Tăng BMP-2
Xe chiến đấu bộ binh BMP-2 được đưa vào sử dụng vào những năm 1980, là mẫu cải tiến cuả BMP-1 với những thay đổi về vũ khí chính.
Tháp pháo mới 2 người được thay thế cho tháp pháo 1 người cuả BMP-1, súng chính 30mm nòng dài, nhỏ , tốc độ cao có thể dùng để chống lại máy bay, trực thăng và bộ binh, bệ phóng tên lưả chống tăng gắn trên tháp pháo có thể lắp các loại tên lưả chống tăng như AT-4 SPIGOT hoặc AT-5 SPANDREL. Với tháp pháo được thiết kế rộng hơn, số lượng cưả quan sát cho lính bộ binh giảm xuống còn 2 cưả thay vì 4 cưả ở BMP-1, và số lính bộ binh chở theo giảm đi 1 người( còn 7 người). Mỗi bên sườn xe ở vị trí khoang chở lính có 3 lỗ châu mai và tiềm vọng kính.
BMP-2 có khả năng lội nước như BMP-1, xích cuả nó được cải tiến so với BMP-1 để tăng khả năng nổi trên mặt nước. BMP-2 có thể trang bị giáp nổ cảm ứng ERA nhưng ERA lại gây nguy hiểm cho bộ binh tùng thiết nên giáp bảo vệ thụ động thích hợp hơn còn ERA thì ko được tin cậy, hơn nưã khi lội nước mà gắn thêm giáp thì ko phù hợp.BMP-2 có thêm 1 số cải tiến về bộ phận điều hoà ko khí và động cơ mạnh hơn BMP-1. Tháp pháo được thiết kế rộng hơn và có 2 cưả quan sát cho 2 người, như vậy sẽ có 1 người điều khiển súng chính 30mm loại 2A72 và 1 người sử dụng tên lưả chống tăng, tránh được việc 1 người làm 2 việc cùng lúc. Bệ phóng tên lưả chống tăng Kornet được trang bị thiết bị ngắm hồng ngoại, gồm 1 tên lưả trên bệ phóng và 4 tên lưả dự trữ, cơ chế nạp đạn bằng tay. Loaị tên lưả sử dụng có thể là AT-4, AT-4B hoặc AT-5,AT-5B, ngoài ra BMP-2 có thể sử dụng các loại tên lưả Milan, Milan-2,Milan-3. Thiết bị định hình mục tiêu cho tên lưả bằng hồng ngoại loại Trakt/1PN65 cuả Nga được trang bị cho BMP-2 có tầm định vị khoảng 2500m. Loại Mulat/1PN86 cuả Nga có thể đạt tới 3600m.
Thông số kỹ thuật
Loại: Xe chiến đấu bộ binh
Nước sản xuất: Liên Xô
Nặng: 14.3 tonnes
Dài: 6.72 m
Rộng: 3.15 m
Cao: 2.45 m
Tổ lái: 3 người + 7 lính bộ binh
Giáp: Dày nhất 33mm
Vũ khí: Súng chính 30mm loại 2A42
Tên lưả chống tăng AT-4 hoặc AT-5
1 đại liên đồng trục 7,62mm
Động cơ: UTD-20/3 Diesel 300 mã lực
Tầm hoạt động: 600km
Vận tốc: 65km/h trên đường nhưạ
45km/h trên đường gồ ghề
Trang bị không quân Việt Nam
KQNDVN có 3 vạn người,biên chế thành 3 sư đoàn : B70 : Lê Lợi, B71 : Thăng Long, B72 : Hải Vân. 2 đoàn công kích,2 đoàn tiêm kích,3 đoàn vận tải,3 đoàn huấn luyện,4 lữ đoàn cao pháo,6 lữ rada,hơn 100 trận địa rada,66 trận địa tên lửa không đối không.
Trang bị không quân Việt Nam theo bản dưới đây
Các sân bay quân sự chính của Việt Nam
Mig-21 Chiến đấu cơ không hề già
MiG-21 là loại máy bay được sử dụng nhiều trong Chiến tranh Việt nam và là một trong những loại máy bay hiện đại nhất thời kỳ đó.
Tuy nhiên, nhiều phi công KQND Việt Nam thích bay loại MiG-17 hơn, vì tỷ lệ nâng trên khối lượng cao của loại MiG-21. Tỷ lệ lớn đồng nghĩa với việc MiG-21 không linh hoạt hay có tính năng cơ động cao như MiG-17. Đây là máy bay Sô viết đầu tiên thành công trong việc áp dụng loại cánh tam giác cho cả hai mục đích, chiến đấu và đánh chặn. Mặc dù những phiên bản MiG-21 đầu tiên thiếu rada tầm xa, tên lửa và bom hạng nặng so với những máy bay chiến đấu cùng thời của Hoa Kỳ, nhưng nó đã chứng tỏ là một đối thủ đáng gờm với sự điều khiển của những phi công dày dặn kinh nghiệm. MiG-21 là máy bay chiến đấu loại nhỏ, đạt tốc độ Mach 2 với một động cơ turbin phản lực đốt lần hai khá nhỏ và so với trọng lượng và so với loại F-104 Starfighter của Hoa Kỳ và Dassault Mirage III của Pháp. Những phi công của Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam đều được huấn luyện để đối phó với những chiến thuật bay của MiG, những phi công này được đào tạo tại trường huấn luyện máy bay chiến đấu của hải quân với tên gọi trong nội bộ là "Top Gun", ở đây họ được bay tập với những mục tiêu giả làm MiG là A-4 Skyhawk và F-5 Tiger II.
Trong chiến dịch Linebacker II, không quân Mỹ đã sử dụng B-52 Stratofortress để phá hủy các thành phố ở miền bắc Việt Nam năm 1972. Một chiếc MiG-21MF của không quân Việt Nam do Phạm Tuân lái đã bắn hạ một chiếc B-52 Stratofortress khi đang thực hiện nhiệm vụ. Đây là chiếc B-52 duy nhất bị bắn hạ khi thực hiện nhiệm vụ bởi một máy bay chiến đấu trong lịch sử.
Loại máy bay này cũng được sử dụng rộng rãi trong những cuộc xung đột tại Trung Đông ở thập kỷ 1960 và 1970, bởi không quân Ai Cập, Syri và Iraq chống lại Israel. Trong những cuộc chiến vào những năm 1960-1970 MiG-21 đã chế áp hoàn toàn đối với F-4 Phantom II và A-4 Skyhawks. Nhưng sau đó, chúng lại bị những chiếc máy bay khác hiện đại hơn chế áp là F-15 Eagle và F-16 Fighting Falcon vào cuối những năm 1970, khi không quân Israel được Hoa Kỳ bán cho những loại máy bay này.
Hiện nay không quân Việt Nam đang cải tiến những chiếc MiG-21 của mình thành MiG-21 Lancer I,II và MiG-21-93 theo hợp đồng với Aerostar SA, Elbit (của Rumani và Israel) và xí nghiệp sản xuất máy bay Mikoyan (của Nga).
Về MiG-21 ở chiến tranh Việt Nam.
MiG-21 hồi đó khá cũ, nó vẫn là máy bay không chiến tầm ngắn trong khi F-4 đã có khả năng không chiến bằng radar khá mạnh. Tuy nhiên, MiG-21 vẫn là máy bay hiện đại nhất Không Quân Việt Nam có.
Không phải phi công Việt Nam thích MiG-17 hơn. Do thay đổi cách chiến đấu, nên trong chiến tranh Việt Nam, MiG-21 đã qua nhiều thử nghiệm chiến thuật, với các thời kỳ thắng lợi và hạn chế xen kẽ. Có hai thời kỳ ngắn, khi mà các phi công Mỹ thử nghiệm được chiến thuật tốt hơn, thì MiG-17 ưu thế hơn. Nhưng đại thể, MiG-21 vẫn là máy bay mạnh hơn MiG-17, lúc đó đã được gọi là "out of date", quá cổ. Đến cuối chiến tranh thời kỳ 1970-1972 thì phi công Việt Nam hầu như lập công bằng MiG-21. Một trong những trận đánh cuối dùng MiG-19 là trận đánh ngày 2 tháng 9 năm 1972, hai chiếc MiG-19 đánh đuổi 12 chiếc F-4, hạ 2 chiếc trên "Thung lũng MiG". Nhưng trận này, MiG-19 lập công được do MiG-21 hỗ trợ, kéo các máy bay hộ tống về phía Tây. MiG-21. ở chiến tranh Việt Nam đã ba lần bắn hạ pháo đài bay B-52, bằng các chiến công của Vũ Đình Rạng, Vũ Xuân Thiều và Phạm Tuân, đều bằng MiG-21. Các phi công Việt Nam đã tạo ra phương thức chiến thuật ngày nay là kinh điển của MiG-21. Chiến thuật này tận dụng ưu thế của động cơ và gia tốc, tiến công và thoát hiểm theo chiều thẳng đứng. Ban đầu, các MiG-21 phục kích trên cao, tấn công và thoát hiểm phía sau địch, xuống dưới. Sau này, chiến thuật hiệu quả nhất được áp dụng là các MiG-21 tiếp cận bí mật ở độ cao thấp, vọt lên cao rồi tấn công từ trên cao phía sau, lao xuống thấp thoát trở về. Phi công Phạm Thanh Ngân là người đề nghị và lần đầu tiên thử nghiệm thắng lợi chiến thuật này. Trận đầu, anh ở vị trí số một trong tốp 2 chiếc, bắn rơi một máy bay trinh sát điện tử RF-101C được bảo vệ chặt chẽ. Phạm Thanh Ngân là phi công tài ba, anh đã chỉ huy tốp với các phi công giỏi nhất của Việt Nam, trong đó có Nguyễn Văn Cốc. Phạm Thanh Ngân là phi công thử nghiệm chiến thuật, bắn rơi nhiều loại máy bay nhất trong các phi công Việt Nam. Sau chiến công RF-101C trên, Phạm Thanh Ngân trở thành Anh Hùng của nước Việt Nam năm 1969. Từ năm 1989 đến năm 1996, ông là Tư lệnh Quân chủng Không quân. Từ năm 1998 đến năm 2001, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Chinh trị, Uỷ viên Bộ Chính trị (Cơ Quan lãnh đạo cao nhất của *************), Thượng tướng. Hiện ông là Trưởng ban chỉ đạo tổng kết chiến lược về quân sự và quốc phòng trực thuộc Bộ Chính Trị.
Máy bay Su-22
Sukhoi Su-17 (tên ký hiệu của NATO 'Fitter') là một máy bay tấn công của Liên Xô, được phát triển từ máy bay tiêm kích/ném bom Su-7
Loại máy bay này rất thành công, với một thời gian dài phục vụ trong không quân Xô Viết và không quân Nga. Dòng máy bay này được xuất khẩu rộng rãi tới các nước Đông Âu, Châu Á, và Trung Đông.
'''Su 22''' là máy bay ném bom của Liên Xô( được phát triển từ loại máy bay ném bom Su -17 ).Đây là loại máy bay ném bom ( được trang bị tên lửa không đối không ).Là loại máy bay ném bom thành công nhất và phục vụ trong quân đội Xô Viết lâu nhất. Su -22 là phiên bản để xuất khẩu cho các nước .Việt Nam sử dụng các loại Su -22 M3/M4 và Su – 22 UM3 (hình dạng gần giống máy bay tiêm kích Mig -21).
Trong các năm từ 1990-98, KnAAPO và AVPK "Sukhoi" đã tiến hành hiện đại hoá 32 chiếc Su-22M4 một chỗ và 2 chiếc Su-22UM3 hai chỗ cho Việt Nam.
• Các ứng dụng hiện đại hóa nâng cấp được đưa ra như sau:
1. Sử dụng rađa xung Doppler đa hệ có antenna đường kính 500mm để đảm bảo việc sử dụng vũ khí tấn công các mục tiêu trên mặt đất hay biển. Rađa này có thể đặt ở mũi hình côn hoặc trong khoang dưới cánh có nguồn điện và hẹ thống làm lạnh bằng chất lỏng mới.
2. Màn hình nhìn lên (HUD)có góc rộng, gắn một panel điều khiển chế độ dẫn hướng tấn công cũng như có camera để quan sát ngay lập tức khoảng không gian bên ngòai cabin và hiển thị các thông tin về vũ khí.
3. Hệ thống lái FLIR (forward looking infrared) có hiển thị các thông tin tới HUD.
4. Một hoặc 2 màn hình tinh thể lỏng đa chức năng, đơn sắc hoặc màu hiển thị các thông tin về rađa của máy bay, các thông tin về chuyển động, trạng thái vũ khí và các dữ liệu khác
5. máy tính tổng hợp sử dụng để dẫn đường và tấn công
6. hệ thống dẫn đừong quán tính có độ chính xác cao dựa trên cơ sở con quay hồi chuyển vòng lazer.
7. Hệ thống dẫn đường qua vệ tinh đa kênh có độ chính xác cao
8. Hiện đại hóa cần điều khiển bay và hộp số kiểm soát lực đẩy dựa trên khái niệm NOTAZ (lái, điều khiển hệ thống âm thanh và vũ khí bằng tay trong kjhi bay và kiemẻ soát lực đẩy).
9. Các dữ liệu đầu vào được lập trình để tự động tạo đầu vào của nhiệm vụ bay
10. Hệ thống xử lý số liệu mặt đất dùng cho khi bay sử dụng bộ nhớ xử lý nhanh (có thể lắp cố định hoặc xách tay)
4 cấp hiện đại hóa này nâng cấp khả năng chiến đấu cho máy bay theo từng cấp:
- Lắp đặt rađa để nâng cao khả năng chiến đấu cho máy bay khi tấn công các mục tiêu trên biển bằng tên lửa kh-31A có đầu dò dẫn hướng bằng rađa chủ động và khi tấn công mục tiêu trên không bằng tên lửa không đối không R-27T với đầu dò tia hồng ngoại và tên lửa RVV-AE có đầu dẫn bằng rađa chủ động.
- Thay thế tên lửa không đối không tầm ngắn R-60 bằng tên lửa R-73 với các tính năng đã được cải tiến
- Có giá treo 2 quả bom dẫn hướng KAB-500KR dẫn đường bằng đầu dò vô tuyến dùng để phá hủy các boongke đã được đánh dấu trên mặt đất
Có nguồn tin cho rằng vào năm 2005 Việt Nam đã mua vài chục chiếc Su-22 "Second Hand" từ Ba Lan
L-39 máy bay huấn luyện đa năng
Aero L-39 Albatros là một chiếc máy bay huấn luyện đa tính năng được phát triển tại Tiệp Khắc để đáp ứng các yêu cầu cho loại "C-39" (C viết tắt của Cvičný - huấn luyện) trong thập niên 1960 để thay thế chiếc L-29 Delfín.
Đây là chiếc đầu tiên của thế hệ máy bay huấn luyện phản lực thứ hai, và là chiếc máy bay huấn luyện sớm nhất được trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt, và sau này được nâng cấp thành loại L-59 Super Albatros và L-139. Mẫu thiết kế này vẫn đang được chế tạo ở tình trạng được nâng cấp thành L-159 Alca, 2,800 chiếc L-39 vẫn hoạt động trong hơn 30 lực lượng không quân trên khắp thế giới. Chiếc Albatros rất linh hoạt, có thể đảm đương các phi vụ tấn công hạng nhẹ ban ngày cũng như vai trò huấn luyện phi công, và vai trò thông thường nhất của nó là máy bay huấn luyện.
L-39 cất cánh lần đầu ngày 4 tháng 11 năm 1968, và được sử dụng như loại máy bay huấn luyện cơ bản tại Liên bang Xô viết, Tiệp Khắc, và tất cả các nước thuộc Khối hiệp ước Warsaw (ngoại trừ Ba Lan, nước này sử dụng loại máy bay phản lực thế hệ đầu tiên TS-11 Iskra của họ) từ năm 1971 trở về sau. L-59, tên định danh trước kia là L-39MS, một bản thiết kế cải tiến, được trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt DV-2, vẫn còn được chế tạo đến tận năm 1999.
Hiện Việt Nam có khoảng 23 chiếc L-39 đóng tại Học viện Không quân Nha Trang. Ngày 6 tháng 6 năm 2007, một chiếc L-39 bay huấn luyện thuộc Học viện Không quân Nha Trang thuộc Quân chủng Phòng không Không quân - Bộ quốc phòng xuất phát từ sân bay Nha Trang thì bị trục trặc và đâm xuống vùng biển thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách bờ 2 km. Tai nạn làm hai phi công là Trần Văn Deo và Lê Lâm Phương bị thiệt mạng.
Mi-8 lực lượng không vận chủ yếu của Việt Nam
Mil Mi-8 (tên hiệu NATO "Hip") là một máy bay trực thăng lớn hai động cơ. Mẫu một động cơ đầu tiên (AI-24W), W-8, cất cánh ngày 9 tháng 7, 1961. Chiếc thứ hai với hai động cơ AI-24W cất cánh lần đầu ngày 17 tháng 9, 1962. Sau khi được sửa đổi một số chi tiết, nó được đưa vào phục vụ trong Không quân Sô viết năm 1967 với cái tên Mi-8. Có rất nhiều biến thể, gồm Mi-8T ngoài khả năng vận chuyển 24 binh sĩ còn được trang bị các tên lửa điều khiển chống tăng. Kiểu Mil Mi-14 dùng cho hải quân, và kiểu Mil Mi-24 tấn công cũng là biến thể từ loại Mi-8.
Mi-8 được sử dụng ở hơn 50 quốc gia, gồm Ấn Độ, Trung Quốc và Iran; biến thể mới nhất Mi-8MT/Mi-17 được trang bị nặng hơn và giới thiệu năm 1981. Mi-17 ít được biết đến hơn, hoạt động ở khoảng 20 nước.
Các đơn đặt hàng gần đây gồm: 40 chiếc trực thăng Mi-8TV cho Ấn Độ được trang bị tên lửa không đối đất Vikhr-M (AT-16), được chuyển giao vào cuối năm 2001, một số Mi-17 cho Iran, 10 cho Malaysia, 20 cho Colombia, sáu cho Ấn Độ, 12 cho Pakistan và 13 cho Venezuela. Tháng 2 năm 2005, Không quân Iraq đặt hàng mười chiếc Mi-17V-5 từ công ty Bumar Ba Lan. Đến tháng 12, quân đội Séc nhận 16 chiếc Mi-17SH như một phần trong sự giải quyết nợ của Nga.
Tháng 7 năm 2002, Kazan đã ký một thoả thuận thị trường quốc tế với BAE Systems của Anh Quốc và Kelowna Flightcraft của Canada về một phiên bản cải tiến, máy bay lên thẳng vận tải và các mục đích khác Mi-172. Chiếc The Mi-172 có một hệ thống nhiệm vụ mới từ BAE Systems Avionics, kính buồng lái mới với hệ thống công cụ bay điện tử mới từ Honeywell và tháp đa cảm biến ổn định Titan 385 của BAE Systems.
Trực thăng vận tải MI-8T
Chiếc trực thăng vận tải quân sự Mi-8T có một pod and boom quy ước và một rotor đuôi và cơ cấu hạ cánh ba bánh không co lại được. Cánh quạt năm cánh được làm từ hợp kim nhôm. Buồng lái ba người - chỉ huy, hoa tiêu và thợ máy. Các hệ thống làm ấm cho buồng lái và cabin chính còn điều hoà không khí thì tuỳ chọn. Các phiên bản cứu hộ và cấp cứu có một hệ thống oxy cho tổ lái và người bị nạn. Mi-8 có các đặc điểm tồn tại tuyệt vời gồm bình chứa nhiên liệu có nạp bọt chống nổ, buồng lái bọc thép, hệ thống chữa cháy và các mạch điều khiển chính dự trữ, hệ thống năng lượng và nước.
Trực thăng chở hàng MI-8
Thiết bị đỗ và vận chuyển của máy bay trực thăng có thể được dùng để treo những vũ khí chiến tranh nhẹ và đạn dược nhờ vào các tời và cứu hộ người dưới mặt đất hay trên biển bằng một tời kéo hoạt động điện (khả năng 200kg). Cabin có các điểm cài trên sàn. Các thang lên máy bay có thể dùng cho xe lên. Cabin có thể chứa 12 litters (stretchers). Dây đeo hàng bên ngoài có thể mang 3,000kg.
Các động cơ trục Turbo Klimov TV-2117
Máy bay trực thăng Mi-8T có hai động cơ trục Turbo Klimov TV2-117. Bộ làm lệch được lắp trên các cửa hút gió của động cơ nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của bụi khi cất cánh từ những khoảng đất không được chuẩn bị trước. Máy bay cũng có bộ phận phát năng lượng dự bị (Auxiliary Power Unit - APU) cho những nhiệm vụ độc lập. Máy bay chứa 1,870 lít nhiên liệu trong hai bình chứa đàn hồi bên trong và hai bình bên ngoài. Tổng dung tích nhiên liệu có thể lên đến 3,700 lít bằng cách lắp thêm hai bình chứa bằng sắt trong cabin.
Trực thăng vũ trang MI-8TV
Mi-8TV vũ trang là một phiên bản của Hip. Nó được trang bị súng máy gắn sẵn bên trong và sáu giá vũ khi với các rocket S-5 bên ngoài. Máy bay cũng có thể mang tên lửa chống tăng AT-2 Swatter 9M 17P Skorpion. Để điều khiển vũ khí, nó dùng ống ngắm vũ khí chuẩn PKV. Mi-8 cũng có khả năng rải mìn. Các máy bay Mi-8TV vũ trang được trang bị động cơ TV3-117VMA mạnh hơn cải thiện trần bay (3,950m so với 1,760m của Mi-8MT). Khả năng treo hàng tối đa của phiên bản vũ trang tăng lên đến 4,000kg.
Theo thông tin từ nhà sản xuất thì Mi-171 có thể mang được :
- 2 súng máy 2,62mm hoặc 1 súng 12,7mm.
- 4 đến 6 tên lửa chống tăng AT-2C hoặc AT-3.
- 4 đến 6 thùng rocket 57mm (16 ống phóng) hoặc 2 thùng rocket 80mm (20 ống phóng).
- 2 bom 500kg hoặc 4 bom 250kg.
Trực thăng tìm kiếm và cứu hộ MI-8MPS
Chiếc Mi-8MPS tìm kiếm và cứu hộ được phát triển từ máy bay trực thăng vận tải quân sự. Trong các nhiệm vụ tìm kiếm, tổ lái thả các đèn hiệu radio để đánh dấu vùng tai hoạ và chuyển đội cứu hộ tới giúp đỡ và cứu người bị nạn. Máy bay có thể nhấc mười người một lúc bằng dây treo qua bè cứu hộ PSN-10 và cũng có thiết bị hạ cánh khẩn cấp đảm bảo khả năng nổi tới 30 phút khi bắt buộc phải hạ khẩn cấp xuống biển.
Những sửa đổi đặc biệt của Mi-8MPS cho các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu nạn ở thân gồm hai cửa mạn, một bè chứa, một cửa vào lớn và các bình nhiên liệu phụ. Các trang thiết bị lắp thêm gồm hệ thống radar YuR-40.1, thiết bị tầm nhiệt TAPAS, hệ thống lái/định vị PNKV-8PS và thiết bị cứu nạn, một cần trục bên trong với tời LPG-300 và cán dài.
Trực thăng Ka-28 và Ka-32
Trực thăng Ka-28 và Ka-32 được Việt Nam đưa vào sử dụng với nhiệm vụ tuần tra bờ biển và cứu hộ, đây là loại trực thăng có cánh quạt đồng trục rất đặc biệt.
Ka-32 có khả săn tàu ngầm do được trang bị các loại ra đa sau: Radar; MAD; dipping sonar; 12 sonobuyoys, RWR RWR, directional ESM, dorsal EW pod. Việt Nam hiện có khoảng 8 chiếc Ka-28 và 4 chiếc Ka-32 làm nhiệm vụ chủ yếu là vận tải và cứu hộ.
Ka-28
Ưu điểm của Sơ đồ "hai cánh quạt nâng đồng trục"
Sơ đồ "hai cánh quạt nâng đồng trục" còn gọi là sơ đồ Kamov theo tên của tổ hợp thiết kế – chế tạo Kamov của Liên Xô và Nga chuyên chế tạo trực thăng loại này và ngày nay cũng chỉ có hãng này làm máy bay trực thăng theo sơ đồ này, đây là "đặc sản" trực thăng Kamov của Liên Xô (tuy không phải do Liên Xô phát minh ra). Đặc điểm của sơ đồ này là không có cánh quạt đuôi mà có 2 bộ cánh quạt nâng đồng trục quay ngược chiều nhau để triệt tiêu mô men quay thân máy bay. Khi máy bay muốn quay đầu để rẽ hướng phi công ấn pê đan "anti-torque" sẽ tạo ra chênh lệch vận tốc quay của hai tầng cánh quạt đồng trục và máy bay sẽ quay thân tương ứng theo chiều cánh quạt quay chậm hơn.
Loại máy bay này có nhiều ưu điểm lớn: vì có 2 cánh quạt nâng nên đường kính, vận tốc quay của cánh quạt không cần lớn lắm cho phép cánh quạt hoạt động trong khoảng hiệu suất cao nhất, và độ an toàn chống cộng hưởng, chống rung giật cánh quạt tốt, không mất phần công suất hoang phí như loại Sikorsky. Đặc biệt tính cơ động của nó là hoàn hảo, tốt nhất trong các phương án trực thăng: nó có thể trong một khoảnh khắc đột ngột di chuyển theo nhiều hướng phải – trái, tiến – lùi và lên – xuống một cách rất linh hoạt (Loại Kamov Ka-50 của Nga có thể bay ngang thân sang phải, trái 80 km/giờ, bay lùi 90 km/giờ thay đổi chế độ bay trong vài giây), loại máy bay này có thể bay các loại hình pilotage (hình nhào lộn) mà các loại trực thăng khác không thể thực hiện được, rất dễ điều khiển. Vì không có cánh quạt đuôi nên loại này không ngán ngại gió thổi ngang, có thể cất cánh hạ cánh, bay treo và hoạt động ở mọi điều kiện thời tiết, và một ưu điểm nữa là vì kích thước cánh quạt nhỏ, không đuôi nên loại này có kích thước rất nhỏ gọn. Vì các ưu thế trên nên loại máy bay này là trực thăng chủ yếu của Hải quân xô viết và Nga ngày nay nhất là trên các hạm tàu chống tàu ngầm của nước này.
Loại này đồng thời có những nhược điểm: cánh quạt với hệ thống biến bước "collective" và "ciclic" bản thân đã là phức tạp nay lại thêm cơ cấu "trục trong trục" ngược chiều quay thì là quá phức tạp. Hệ thống đồng trục là bộ phận hay gặp nhiều rủi ro nhất của loại máy bay này. Và vì có 2 tầng cánh quạt, có độ cơ động tốt nên khi có chuyển động đột ngột có thể gây ra chạm cánh quạt vào nhau.
Phạm Tuân sau trở thành người Việt Nam đầu tiên bay lên quỹ đạo. Nhìn chung, các phi công Việt Nam sau chiến tranh phát triển tốt.
Một trong những thời kỳ khó khăn của MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam là chiến dịch Bolo. Một phi công kỳ cựu từ Thế chiến 2 Mỹ là Đại tá Robin Olds đã sử dụng các F-4 không chiến giả làm F-105 mang bom, lừa MiG đến bắn hạ. Chiến dịch bắt đầu ngày 2 tháng Giêng năm 1967, chiến thật này của F-4 gây khó khăn cho MiG-21 nửa năm. Nhìn chung, MiG-21 là máy bay được phi công Việt Nam sử dụng tốt nhất.