Những điểm đặc sắc trong châm trị mắt, miệng trong điều trị liệt 7
Nhận biết được đặc tính của huyệt vị là cơ sở để vận dụng tốt các huyệt vị trong điều trị lâm sàng. Huyệt vị và dược vật là hai phương pháp điều trị bệnh tật khác nhau đều chụng mục đích là điều trị khỏi bệnh tật. Dược vật có các đặc tính hàn, nhiệt, ôn, lương thì huyệt vị có các đặc tính thăng, giáng, phù, trầm, dùng huyệt như dùng thuốc, chỉ khi hiểu rõ huyệt tính và công dụng của nó thì mới có thể phát huy tối đa tính năng của huyệt vị, từ đó mà chiến thắng được bệnh tật. Do đó, trên thực tiễn lâm sàng, khi sử dụng châm cứu điều trị thì cần phải thông thạo huyệt tính, nếu không hiểu về huyệt tính thì cũng giống như kê đơn mà không biết dược tính, như vậy thì làm sao có thể điều trị bách bệnh, điều chỉnh hư thực. Vì vậy, y gia cần phải hiểu rõ tính năng của huyệt vị, thông thạo các đặc điểm của các huyệt vị khác nhau, từ đó mới có thể phối phương điều huyệt, phát huy tối đa huyệt lực. Các huyệt vị được quy thuộc về một kinh lạc, tạng phủ mà do đó chúng có các công hiệu giống nhau, đều có thể điều trị các bệnh chứng khởi phát tại kinh lạc, tạng phủ đó, đây chính là điểm chung của huyệt vị, nhưng trong cái chung đó cũng tồn tại cái riêng biệt, mỗi huyệt vị đều có thế mạnh riêng trong điều trị. Trên cơ sở nắm bắt được điểm chung về tính năng của các huyệt vị mà nhận ra được thế mạnh của mỗi huyệt vị góp phần phát huy tối đa công dụng của các huyệt vị trong điều trị, từ đó đạt được “tinh huyệt thưa châm”, nâng cao hiệu quả điều trị.
Các huyệt xung quanh mắt như tinh minh, đồng tử liêu, tứ bạch, thừa khấp đều có thể điều trị các bệnh chứng tại mắt trong liệt 7, nhưng tinh minh thiên về thanh nhiệt mà phát huy tác dụng minh mục, đồng tử liêu thiên về bổ can thân mà phát huy tác dụng minh mục, tứ bạch thiên về khư phong mà phát huy tác dụng minh mục, thừa khấp có tác dụng khư phong ngừng chảy nước mắt mà thường sử dụng trong điều trị chảy nước mắt mỗi khi gặp phong. Còn ví dụ như, các huyệt xung quanh miệng gồm thủy câu, địa thương và thừa tương đều có thể sử dụng trong điều trị các chứng bệnh về miệng do trúng phong, nhưng thủy câu có tác dụng tỉnh thần khai khiếu mà thường sử dụng trong điều trị hai hàm khép chặt do trúng phong, địa thương có tác dụng khư phong mà thường sử dụng trong điều trị khẩu oa do trúng phong, thừa tương thu liệm thủy tương mà thường sử dụng trong điều trị chảy dãi do trúng phong.
Tóm lại, qua trên đây có thể thấy được rằng, các huyệt vị vừa có các công hiệu chung lại vừa có thế mạnh riêng, trong điều trị lâm sàng vừa cần phải hiểu rõ tính năng chung của các huyệt vị lại vừa cần phải nắm vững các thế mạnh riêng của các huyệt vị, nhằm phát huy tối đa huyệt lực. Cũng chính là như “dùng huyệt như dùng binh”, y gia giống như là tướng quân chỉ huy, bày binh bố trận, không những cần phải thông thạo quy thuộc, tính năng của huyệt vị mà còn cần phải hiểu rõ các thế mạnh của từng huyệt vị, từ đó mới có thể phối hợp nhành các nhóm huyệt “tinh nhuệ”, phát huy tác dụng điều trị
Team Bs đông y dương quang.