp:

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Đến khổ thơ thứ ba, tâm thế của nhà thơ chuyển đột ngột như một thắt nút đầy kịch tính. Những trò chơi hồn nhiên, vô tư đến vô tâm của thời thơ ấu sáng trong đã đập mặt vào thực tế đầy khắc nghiệt. Nhà thơ sực tỉnh và bỗng lớn vượt lên như một sự giã từ tuổi thơ để bước sang tuổi thành niên.

Những lời thơ ở khổ thơ này, vì thế đã mang màu suy ngẫm:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại.
Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.

Nếu ai từng biết hoặc đã từng qua những địa danh mà Nguyễn Duy vừa kể, sẽ hiểu được nỗi gian truân trong cuộc mưu sinh gian khó của bà anh. Hình ảnh người bà thân cò lặn lội hiện lên trước mắt người đọc như những thước phim quay chậm, chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt.

Rồi qua quãng mô tả đầy sức gợi của tâm cảm ấy, khúc trữ tình độc thoại trong sâu thẳm tiềm thức nhà thơ bỗng cất lên, cao vút rồi trầm lắng, bình tĩnh mà xót xa! Có thể đây là một thú nhận, một ăn năn vì mình có lỗi với bà, vì mình quá trong sáng và thơ ngây, vì mình quá vô tâm nữa:

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói củ giong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.

Sau tất cả hồn nhiên, vô tư và thức ngộ ấy, nhà thơ đã biến thành chàng trai, một chàng trai khác. Hiện thực khắc nghiệt của đời sống, cuộc chiến tranh chống Mỹ ập tới, làm đảo lộn tất cả, một đảo lộn vừa đau đớn vừa xót xa. Nhà thơ kể bằng một giọng rất thản nhiên, rất tĩnh, rất văn xuôi mà đầy giông bão, như nghiến răng mà kể, rằng:

Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.

Những động từ bay mất! bay, bay tuốt, đi đâu hết... nghe tưng tửng, thản nhiên mà trào nước mắt, vì sau tất cả là bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!

Hình ảnh cuối cùng in vào tâm khảm nhà thơ là hình ảnh người bà ngoại đang bán trứng ở ga Lèn. Anh mang hình ảnh đó vào chiến trường, làm "lương khô" cho mỗi trận đánh và suốt cả đời mình.

Nỗi xa xót cuối cùng của người cháu thi sĩ ấy là ngày trở lại, ngày chiến thắng trở về, anh không còn được gặp lại người bà thân yêu, mà chỉ gặp một nấm cỏ trên mộ bà:

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Chiều

HỒ DZẾNH

Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây.

Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?

Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...

------------------------

Thăm mả cũ bên đường

TẢN ĐÀ

Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà.
Một dãy lau cao làn gió chạy,
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.

Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?

Hay là thuở trước kẻ cung đao
Hám đạn liều tên quyết mũi dao,
Cửa nhà xa cách, vợ con khuất,
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao?

Hay là thuở trước kẻ văn chương
Chen hội công danh nhỡ lạc đường,
Tài cao phận thấp, chí khí uất,
Giang hồ mê chơi quên quê hương?

Hay là thuở trước khách hồng nhan
Sắc sảo khôn ngoan đất trời ghen,
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn?

Hay là thuở trước khách phong lưu
Vợ con đàn hạc đề huề theo,
Quan san xa lạ đường lối khó
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều?

Hay là thuở trước bậc tài danh
Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận, hờn ân ái
Đất khách nhờ chôn một khối tình?

Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
Mưa dầu nẵng dãi, trăng mờ soi!

Ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua:
Có tiếng khóc eo thời có thế,
Trăm năm ai lại biết ai mà?

---------------------------

Cha tôi

LÊ ĐẠT

Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu
Phất ngọn cờ lau
Vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám
Lớn lên, cha tôi đi dạy học
Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước
Khóc Phan Chu Trinh
Như khóc người nhà mình
Ôm mộng bôn ba hải ngoại
Lênh đênh khói một con tàu
Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái
Đánh nhau với Tây
Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc
Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời
Gần hai mươi năm trời
Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng
Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng
Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng
Tiếng võng trưa hè mênh mông
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.

Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó
Cuộc đời chợ đen chợ đỏ
Thù hằn con người
"Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở
Mày đã quyết kiêu căng
Níu lấy cái lương tâm gàn dở
Dám không tồi như chúng tao
Suốt đời mày sẽ khổ".

Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ
Người "An Nam" dám đánh "ông Tây"
Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày
Chửi mèo, mắng chó
"Cũng là chồng là con
Chồng người ta khôn ngoan
Được lòng ông tuần ông phủ
Mang tiền về nuôi vợ".

Bát đĩa xô nhau vỡ
Cha tôi nằm thở dài
Cha nhịn đi cho đỡ
Anh em tôi, bỏ cơm
Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn
Trời mùa đông trăng sáng
Sao nở như hoa

Không biết Ngưu Lang trên kia
Có bao giờ cãi Chức Nữ.
Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ
Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi
Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa

Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa
Người còn bận đếm tiền ghi sổ
Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ
Một mình uống rượu say
Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc
Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền
Hai vai nhô lên
Đầu lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi im lặng
Ngọn đèn leo leo ánh sáng
Bóng với người như nhau
Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt
Ở chân bàn hay ở cha tôi?

Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo.
Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo
Tàn phá con người.
Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương kiên quyết làm người.
Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng.

7 - 1956

-------------------------

Mẹ và quả

NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?


Lời bình của Nguyễn Ngọc Phú

Quả tượng trưng cho sự sống mà mẹ chính là người gieo trồng chăm bẵm và mong mỏi được hái: Những mùa quả lặn rồi lại mọc - Như mặt trời, khi như mặt trăng. Chữ mọc thì hiển nhiên khi nói về cây trồng thực vật. Nhưng chữ lặn là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Ngoài sự chuyển dịch của thời gian, không gian còn có cả sự chuyển dịch không ngừng của sự sống, sức sống trỗi dậy tiềm ẩn chứa những trữ lượng sống nhân văn đầy ắp. Sự vận động này còn mang ý nghĩa triết học biện chứng.

Giọng thơ của ông điềm đạm, khiêm nhường trong Mẹ và quả là một ứng xử giao hoà giữa con người với thiên nhiên. Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên rồi và, chúng tôi một thứ quả trên đời. Ở đây nhà thơ không nói lũ chúng con, và chúng con có lẽ ông muốn nới rộng biên độ tình cảm với sức khái quát lớn hơn ở một lứa tuổi đã đủ bản lĩnh và tự tin trước sự biến động của cuộc sống.

Thường, chúng ta nhìn sự thay đổi của vạn vật bằng sự lớn lên, vươn lên cả về hình khối và thể chất. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên phát hiện sự lớn xuống hướng tâm về mặt đất không phải bằng độ oằn cong của cành mà bằng chính kích thước của quả của sự lớn nhiều chiều trĩu nặng mang bao ý nghĩa hàm ơn sinh thành: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên – còn những bí, những bầu thì lớn xuống. Ông gọi tên bí, tên bầu như tên người thân thiết đầy biểu cảm và giao cảm.

Phải có con mắt tinh tế và tấm lòng nhân ái mới nhận ra những bí những bầu ấy: Chúng mang dáng giọt mô hôi mặn - rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi. Những giọi mồ hôi ngưng tụ giữa không gian mang một vẻ đẹp thuần khiết kết tinh mà ám ảnh; vừa day dứt, vừa tôn vinh hình ảnh người lao động thật bình thản và tự tin làm chủ cuộc sống. Chữ rỏ đông kết mà lan tỏa ấm nóng sự cộng hưởng của tình người. Tôi nghĩ khó có thể thay được chữ nào hay hơn thế vừa tôn kính thiêng liêng, vừa ấm áp nhân hậu.

Bài thơ có một giá trị lay thức thẩm mỹ khi ông thảng thốt: Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi – mình vẫn còn một thứ quả non xanh. Một sự thú nhận nhiều trực cảm; sự lan tỏa của bài thơ vì thế ngân vọng sâu xa hướng con người tới cội nguồn và vẻ đẹp vĩnh cửu của cõi Thiện.

-------------------------------

Núi Mường Hung dòng sông Mã

CẦM GIANG

Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em long lanh
Sáo cành cây ạnh thổi vang lanh lảnh
Gió lùa qua miệng anh lại mỉm cười
Rộn ràng em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng

Thi nhau lớn đẹp nương
Toả mùi thơm cùng nghe chim hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên sông
Anh làm no lòng mương
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu giẫm gãy cành bông trắng
Lá lúa anh sẽ cứa đứt chân
Nếu lúa này chuột, khỉ dám đến ăn
Sợi bông em sẽ bay mù mắt nó

Anh là rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên dòng suối
Hoa sim nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Nếu hùm về, suối em thành thác
Nếu sói về, rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão dông
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.

2-1953

-------------------------

Mắt buồn

BÙI GIÁNG

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con

-------------------------

Hai Sắc Hoa Ti-Gôn

T.T.KH

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"

Thuở đó, nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy"

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ, chết yêu đương.
Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy thu rồi, thu, lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng "một người"

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ?
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

30-10-1937

-------------------------

Đọc thơ Ức Trai

Sóng Hồng

Đêm đông
Sương lạnh
Quanh nhà tiếng trùng ra rả.
Dưới đèn lần đọc thơ Ức Trai
Canh khuya nói chuyện với người xưa
Và thức tỉnh một thời qua.

Hơn năm trăm năm trước,
Nhân dân ta vùng lên đuổi quân xâm lược,
Ai chí khí hiên ngang,
Hơn đời mưu lược,
Cứu dân cứu nước, nhớ lời cha,
Một lòng ưu ái vì dân tộc,
Lo trước vui sau giữ nếp nhà.
Mười năm quyết chiến,
Ngang dọc xông pha,
Lấy nhân nghĩa chống bạo tàn,
Dựa sức dân dẹp tan kình ngạc.
Vung gươm khiếp vía quân Minh,
Múa bút mềm gan tướng giặc.

Sau khi sóng kình im bặt,
Chí đang hăng dựng nước buổi thanh bình,
Vì đâu phải lui về núi cũ,
Bạn với cúc tùng cho ngày tháng trôi qua!
Tưởng thoát chốn phồn hoa
Mặc ai bon chen danh lợi
Đau đớn nhìn việc đời biến đổi
Như mây trôi nước chảy xuôi dòng
Lúc thuyền ai
...................hờ hững
...............................ở trên sông!
Nhưng duyên nợ nước mây chưa trọn,
Chỉ lo việc lớn vẫn hăng say.
Bi kịch Lệ Chi Viên để lụy bậc thiên tài,
Hận anh hùng,
....................nước biển đông
.........................................cũng không rửa sạch!

Nay đọc thơ Người,
Lòng ta đau xót,
Thắm từng câu:
Yêu nước thương dân,
Tâm hồn cao khiết,
Sự nghệp muôn năm vẫn sáng ngời.

Ù ù gió thổi bên ngoài,
Trăng bạc rung rinh cành sấu,
Trông ra tưởng thấy Ức Trai,
Trên đỉnh Côn Sơn đang mỉm cười
Nhìn con cháu thời Hồ Chí Minh anh dũng
Đã lấy máu viết nên
Bình Tây đại cáo

-------------------------

Bài thơ tình ở Hàng Châu

TẾ HANH

Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh ?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ Bỗng hoá nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.

(1956)
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Trở về quê nội

Ca Lê Hiến

Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa
Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại
Quê hương ta tất cả vẫn còn đây
Dù người thân đã ngã xuống đất này
Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy
Ta nhìn, ta ngắm, ta say
Ta run run nắm những bàn tay
Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu ơ... thương nhớ lắm
Ôi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy trung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sóng nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông.
Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về.
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,
Mẹ dựng tạm mái lều che mưa gió
Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ
Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn
Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất giữ làng
Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.

Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương.
Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.

9-1965

-------------------------

Đêm mưa

TÔ HOÀN

Con về thăm mẹ, đêm mưa
Mới hay nhà dột, gió lùa bốn bên


Mưa rơi sợi thẳng, sợi xiên
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời


Con đi đánh giặc suốt đời
Vẫn không che được một nơi mẹ nằm.

---------------------------

Những đứa trẻ chơi trước cửa đền

THI HOÀNG

Ông từ giữ đền ơi xin ông đấy
Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì
Thế là ông cười rồi ông nhỉ
Cho chúng nó chơi đừng đuổi chúng đi.

Này thằng Tâm con nhà bố Tầm
Trước cửa đền xin đừng giồng cây chuối
Lại còn hét như giặc cái
Con bé cái Nhân con bà Nhẫn kia.

Những mắt cười vê tít lại cứ như sợi chỉ
Gạch sân đền ấm lên ửng má
Tiếng trẻ con non màu lá mạ
Vệt mồ hôi tươi mưởi quệt ngang mày.

Thật tuyệt vời thằng cháu ông Đương
Ngón tay cái rất to cho được vào lỗ mũi
Ra đây nhảy dây, ra đây trốn đuổi
Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn.

Hoa mẫu đơn cũng tưng bừng í ới
Khói hương bài thơm tỉ tê lân la
Cây vun tán lên vun xôi đóng oản
Gió liu riu cho thấm tháp chan hòa.

Chợt ngẫm thấy trẻ em là giỏi nhất
Làm được buôie chiều rất giống ban mai
Thánh cũng hân hoan ...đố ai biết được
Ngài ở trong kia hay ở ngoài này

----------------------------

Cửu Long giang ta ơi

NGUYÊN HỒNG

Ngày xưa ta đi học
Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa thu
Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ
Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ

Bản đồ mới tường vôi cũng mới
Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao
Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ
Ðưa ta đi sông núi tuyệt vời

Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu
Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số mông mênh
Nguồn tự Trung Hoa có Vạn lý trường thành
Có Hy Mã lạp sơn, Ðộng Ðình hồ, Tây du, Thủy Hử
Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn
Rừng Lào- Miên rộng quá
Dân Lào - Miên mến yêu
Xôi nếp nước trong sẵn sàng chia bạn đói
Ta đi...bản đồ không còn nhìn nữa
Sáng trời thu lại còn bướm với trời xanh
Trúc đào tươi chim khuyên riả cánh sương đọng long lanh
Ta cởi áo lội dòng sông ta hát
Mê Kông chảy Mê Kông cũng hát
Rừng núi lùi xa
Ðất phẳng thở chan hòa
Sóng tỏa chân trời buồm trắng
Nam bộ
Nam bộ
Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng...
Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa
Bến nước Mê kông tôm cá ngập thuyền
Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên
Suối mát dội trong lòng dừa trĩu quả

Mê Kông quặn đẻ...
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lau thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà tiên, Gia định, Long Châu
Những Gò công, Gò vấp, Ðồng tháp, Cà mau
Những mặt đất
Cha ông ta nhắm mắt
Truyền cháu con không bao giờ chia cắt
Ta đã lớn
Thầy giáo già đã khuất
Thước bản to nay thành cán cờ sao
Những tên làm man mác tuổi thơ xưa
Ðã thấm máu của bao hồn bất tử
Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú
Những bông hoa dân tộc anh hùng
Mười sáu tuổi xanh
Em Ðuốc Sống đốt mình phá tan kho giặc
Võ thị Sáu vùng răng cắn chặt
Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng
Ðạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non
Ðỏ thắm nụ cười
Chào Bác Hồ và Việt nam bất diệt.
Ðêm nay
Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát
Sao khuya lấp lánh
Lửa chài thức sáng nhịp hát hò ơ
Ðồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru
Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát.....

-------------------------

Đêm nay Bác không ngủ

MINH HUỆ


Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ

Lặng yên bên bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm
Trời thì mưa lâm thâm
Mái lều gianh xơ xác

Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm

Rồi Bác đi dém chăn
Từng người, từng người một
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng

Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao ***g lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng

Thổn thức cả nỗi lòng
Thầm thì anh hỏi nhỏ:
- Bác ơi, Bác chưa ngủ
Bác có lạnh lắm không?

- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Vâng lời anh nhắm mắt
Nhưng bụng vẫn bồn chồn

Không biết nói gì hơn
Anh nằm lo Bác ốm
Lòng anh cứ bề bộn
Vì Bác vẫn thức hoài

Chiến dịch hãy còn dài
Đường hầm lắm dốc lắm ụ
Đêm nay Bác không ngủ
Lấy sức đâu mà đi!

… Lần thứ ba thức dậy
Anh hốt hoảng giật mình
Bác vẫn ngồi đinh ninh
Chòm râu im phăng phắc

Anh vội vàng nằng nặc:
- Mời Bác ngủ Bác ơi
Trời sắp sáng mất rồi
Bác ơi, mời Bác ngủ.

- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Bác thức thì mặc Bác
Bác ngủ không yên lòng

Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn

Trời thì mưa lâm thân
Làm sao cho khỏi ướt
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau

Anh đội viên nhìn Bác
Bác nhìn ngọn lửa hồng
Lòng vui sướng mênh mông
Anh thức luôn cùng Bác

Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh.

1951

-----------------------------

Nỗi niềm Thị Nở

QUANG HUY

Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi nào dở hơi gì
Váy em sắn lệch nhiều khi cũng tình

Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền

Anh không nhà cửa bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên mơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao

Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao

Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đãm quá trăng sao lại nhoà
Người ta mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh

Thôi rồi đắt lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm./.

Lời bình:
Bài thơ in năm 1992 trên báo Văn Nghệ được rất nhiều người chuyển tay nhau đọc và rất thích thú. Khi còn là sinh viên năm thứ nhất mình tình cờ đọc được bài thơ này, lúc đầu chỉ nghĩ đây là một bài thơ châm biếm, gây cười ngộ nghĩnh thôi. Nhưng càng đọc càng thấy hay, hay không phải vì bài thơ dựa trên cốt truyện "Chí Phèo" nổi tiếng của nhà van Nam Cao, cũng không phải hay ở cách gieo vần mà hay ở ý nghĩa bài thơ mang đến cho người đọc.

Thơ ca thường nói về cái đẹp, ca ngợi cái đẹp nhất là những người phụ nữ đẹp. Một nửa thế giới là phụ nữ, phụ nữ rất đáng yêu; phụ nữ đẹp lại càng đáng yêu. Không ít nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ nghiêng nước, nghiêng thành nhưng tôi chưa từng được đọc một bài thơ nào viết về một người phụ nữ xấu cho đến khi bắt gặp bài thơ "Nỗi niềm Thị Nở" của Quang Huy (Cũng có thể có nhưng mà mình chưa được đọc Image). Quang Huy thật dũng cảm khi chọn đề tài viết về một người phụ nữ được coi là "xấu nhất trong những người phụ nữ xấu" là "tượng trưng cho người phụ nữ xấu". Đâu dễ thành công khi chọn con đường không ai chọn. Bạn là con trai, thử hỏi bạn có thích đọc một tác phẩm mà trong tác phẩm ấy các nhân vật nữ đều xấu không? Chắc chắn là không thể thích bằng đọc tác phẩm viết về toàn người đẹp rồi Image. Vậy mà Quang Huy đã rất thành công khi chọn thể thơ lục bát để nói về Thị Nở:
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi, nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình

Bốn câu mở đầu đã làm tăng thêm giá trị con người Thị Nở. Thị Nở đã vượt lên trên sự dè biểu, chê bai thị phi của miệng lưỡi thế gian, thị đã có được sự tự tin về giá trị bản thân, về giá trị con người trong cộng đồng. Thị không thèm chấp miệng lưỡi thế gian, không nhận mình là dở hơi mà thị đã biết tìm ra cái đẹp của riêng mình "Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình". (Thị Nở mặc váy còn đẹp nữa là, thảo nào mà thấy phụ nữ thích mặc váy Image) Quang Huy đã khai thác được cách nghĩ của người bình dân là phát huy được điểm mạnh của mình. Có ai đó đang sung sướng tự hào khoe vợ mình xinh, vợ mình đẹp chắc cũng điếng người khi nghe đến câu "Tắt đèn nhà tranh cũng như nhà ngói".

Thị Nở và Chí Phèo là hai nhân vật song hành của Nam Cao. Nói đến Thị Nở người ta nghĩ ngay đến Chí Phèo và ngược lại. Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn nhưng Chí Phèo không chê là được rồi. Chí Phèo dưới con mắt của dân làng Vũ Đại ngày ấy là một kẻ bất lương, suốt ngày say khướt, chửi đổng và rạch mặt ăn vạ:
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày

Chỉ có Thị Nở hiểu được vẻ đẹp bên trong con người Chí Phèo "Chỉ mình em biết anh say rất hiền". Tư cách của nhân vật Chí Phèo được đẩy cao thêm trong khổ thơ tiếp theo:
Anh không nhà cửa, bạc tiền
Không ưa luồn cúi, không yên phận nghèo

Chí Phèo một con người ở đáy của xã hội, vậy mà Thị Nở vẫn tìm thấy những nét rất đẹp trong con người hắn, vẫn thấy hắn "rất hiền", người ta vẫn thường nói rằng lúc say là lúc con người ta sống thật nhất với chính mình. Lúc say Chí Phèo "rất hiền" bởi lẽ bản chất hắn vốn lương thiện, hiền lành. Thị không những thấy hắn rất hiền mà còn thấy hắn tuy nghèo khổ nhưng không ưa luồn cúi. Thị đã làm được cái điều mà dân làng Vũ Đại ngày ấy không ai làm được đó là biết "gạn đục khơi trong". Nếu cả làng Vũ Đại ai cũng nhận ra những nét đẹp trong con người Chí Phèo thì có lẽ hắn đã không trở thành kẻ bất lương đến thế và kết cục câu chuyện cũng không bi thảm đến thế.

Đã bao giờ bạn tự hỏi mình liệu có nhìn nhận đánh giá đúng giá trị của những người xung quanh bạn chưa? Đã bao giờ bạn tự hỏi bạn có bỏ qua được vẻ về ngoài, bỏ qua những tính xấu của những người xung quanh để hiểu được giá trị đích thực của tâm hồn họ, của con người họ chưa? Tôi không dám khẳng định là tôi làm được điều đó với tất cả mọi người. Tôi có một một số người bạn bị nhiều người ghét vì họ không có vẻ bề ngoài hào hoa, vì họ có một số tính mà người khác không thích nhưng tôi yêu quý họ vì tôi thấy được những nét đẹp trong tính cách của họ (có lẽ là vì mình cũng biết gạn đục khơi trong Image). Bạn hãy tìm hiểu những người xung quanh bạn đi bạn sẽ thấy rất thú vị vì tính cách của con người ta giống như nguyên lý tảng băng trôi "Có 3 phần nổi,7 phần chìm". Vì thế đừng vội đánh giá người ta qua vẻ bề ngoài hay qua những gì người ta thể hiện. (Lại lan man rồi đấy Image).

Trở lại với bài thơ, có lẽ chính vì Thị Nở tìm ra những nét đẹp bên trong con người Chí Phèo nên Thị đã "yêu" hắn:
Cái tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao

Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao!

Khi đã yêu con người ta thấy cái gì cũng đẹp, đến cái tên "Chí Phèo" cũng thật "thơ mộng", đến cái quần "ống thấp, ống cao" cũng làm Thị "nao nao đêm ngày". Câu thành ngữ "Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo" được nhà thơ vận dụng một cách sinh động và đầy sự tự tin của Thị Nở lên cao ở hai chữ "chứ sao" khá vênh váo ở cuối câu.

Bốn câu tiếp theo được viết ra một cách thanh cao bằng một sự thăng hoa tột đỉnh:
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá, trăng sao lại nhòa
Người ta... mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh

Bài thơ khép lại bằng hai câu nặng về tự biện khi tất cả các khổ thơ đều ngồn ngộn chất sống và tràn trề cảm xúc.

Phải thương xót cho những con người dưới đáy của xã hội nhà thơ Quang Huy mới viết được bài thơ giàu tính nhân văn như thế. Tính nhân văn của bài thơ tình yêu, hạnh phúc không chỉ đến với những người giàu sang phú quý, không chỉ đến với những đôi uyên ương trai tài gái sắc mà tình yêu, hạnh phúc sẽ đến với bất kỳ ai kể cả những con người ở tận cùng của xã hội. Đâu phải chỉ có những cô gái, chàng trai đẹp, tài năng mới được yêu, tình yêu, hạnh phúc sẽ đến nếu ta biết tìm kiếm, biết chia sẻ, cảm thông, biết nhận ra những điều tốt đẹp của những người sống quanh ta. Tôi thiết nghĩ con người ta sinh ra đã có ai đó dành cho mình, hợp với mình và cho dù mình có là ai đi chăng nữa cũng sẽ có người thật sự hợp với mình. Tôi vẫn tin rằng người yêu của tôi là một người hoàn toàn bình thường, không có gì đặc biệt đối với người khác nhưng thật đặc biệt đối với tôi. Đặc biệt bởi lẽ đó là người dành riêng cho tôi và tôi tin điều đó (nhưng có lẽ không đặc biệt như Chí Phèo đâu hihi) (lại lan man nữa rồi Image ).

Ở một khía cạnh nào đó, bài thơ "hạ nhiệt" một phần những cô gái trời cho nhan sắc và an ủi rất nhiều những người phụ nữ không được vừa mắt thiên hạ bởi lẽ "Cái đẹp của gương mặt con người không đơn thuần chỉ là hình thức mà còn nhờ vào sự tỏa sáng của tâm hồn và trí tuệ nữa !".

----------------------------------

Đường khuya trở bước

ĐINH HÙNG

Tôi đến đêm xưa, Em vắng nhà,
Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa .
Tôi từ viễn phố rời chân lại,
Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa .

Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,
Đêm trời, sao cũ sáng long lanh.
Lòng ta ngẫm truyện mười phương vậy:
Người gái khuê phòng kia mắt xanh?

Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,
Đời dài, mới đến nửa sầu thương.
Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,
Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương

-----------------------------

Người về

HOÀNG HƯNG

Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày

Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt

Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối

Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi

Giật mình

một cái vỗ vai

--------------------------

Đồng chí

CHÍNH HỮU

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi vốn người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đên rét chung chăn, thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo

-------------------------

Khi con tu hú

TỐ HỮU

Khi con tu hú gọi bầy,
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần,
Vườn ươm dậy tiếng ve ngân,
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,
Trời xanh càng rộng càng cao,
Đôi con tu hú lộn nhào từng không...

Ta nghe hè dậy bên lòng,
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.
Ngột làm sao, chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.

----------------------
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Lên Cấm Sơn

THÔI HỮU

Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên Yên, Đầm Hà
Về An Châu, Biển Động
Thấm thoắt hai năm qua

Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà

Quây quần bên nến trám
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đêm thâu kể triền miên:
"Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han".

Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành

Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a
Ở đây bản vắng rừng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói loà
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa.

Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui vẫn nhộn
Pháo cười luôn nổ ran

Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.

---------------------------

Lời nói dối nhân ái

TRANG THẾ HY

Gió nói với chiếc lá úa:
"Trong vòng tuần hoàn bất tận của chiếc lá,
Màu vàng của mi trong khoảnh khắc này
Là sắc đẹp vĩnh hằng của nhan sắc mùa Thu tàn phai nhanh;
Đừng buồn cái đẹp nào cũng phù du vì chỉ có cái phù du mới đẹp”
Lá biết gió nói dối nhưng lá vẫn vui vẻ bay vèo theo gió.
"CHÀNG thấy NÀNG đẹp rồi chàng mới yêu
Anh thì ngược lại, anh yêu trước rồi sau đó mới biết rằng em đẹp”
Lời nói dối ngược ngạo luật phản xạ của anh chồng làm ửng hồng đôi má cô vợ trẻ.
Cô gái nói với ông già:
“Bố đẹp lão quá! Hồi còn trai chắc bố có số đào hoa"
Ông già- héo queo như cây kiểng còi- uống lời nói dối cực kỳ khó tin của cô gái như uống
giọt nước thần có dược chất hồi xuân
Tiếc thay! những lời nói dối ta phải nghe hằng ngày lại là những lời nói dối không nhân ái.


1989

---------------------------

Gánh nước đêm

Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI

Em bước chân ra

Con đường xa tít

Con sông mù mịt

Bên vai kĩu kịt

Nặng gánh em trở ra về

Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya…

Vì chưng nước cạn nặng nề em dám kêu ai!

Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá, vá trời

Cho con dã tràng lấp bể biết đời nào xong

Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng

Nước non gánh nặng

Cái đức ông chồng hay hỡi có hay

Em trở vai này….

-------------------------

Tỳ Bà

BÍCH KHÊ

Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi

Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông

--------------------------

Gửi bác Trần Nhuận Minh

Trần Đăng Khoa

Bỏ làng ra thành phố
Hai anh em thợ cày
Thân cũng như hoa cỏ
Hồn gửi vào gió mây

Người bảo bác theo Đỗ
Em phải học Lý thôi
Bác đã bay dưới đất
Em đành đi trên giời

Bác âm thầm chìm nổi
Cùng kiếp người lang thang
Em lông nhông bầu bạn
Với kiến đen chó vàng

Bao nhiêu là giun dế
Đã khiêng vác em lên
Tên tuổi em xủng xoảng
Những mõ ran trống rền

Bác làm bông lau ngàn
Thả hồn vào hoang vắng
Khi buồn thì hát ca
Lúc vui thì im lặng

Em quẩy bầu trăng gió
Bác gánh bao nỗi người
Sóng đôi mà đơn độc
Đi mang mang trong đời

Nhưng giờ em đã chán
Những vinh quang hão huyền
Chỉ muốn làm mây trắng
Bay cho chiều bình yên

Trả niềm vui cho cỏ
Trả nỗi buồn cho cây
Lại áo tơi nón lá
Ta về với luống cày

Đất trời thì chật hẹp
Làng quê thì mênh mông
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng...

----------------------------

Thu điếu

NGUYỄN KHUYẾN

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

------------------------

Bến My Lăng

YẾN LAN

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.

Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.

Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến Má Lăng

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.

Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng

------------------------

Tháp Chàm

Văn Lê

Ngút ngàn ở giữa rừng xanh
Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn
Người xưa đã chọn mặt tường
Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng

Nắng chiều ngọn tháp đổ nghiêng
Thời gian ăn rỗng cả viên gạch hồng
Vậy mà trong thớ đất nung
Vẫn còn in đậm chân dung con người

Còn đây vũ nữ lả lơi
Trăm năm vẫn múa không người lại xem
Thần tình yêu nép bên thềm
Mũi tên số phận chưa tìm đích bay

Còn đây một mẩu cánh tay
Một bàn chân gãy, một cây gươm cùn
Một con ngựa mất yên cương
Một cây cung cháy, lửa cồn xung quanh

Những gì thuộc của chiến tranh
Chẳng còn giữ được nguyên lành, lạ không!
Bao năm gió táp mưa rừng
Vẫn không xóa được chân dung con người

Để chiều nay trước mắt tôi
Một người múa với một người đứng xem
Vô tư như một ngọn đèn
Tháp Chàm lặng lẽ sáng lên giữa rừng.

-------------------------

Ông đồ

VŨ ĐÌNH LIÊN

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người quạ

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng baỵ

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi baỵ

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

------------------------

Đèo Cả

HỮU LOAN

Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngất!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương!
Bên quán hồng quân
Người
Ngựa
Mỏi
Nhìn dốc
Ngồi than
Thương
ai
lên đường
Chầy ngày
Lạc giữa núi
Sau chân
Lối vàng xanh tuôn
Dưới cây
Bên suối độc
Cheo leo
Chòi canh
Như biên cương.
Tức
Râu
trùm
vai rộng
Không nhận ra
người làng
Rau khe
Cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Ngày thêm
Vượn hú
Đêm canh
Gặp hùm
Lang thang!
Gian nguy
Lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu nghiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng
Ông cha.
- Cầu xây chiến lũy ngất
Đây hình hài thiên hoa!
- Xâm lăng!
- Xâm lăng!
Súng
Thèm
Gươm
Khát
- Ai ngâm
Lung lay
Đêm quê nhà!
Nhớ về thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau
Bữa heo rừng
Công thui
Chấm muối
Ngủ với nhau
Sạp rừng
Nửa tối
Biệt nhau
Rừng hoang
Canh gà
Râu ngược
Chào nhau
Bên vách núi
Giặc từ Vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả
Vẫn
Giữ
Vững
Chân đèo Nam
Máu giặc
Mấy lần
Nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu...
Suối mang bóng người
Soi
Những
Về
Đâu ?!

1946
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Viếng bạn

HOÀNG LỘC

Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!

Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa *********?

Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.

Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn.
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung

-----------------------

Tiếng thu

LƯU TRỌNG LƯ

Em không nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức ?

Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ ?

Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô ?

----------------------

Nhớ rừng

THẾ LỮ

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang-san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
-- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
-- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

---------------------

Một vị tướng về hưu

NGUYỄN ĐỨC MẬU

Thôi, đã dứt đường binh nghiệp
Tuổi hưu rồi, bác ở quê
Chạnh nhớ bạn bè thuở trước
Cùng đi có đứa không về

Người vợ tuổi già như bác
Miếng trầu nhai dập chiều mưa
Hồi còn trẻ xa nhau mãi
Giờ thương biết mấy cho vừa

Huân chương xếp vào góc tủ
Nay hàm tướng tá mà chi
Tuổi già công danh xem nhẹ
Cuộc đời như nước trôi đi

Thuở trước bạn cùng súng đạn
Nay khuây hàng xóm bạn già
Bao dốc, bao rừng đã vượt
Lối mòn quanh quẩn vào ra

Ngày đi khuất bóng mẹ cha
Ngày về sửa sang mộ cũ
Âm thầm một tấc đất sâu
Hương khói tờ mờ màu cỏ

Ngôi nhà nắng mưa vẫn đó
Đàn con mỗi đứa một nơi
Nếu không có trẻ hàng xóm
Tuổi già hẳn nhiều đơn côi

Những đêm gió thổi buốt trời
Vết thương cũ còn đau nhức
Ôi sư đoàn xưa giờ đâu
Người cũ, ai còn, ai mất?

Về hưu giờ thôi quyền chức
Ai người nhớ bác, lại chơi
Ai kẻ xa lòng, tránh mặt
Niềm riêng một mảnh trăng trời

------------------------

Những mùa trăng mong chờ

LÊ THỊ MÂY

Thư anh tin ngày về
Cho vầng trăng hẹn mọc
Trong ngần cao hoa thơm
Mây chớm màu tha thiết
Trăng non nghiêng qua rồi
Bom rung vầng trăng khuyết
Xô thuyền trong xa xôi
Giữa gập nghềnh núi biếc
Anh khoác balô về
Ðất trời dồn chật lại
Em tái nhợt niềm vui
Như trăng mọc ban ngày
Gặp nhau tròn mùa trăng
Em trẻ như bầu trời
Vòng tay anh đằm thắm
Giầu lời ru trên môi
Mai lại tiễn xa nhau
Vầng trăng cong chẽn lúa
Ðêm đêm chín ngàn sao
Rỏ vào tim giọt lửa
Mong chờ em mong chờ
Vầng trăng xinh ... gương mặt
Sáng sáng đầy theo anh
Suốt chặng đường đánh giặc

-------------------------

Dặn con

TRẦN NHUẬN MINH

Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn

Nhà mình sát đường, họ đến
Có cho thì có là bao
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương họ ở nơi nào

Con chó nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán

Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này...

(Cửa Lục Thủy 13–11–1991)

---------------------------

Hội Lim

VŨ ĐÌNH MINH

Tôi trót biết đời riêng em trắc trở
Nên hội này nghe hát chẳng vô tư
Nón thúng quai thao em thẹn thò che má
Hát đắm say cho đứt ruột gan người
Hát như thể cuộc đời toàn nhàn hạ
Chỉ để yêu, để nhớ, để thương thôi
Xin gió lạnh đừng lật nghiêng vành nón
Kẻo tôi nhìn thấy nước mắt em rơi.

-----------------------

Khóc người vợ hiền

TÚ MỠ

Bà Tú ơi! bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai.
Ðâu bóng dáng con người thùy mị,
Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,
Vẫn còn khỏe mạnh, vui tươi
Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh
Nhìn sau lưng, vô tình cứ ngỡ
Một cô nào thiếu nữ thanh tân
Vậy mà cái chết bất thần
Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!
Kể từ thuở đôi ta kết tóc,
Thắm thoắt gần năm chục năm qua
Thủy chung chồng thuận vợ hòa
Gia đình hạnh phúc, thật là ấm êm
Tôi được bà vợ hiền thuần thục
Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!
Ðôi ta cùng một cảnh nghèo
Ðạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.

Nhớ khi giường bệnh đã nằm
Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng
"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ
Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta
Xưa nay con cái nuôi cha
Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông"
Bà ơi! hãy dầu lòng yên dạ
Giấc nghìn thu cho thỏa vong hồn
Bà đi, đã có dâu con
Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ
Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh
Khổ khi thức giấc tàn canh
Bên giường trống trải một mình nằm trơ
Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước
Pha ấm trà chén nước mời nhau
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...

Khổ những lúc ra sân, mê tỉnh
Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang
Mà bà khuất núi cho đang
Qủa cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?
Khổ trông thấy cái cơi còn đó
Ðã khô trầu, khô vỏ, khô cau
Ba thước đất đã vùi sâu
Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi
Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng
Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu
Không ngờ con tạo cơ cầu
Bà đi, để tủi để sầu cho tôi
Ôi! duyên nợ thế thôi là hết
Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau!
Bà về trước, tôi về sau
Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui
Bà đi rồi nhưng tôi phải ở
Công việc đời còn dở tí thôi
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...

----------------------

Cuộc chia ly màu đỏ

NGUYỄN MỸ

Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ.
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa

Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đang hừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai...

Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã tỏa sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những lá si
Và người chồng ấy đã ra đi...
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói, tôi nghe những tiếng thì thào
"Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau..."

Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...

-------------------------

Quê Hương

GIANG NAM

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Những ngày trốn học
Ðuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được..
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích..
Cách mạng bùng lên,
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Ðơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật!
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Ðau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Thị Màu

ANH NGỌC

Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo
Người không hề biết sợ
Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo
Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng
Người trung thực đến không cần giấu giếm
Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa

Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa
Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo
Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu
Nên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Người đi qua nghiêng ngả những trận cười
Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa
Người chịu hết mọi thói đời độc địa
Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung

Trên môi người câu hát cứ trẻ trung
Từng sợi tóc cũng rung theo nhịp phách
Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt
Người đi qua sân khấu tới đời thường

Người sống trong hơi thở của nhân dân
Mấy trăm năm ai để thương để giận
Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn
Nhịp trống gầm lên những khát vọng không lời

Những khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim người
Được sống đúng với lòng mình thực chất
Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Màu

Những cánh màn đã khép lại đằng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
Bao Thị Màu đã trở về đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi .

---------------------------

Nhớ

HỒNG NGUYÊN

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến.
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập!
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu...

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược, mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau
Có tiếng gà gáy xóm
Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn"
Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa
Trăng lên tập hợp hát om nhà...
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ
Đồng chí mô nhớ nữa
Kể chuyện Bình Trị Thiên
Cho bầy tôi nghe ví
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri!

Đêm đó chúng tôi đi
Nòng súng nghiêng nghiêng
Đường mòn thấp thoáng...
Trong Điếm nhỏ mươi người trai tráng
Sờ chuôi lựu đạn
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi...

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ri
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
"Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc"!

1948


Lời bình của nhà thơ Trịnh Thanh Sơn

Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.

Vì sao bài thơ lại có sức ám ảnh và vang động như vậy trong lòng người đọc? Lý giải điều đó tưởng không dễ dàng, song không phải là không làm được, nhất là sau hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bài thơ ra đời. (1948?)

Bài thơ có tất cả 62 dòng thơ, dòng dài nhất có 10 chữ (Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa), dòng ít nhất có hai chữ (- Đằng nớ? ) và được chia làm ba khổ thơ mạch lạc, khúc triết, có mở có khép và có phát triển ở khoảng giữa thân bài. Cả bài thơ giống như "kịch bản phân cảnh" của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Vậy trong đoàn quân ấy có bao nhiêu người, họ là những ai? Vào đầu bài thơ, nhà thơ không ngần ngại, giới thiệu luôn:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một, hai"
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài

Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Thế đấy, chúng tôi tự giới thiệu về chúng tôi như thế đấy! Số lượng của chúng tôi không được công bố cụ thể (có lẽ vì bí mật quân sự), nhưng chúng tôi khá đông đảo (lũ, bọn) và trình độ văn hóa còn thấp (chưa biết chữ), trình độ quân sự cũng chưa cao (súng bắn chưa quen), song chúng tôi có nhiệt tình cách mạng, có ý chí chiến đấu và rất lạc quan (lòng vẫn cười vui kháng chiến).

Bằng giọng tự trào đầy hóm hỉnh, nhà thơ đã tự giới thiệu về đồng đội của mình vừa chuẩn xác, vừa chân thành và đáng yêu biết bao. Những con người ấy vừa từ luống cày bước ra, từ sau lũy tre làng bước tới cũng hệt như những người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu, từ nước mặn đồng chua, từ đất đồi cày lên sỏi đá, tụ tập về đây theo một tiếng gọi thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí chiến đấu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như chả có trang bị, vũ khí gì đáng kể:

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh...

Tôi không có cứ liệu trong tay để chứng minh bài thơ được viết vào năm 1948, nhưng tôi có câu thơ của Hồng Nguyên nói rõ điều đó:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Nếu tính từ mùa Thu Tháng Tám 1945, ba năm rồi gửi lại quê hương , ắt phải là năm 1948, mà cũng mùa thu nữa kia. Sao vậy? Bởi vì đến những ngày kỷ niệm cách mạng, các nhà thơ mới hay làm thơ! Thơ để in báo, thơ để tuyên truyền, cần phải trúng dịp, chứ sao!

Trong cuộc hành quân liên miên của đoàn quân ấy, thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê là cũng hiện lên trong nỗi nhớ:

Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Nói theo ngôn ngữ điện ảnh, đây là một cảnh phim "phục hiện" có sức khái quát và ám ảnh rất cao. Cú máy đặc tả gót chân người vợ trẻ:

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Cái tình thương nhớ thiết tha đau đáu chỉ diễn tả bằng hình, một khuôn hình đặc tả, tài vậy thay! Và đây là phim câm, phim không lời!

Cuộc hành quân vẫn tiếp tục, với những gian khổ, nhọc nhằn, nhưng cũng đầy lạc quan phấn khởi, có khi còn thơ mộng nữa, nếu như được nhìn thấy "mấy o thôn nữ cuối nương dâu", nếu như, vào lúc nghỉ ở lưng đèo, những người lính trẻ nói chuyện bù khú về vợ con và cười sảng khoái, cười đến vang ruộng bắp:

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu...

Sang đoạn thơ thứ hai, bài thơ mở ra với những câu thơ dài rộng, thể hiện sự tiếp xúc và lớn vượt của đoàn quân với nhân dân và đất nước. Tầm mắt mở rộng hơn, tâm hồn mở rộng hơn và nhờ thế lòng lạc quan, yêu đời cũng càng thêm phơi phới. Bao nhiêu gặp gỡ, tiếp xúc, bao nhiêu cảnh sắc, nếp sinh hoạt ở từng miền quê lũ lượt ùa vào thơ như những cánh phim toàn rộng. Lời thơ thanh thoát, thảnh thơi, hơi thở điệp trùng, cuồn cuộn:

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
... Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Tình quân dân cá nước giản dị mà vô cùng thắm thiết, gần gũi:

... Có tiếng gà gáy sớm
Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn"
Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa...
Trăng lên tập họp hát om nhà.

Bao nhiêu kỷ niệm về những làng quê, về những con người và những tấm lòng thơm thảo của những miền đất lạ đã in đậm trong tâm hồn người chiến sĩ. Những kỷ niệm ấy sẽ vĩnh viễn không phai mờ theo năm tháng, bởi vì nó cụ thể, nó hiển hiện trước mắt ta như sờ thấy được:

Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ...

Tuy nhiên, đường hành quân còn dài, sau những phút giây nghỉ ngơi, đoàn quân lại lên đường, lặng lẽ vào một đêm trăng lu, "nòng súng nghiêng nghiêng, đường mòn thấp thoáng". Các anh ra đi vì nhiệm vụ nặng nề mà đất nước giao cho, nhưng tấm lòng còn ở lại:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
"Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!"

Câu thơ ấy chợt gợi nhớ đến câu thơ rất hay, rất đồng vọng của Hoàng Trung Thông:

Các anh đi đến khi nào trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong...

(Bộ đội về làng)

Và một cộng hưởng của thơ Hữu Loan:

Một làng xa nho nhỏ
Đẹp như nơi hẹn hò
Có đôi lòng gắn bó
Những lời chưa nói ra...

(Những làng đi qua)

Cái mô típ: Những người lính hành quân - Những xóm làng đi qua - Những kỷ niêm thôn làng - Hẹn ngày trở lại , ta gặp rất nhiều trong thơ kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu.

Tuy nhiên, cùng mô típ ấy, ở mỗi nhà thơ thể hiện mỗi khác và có những thành công khác nhau. Với Nhớ của Hồng Nguyên, bằng việc mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói , ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.

Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều thú vị nhất là, chỉ cần đem phân

-------------------------------

Trời và Đất

PHAN THỊ THANH NHÀN

Chiều nay chắc giận em ghê lắm
Anh bực mình triết lý lung tung
Hai đứa ta như trời với đất
Tính tình sao xung khắc vô cùng

Vâng, trời đất chẳng hề thân thiết
Và tính tình có giống nhau đâu
Trời vui buồn ồn ào lộ liễu
Đất trầm tư suy nghĩ trước sau

Anh ơi! Nếu ví được cao xa như thế
Em cũng chẳng là trời đất gì đâu
Nhưng anh có biết không? trời đất
Sẽ chẳng là gì nếu thiếu nhau

Nhưng trời đất dẫu cao xa ***g lộng
Tính vẫn thường bồng bột đổi thay
Khi giận dữ bão nghiêng đất lở
Bão tan rồi trời xanh ngây thơ

Đất khiêm nhường màu xanh lay động
Và thẳm sâu lặng lẽ sinh sôi
Trên mặt đất chính là cuộc sống
Có cần chi biện bạch nhiều lời.

-------------------------

Người đàn bà ngồi đan

Ý NHI

Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
vội vã như thể đó là lần sau chót
Không thở dài
không mỉm cười
chị đang giữ kín đau thương
hay là hạnh phúc
lòng chị tràn đầy niềm vui
hay là ngờ vực
Không một lần chị ngẩng nhìn lên
chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt
hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo
trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
dưới chân chị
cuộn len như quả cầu xanh
đang lăn những vòng chậm rãi

1984

----------------------

Nhớ máu

TRẦN MAI NINH

Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại - lưng chừng
Gió nghỉ,
Gió cười,
Gió reo lên ***g lộng.

Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.

Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.

Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,,,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuỗi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày

Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giũ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!

Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!

Dao găm để gáy,
Súng màng tang

Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng

---------------------

Mẹ

Nguyễn Ngọc Oánh

Cành bàng thả lá heo may
Mẹ gầy, cái dáng khô gầy cành tre
Gót chai nứt nẻ đông hè
Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân

Mẹ ngồi vá áo trước sân
Vá bao mong ước, tay sần mũi kim
Bát canh đắng lá chân chim
Lẫn vài con tép Mẹ tìm dành con

Co ro một mảnh chăn mòn
Tàn đêm giấc ngủ hãy còn ngoài chăn
Mẹ gom giẻ rách, giấy manh
Mặc đôi quang thủng giữ lành tiếng rao

Áo nâu phơi vẹo bờ rào
Cái phận đã bạc còn cào phải gai
Quả cà cõng mấy củ khoai
Con thút thít, Mẹ nghẹn hai ba lần

Tối về đến lớp bình dân
I tờ nhặt được đôi vần lại rơi
Cha con trời gọi về trời
Chái nhà mưa dột, ướt lời ru thương

Tiễn con ra chốn chiến trường
Gạt thầm nước mắt mong đường con khô
Hai tay hết sẻ lại cho
Còn phần Mẹ-một thân cò qua sông…

-----------------------

Mây và bông

NGÔ VĂN PHÚ

Trên trời mây trắng như bông,
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây
Những cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.

------------------------

Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương

VIỆT PHƯƠNG

I

Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui

Ngừng đập trái tim tột bậc con người
Cây cỏ đất trời không thật nữa
Mặt ta nhìn sắc màu cũng giả
Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi

Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác
Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này
Quanh người con và trong con tất cả đều bỗng khác
Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây
Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất
Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây.

Con chim đuôi dài được Bác chở che vẫn bay về trước cổng
Cây vú sữa đầu nhà đang xòe rộng tán sum suê
Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn lại ngoi lên đớp sóng
Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về

Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi ***g lộng
Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao
Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng
Lê-Nin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào

Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao lên đẹp lắm
Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan
Mua bia đã bớt xếp hàng và anh em còn cố gắng
Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam

Con trữ các loại tin đứng chờ đây mong từ Bác một lời ánh sáng
Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm
Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng
Khỏe mạnh hồng hào trong nắng óng vườn cam

II

Đêm nay nghìn vạn chúng con xếp thành hàng đi viếng Bác
Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này
Chúng con đi cho cả người vắng mặt
Người chưa sinh người đã khuất cũng về đây
Việt Nam đau cả lòng người dạ đất
Sao mùa thu như nước mắt trời mây
Chúng con đi theo tiếng người phía trước
Đường Hùng Vương dân tộc đi từ dựng nước đến ngày nay

Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên đánh tiếng cồng thương xót
Những con nước Cửu Long bát ngát đợt Cha về
Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong bỗng bồi hồi kinh ngạc
Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe
Về đây những tấm lòng trung kiên trong chuồng cọp
Vết tím bầm thân ghi tạc những câu thề
Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót
Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê

Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ
Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần
Những o gái Vĩnh Linh đầu tuyết lửa
Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm
Ông ké già nhà bên chân Pác Bó
Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân
Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ
Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần
Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả
Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân

III

Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn mấy quả cà xứ Nghệ
Tránh nói chữ to và đi nhẹ cả trong vườn
Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể
Đến bên Người ta thở dễ dàng hơn

Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn
Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ
Sấm sét im cho nắng ấm chối non

Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là "đánh đẹp"
Con xóa chữ "đẹp" đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con
Thêm hiểu lòng Người đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mong ôm hết mọi linh hồn

Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng
Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm thôi không nóng trên bàn
Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa tập trèo sườn núi vắng
Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam

Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam và thế giới
Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà
Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi
Vẫn lo toan tháo cởi những bất hòa
Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi
Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa

IV

Ôi lòng Bác bao la trong di chúc
Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường
Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất
Người được thương trên tất cả người thương
Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc
Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt
Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường
Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt
Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương

Ôi ta khóc tìm giọt lệ hóa câu nguyền
Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế
Nỗi đau này cao cả thiêng liêng

Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức
Cho đời ta và lớp lớp đời sau
Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam ân hận

chưa được chào đón Bác

Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau
Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt
Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên đánh giặc ở tuyến đầu

Sao bao năm đồng chí với Người, con gọi Người Đồng chí
Là khi con vĩnh biệt Người, Đồng chí, Bác Hồ ơi
Con nguyện làm một mảnh của Người, đến trọn đời tận tụy
Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam và vô cùng

chung thủy con người

Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên, vẫn nắng Ba Đình trong veo

Người đem về năm trước

Ta thề mang ánh nắng này đến nhà mẹ già ở tận chót Cà Mau
Những biên đội không quân như hình ảnh dân tộc ta lượn quanh

Người, lớn vượt

Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.

--------------------------

Đợi

VŨ QUẦN PHƯƠNG

Anh đứng trên cầu đợi em
Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm
Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy
Nước chảy bên lòng, anh đợi em

Anh đứng trên cầu nắng hạ
Nắng soi bên ấy lại bên này
Đợi em. Em đến? Em không đến?
Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!

Anh đứng trên cầu đợi em
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời đất quen thành lạ
Nước chảy... kìa em, anh đợi em.

-------------------

Tên làng

Y PHƯƠNG

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ

Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên

Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên

Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Lời mẹ dặn
PHÙNG QUÁN

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn,

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn,
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi –
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.

- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
- Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc cứ khóc.

Yêu ai cứ bảo là yeeu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.

Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời,
In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thủa lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đó.

Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yeeu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật chọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.

-------------------------

Có khi nào

BÙI MINH QUỐC

Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đã đợi từ lâu...

------------------------

Tự hát

XUÂN QUỲNH

Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nếu cần anh bán nó đi ngay

Em cũng không mong nó giống mặt trời
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống
Lại mình anh đi với đêm dài câm lặng
Mà lòng anh xa cách với lòng em

Em trở về đúng nghĩa với trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khoảng cách của yêu tin

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu.

Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh

Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.

------------------------

Áo lụa Hà Đông

NGUYÊN SA

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã v ẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.

Em không nói đã nghe lừng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt

Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày thắng trên vai buồn bỗng nặng.

Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữa hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

---------------------------

Bài thơ của một người yêu nước mình

TRẦN VÀNG SAO

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày
Ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông mía trắng bên sông
Mùa tót khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trứơc sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống
Vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tầu
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa

-------------------------

Người đẹp

LÒ NGÂN SỦNG

Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào lại thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào lại thấy mát
Người không khát - nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn chết nữa.

--------------------

Đồng dao cho người lớn

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời

Có câu trả lời biến thành câu hỏi
Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

Có cha có mẹ có trẻ mồ côi
Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

Có cả đất trời mà không nhà ở
Có vui nho nhỏ có buồn mênh mông

Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

Có thương có nhớ có khóc có cười
Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi

-----------------------

Tống biệt hành

THÂM TÂM

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ
Chí lớn không về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt
Một chị, hai chị đều như sen
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay
Trời chưa là thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay ...

Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay

----------------------

Dấu chân qua trảng cỏ

THANH THẢO

Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang

Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường

Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?...

Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên

Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.

Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường…

-----------------------

Đất nước

NGUYỄN ĐÌNH THI

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!

----------------------

Những người đàn bà gánh nước sông

NGUYỄN QUANG THIỀU

Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi

Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi

--------------------------

Nghe tiếng cuốc kêu

HỮU THỈNH

Những đám mây bay đi
Tôi với người ở lại
Cuốc kêu ngoài bến sông

Cuốc kêu vì bẫy hiểm
Bèo leo nheo nước lên
Tôi âm thầm gọi tên
Bàn ghế và quần áo cũ
Tuổi trẻ đột ngột về
Ngơ ngác nhìn tôi
Những cánh diều để chỏm
Vui hơn điều đáng vui
Bánh đa phồng giữa chợ
Che bớt một phần buồn
Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc
Xe pháo mã những ngả đường xa lắc
Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu.
Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc
Cha tôi nhào đất đắp đường

Ông táo bằng đất
Chiếc chén bằng đất
Những người uống rượu lần lượt bỏ đi
Cha tôi cầm chiếc chén lên
Như cầm một phần đời mình
Đã khô ra thành đất

Cuốc kêu ngoài bãi xa

Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng
Trên đất ướt có người đến ở
Họ bắt đầu như một chiếc rễ nâu
Họ làm ra mọi thứ để nuôi nhau
Mong con cái có ngày mở mặt
Trời tối thì cậy ngọn đèn
Ngọn đèn bấc thắp bằng đầu lạ
Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất

Cuốc kêu ngoài bến xa!

Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
Đi theo một sợi tơ hồng
Về với anh thành vợ thành chồng
Tình yêu nhiều đứt nối
Ta xin rừng một chiếc giường con
Xin đất một chiếc ấm nhỏ
Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em trát những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
Áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vỏ võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế

*

Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần sau đám tang

Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.
Giếng nước than lắm kẻ chao chân
Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời

Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
Tôi ngồi buồn như lá sen rách

Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay

Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều.

Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.

Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc

-----------------------

Bao giờ trở lại

HOÀNG TRUNG THÔNG

Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong
Làng tôi nghèo
Nho nhỏ bên sông
Gió bắc lạnh lùng
Thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về
Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
Anh giờ đánh giặc nơi đâu
Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên
Làng tôi thắng lợi vụ chiêm
Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng
Giảm tô hai vụ vừa xong
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường
Dẫu rằng núi gió đèo sương
So anh máu nhuộn chiến trường thấm chi

Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình
Cây đa, bến nước, sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào

Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong
Chờ mong chiến dịch thành công
Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ
Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?

-----------------------

Bờ sông vẫn gió

TRÚC THÔNG

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
một lần cuối ... một lần về cuối thôi.
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần.
Con xin ngắn lại đường gần
một lần ... rồi mẹ hãy dần dần đi ...

-------------------------

Bến đò ngày mưa

ANH THƠ

Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.

Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng so ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.

Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.

-----------------

Thăm lúa

TRẦN HỮU THUNG

Mặt trời càng lên tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo đầu ngọn cỏ
Sương lại càng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót
Tiếng chim nghe thánh thót
Văng vẳng khắp cánh đồng
Đứng chống cuốc em trông
Em thấy lòng khấp khởi

Bởi vì em nhớ lại
Một buổi sáng mai ri
Anh tình nguyện ra đi
Chiền chiện cùng cao hót
Lúa cũng vừa sậm hột
Em tiễn anh lên đường
Chiếc xắc mây anh mang
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
Vượt cánh đồng tắt ngang

Đến bờ ni anh bảo:
- “Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt”
Xa xa nghe tiếng hát
Anh thấy rộn trong lòng
Sắp đến chỗ người đông
Anh bảo em ngoái lại

Cam ba lần có trái
Bưởi ba lần ra hoa
Anh bước chân đi ra
Từ ngày đầu phòng ngự
Bước qua kì cầm cự
Anh có gửi thư về
Cầm thư anh mân mê
Bụng em giừ phấp phới
Anh đang mùa thắng lợi
Lúa em cũng chín rồi
Lúa tốt lắm anh ơi
Giải thi đua em giật

Xoè bàn tay bấm đốt
Tình đã bốn năm ròng
Người ta bảo không trông
Ai cũng nhủ đừng mong

Riêng em thì em nhớ
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được

Mùa sau kể mùa trước
Em vác cuốc thăm đồng
Lúa sậy hạt nặng bông
Thấy vui vẻ trong lòng
Em trông ngày chiến thắng.
 

Dâu Tây

Xe tải
Biển số
OF-16605
Ngày cấp bằng
23/5/08
Số km
233
Động cơ
511,820 Mã lực
Tuổi
35
Nơi ở
Tuyên Quang
Website
www.facebook.com
Cổ Lũy Cô Thôn

Tưởng nhớ Bích Khê

NGUYỄN THỤY KHA

Bên kia là Thu Xà
mộ Bích Khê cỏ úa
Cổ Lũy Cô Thôn
hàng dừa xa xăm nước mắt

Không mất đi đâu trong vô
hình kia những cuộc giao tranh
còn bạc trên cát, còn đỏ trên đất
giọt nắng chưa lụi tàn
không dễ gì quên đi được
câu thơ còn vương cây ngô đồng
không dễ gì xóa đi người xa ấy
như xóa bụi gương

Vùng cửa sông chiều nay im ắng quá
những đồng mía hồn ai lay
Cổ Lũy Cô Thôn cùng nấm mộ thi nhân
giấu niềm riêng số phận
tre đang ngâm trong bùn đen ngày tháng
chờ đợi vút lên cao cao ngôi nhà
gió như ai tát một cái cực đau
lại vuốt ve tha thứ.

-----------------------

Nói sao cho vợi

THU TRANG

Pari tối nay tuyết đổ
Rơi rơi phủ trắng phố phường
Hoa đèn tăng phần rực rỡ
Kinh thành bát ngát sắc hương

Ánh sáng ắt hẳn màn sưonưg
Chen chân trên khắp ngả đường
Vui tươi trai thanh gái lịch
Hồn nhiên họ đón xuân sang

Chân bước mà lòng miên man
Quê ơi xa cách muôn vàn
Không khóc mà lòng thổn thức
Nói sao cho vợi niềm thương

Pari bát ngát sắc hương
Quê tôi giờ này ai biết
Chắc bên mái tranh đạm bạc
Vườn rau là bãi chiến trường

Tôi đi giữa vầng ánh sáng
Nhìn thiên hạ đón xuân sang
Nghe câu hỏi thầm đau buốt
Bao giờ mùa xuân Việt Nam?

Bao giờ xuân Thanh bình sang?
Mùa xuân thống nhất quê hương
Mùa xuân Tự do Độc lập
Mùa xuân không đượm tóc tang!

Trong hồn day dứt mênh mang
Quê tôi miền Bắc miền Nam
Chắc đang hào hùng chiến đấu
Ngăn bàn tay giặc hung tàn

Giữa muôn hương sắc huy hoàng
Tôi không thấy mùa xuân sang
Hồn tôi ở phương trời ấy
Tôi đợi mùa xuân Việt Nam!

----------------------

Mưa đêm lều vó

TRẦN HUYỀN TRÂN

Tiễn người ra cửa rồi
Tôi quay vào lặng lẽ
Chợt thấy mình cô đơn
Giữa ngổn ngang bàn ghế

Khi người không yêu ta
Buồn đã thành một nhẽ
Khi ta không yêu người
Sao cũng buồn đến thế

Như đánh mất điều gì
Lòng bâng khuâng khó tả
Như thể mắc nợ ai
Món nợ không thể trả

Có lẽ ta thương người
Giờ này đang lủi thủi
Hay là ta thương ta
Từng chịu nhiều hắt hủi

Ngỡ chẳng có gì đâu
Mà sao thành rắc rối
Tất cả chỉ một lời
Nói hay là không nói

Bởi đơn giản thế thôi
Biết làm sao cho được
Khi người thì yêu tôi
Còn tôi yêu người khác.

----------------------

Bên mộ Cụ Nguyễn Du

VƯƠNG TRỌNG

Tưởng rằng phận bạc Ðạm Tiên
ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Ðiền nằm đây
Ngẩng trời cao, cúi đất dày
Cắn môi tay nắm bàn tay của mình
Một vùng cồn bãi trống trênh
Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề

Hút tầm chẳng cánh hoa lê
Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non
Xạc xào lá cỏ héo hon
Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi
Lặng im bên nấm mộ rồi
Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm

Không cành để gọi tiếng chim
Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời
Không vầng cỏ ấm tay người
Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu

Thanh minh trong những câu Kiều
Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân
Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân
Phong trần còn để phong trần riêng ai
Bao giờ cây súng rời vai
Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên

Trái tim lớn giữa thiên nhiên
Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa...

-------------------------

Nhớ Huế quê tôi

THANH TỊNH

Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng.

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mát sông Hương lướt đỉnh đèo

Tôi gặp bao người xứ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
Mở đường giải phóng về quê mẹ
Dựng khắp non sông bóng xóm nhà

Có bao người Huế không về nữa.
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sỹ nâng lòng đất.
Buồm phá Tam Giang gió thổi ***g.

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành
Bao lần máu đỏ nhuộm đồng xanh
Cờ sao ngày ấy buồn cung cấm
Sông nước xôn xao núi chuyển mình

Bao độ thu về, thu lại qua
Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa
Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ
Càng giục canh sương rộn tiếng gà.

(1956)

--------------------

Màu thời gian

ĐOÀN PHÚ TỨ

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa,Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phục hàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát

---------------------

Đây thôn Vĩ Dạ

HÀN MẠC TỬ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay ...
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhận không ra ...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

--------------------

Nhớ vợ

CẦM VĨNH UI

Tôi nhớ vợ tôi lắm
Xin được về hai ngày
Nhà tôi ở Mường Lay
Có con sông Nậm Rốm

Ngày kia tôi sẽ đến
Lại cầm súng được ngay
Tôi càng bắn đúng Tây
Vì tay có hơi vợ

Cho tôi đi, đừng sợ
Tôi không chết được đâu
Vì vợ tôi lúc nào
Cũng mong chồng mạnh khoẻ

Cho tôi đi anh nhé
Về ôm vợ hai đêm
Vợ tôi nó sẽ khen
Chồng em nên người giỏi

Ngày kia tôi về tới
Được đi đánh cái đồn
Hay được đi chống càn
Là thế nào cũng thắng

Nếu có được trên tặng
Cho một cái bằng khen
Tôi sẽ rọc đôi liền
Gửi cho vợ một nửa.

-------------------------

Em tắm

BẠC VĂN ÙI

Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm?
Da của em ngần trắng
Da của ái của êm (1)
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương.
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả,
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem!
Em tắm suối giữa mường
Tắm trong mối yêu thương
Có anh đang đứng giữ
Chớ để Tây đến mường

----------------------

Một ngày ta ngoái lại

ĐINH THỊ THU VÂN

Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại
Bạn bè ơi khi ấy có còn nhau?
Cơn lốc đời đưa đẩy bạn về đâu
Ta ngoái lại tìm nhau, e mất dấu!

Ta ngoái lại tìm nhau mong ẩn náu
Góc bạn bè êm ấm, càm thông ơi
Ta ngoái lại rụng rời đôi cánh mỏi
Góc bạn bè tin cậy, bớt chơi vơi.

Ta ngoái lại tìm nhau, đừng sỏi đá
Đừng vập dùi chi nữa, trái tim hoang
Thôi đừng nhớ, đừng quên, đừng xa vắng
Xin một lần tha thứ thuở lang thang.

Tha thứ nhé, bạn ơi đừng cay đắng
Ta quẩn quanh nuôi giữ xót xa mình
Tha thứ nhé, niềm vui không vóc dáng
Thuở đam mê bạn bè khuất xa dần.

Rồi sẽ có một ngày sau tháng ngày dâu bể
Chúng mình cùng ngoái lại tìm nhau
Ta nói yêu thương khi mắt đổi thay màu
Bàn tay héo cầm lên cho ấm mãi.

Trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo
Chi xin đừng tàn lụi chút niềm tin
Dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành
Xin hãy có một ngày nhen nhóm lại

--------------------

Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

CHẾ LAN VIÊN

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn:
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và Đời im im khoa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!
Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn?
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút giây bây giờ
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng,
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ,
Thịt xương ta, giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ...
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng.
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng...
Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào ngươi, kéo pháo lên đồi,
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát,
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát,
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gần, chim cu gáy xa xa...
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt,
Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt,
Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta.
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê...
Đảng làm nên công nghiệp.
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép,
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu Tỉnh ủy Hưng Yên
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em
Cây xanh ngắt đất bạc mầu Vĩnh Phúc...
Ôi! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi, cái buổi sinh thành và tái tạo
Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo
Nhung phù sa đẻ ra những Cà Mau thịnh vượng mai sau.
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu,
Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau?
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi! Thương thay những thế kỷ vắng anh hùng,
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận,
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn,
Cả xứ sở trắng một màu mây trắng,
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?
- Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời,
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể,
Ta với mẻ thép gang đầu là lứa trẻ sinh đôi,
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười...
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ,
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi

--------------------------

Bếp lửa

BẰNG VIỆT

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa,
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà ?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế,
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi,
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi,
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Vẫn vững lòng, bà dặc cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen!
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng,
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa!

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở,
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

--------------------------

Vườn trong phố

LƯU QUANG VŨ


Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra

Vườn em là nơi đọng gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi

Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi
Một hạt nhỏ mơ hồ trên má
Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá
Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao

Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu
Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước
Nơi bài hát lên đường ta hẹn ước
Nơi góc vườn ta để quên chùm hoa

Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa
Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến
Những chân trời màu hồng những chân trời màu tím
Những ngôi sao bàng bạc cả hoàng hôn

Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi

Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa

Đến bây giờ đánh giặc anh đi xa
Nhìn lại mảnh vườn xưa thấy hẹp
Biết bao điều anh còn chưa nói được
Rối rít trong lòng một nỗi em em

Rừng rậm đèo cao anh đã vượt lên
Theo tiếng gọi con tàu ngày bé dại
Vườn không níu được bước chân trở lại
Nhưng lá còn che mát suốt đường anh

Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về.

1967

---------------------

Thương vợ

TÚ XƯƠNG

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không !
 

cupbin

Xe đạp
Biển số
OF-12426
Ngày cấp bằng
3/1/08
Số km
22
Động cơ
523,820 Mã lực
Nơi ở
BVC
Ta đã vào tình yêu không đối chất
Tuyệt vọng nào ta trót lỡ trao em
Một lần đi có bao lời chân thật
Ta vẫn từ trong ánh mắt xa xăm

Chính rằng ta một người không buông ý
Chôn cuộc tình vào đáy biển mênh mông
Có lần qua trong một chiều suy nghĩ
Tình yêu nàng tựa gió mát thênh thang

Nhưng giờ đây bao làn hương đã tắt
Như trăng tàn, nguyệt lạnh, vỡ hình trăng
Bước chân đi, mắt nàng trông hiu hắt
Lời ngọt mềm, thuở ấy, hỏi ai mang?

Em có thương một chút gì dường mất?
Chớ mang sầu chất ngất tuổi xuân em
Hãy xem ta: chiếc đèn khuya đã tắt
Ánh lửa mờ chẳng ngự trái tim em
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top