[TT Hữu ích] Dịch sách cổ : Doanh Nhai Thắng Lãm- Chăm Pa phong thổ ký

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Vài lời ngỏ:
Nhu cầu tìm hiểu Lịch sử của nhiều cụ OF rất đa dạng, tuy nhiên cứ mở thớt Lịch Sử là cãi nhau inh ỏi, vật nhau giữ 2 phe, nên em tránh tham-gia.

Với em, nếu thích Sử thì biết Ngoại ngữ là hay nhất, vì, có thể đọc trực tiếp và hiểu đúng ý tác giả, cách diễn đạt và văn phong, nếu đọc qua tài liệu dịch ẩu, dịch kém, sẽ hiểu sai ít nhiều.

Em ấp ủ dịch sách về Chăm Pa đã lâu, nhưng tài liệu ít, thành ra lựa được 2 cuốn, là cuốn: Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan thời nhà Minh, và cuốn thứ 2 của tác giả người Ấn Độ gốc Chăm Pa là Majumdar , có tên là Vương Quốc Chăm Pa, đây là cuốn sách cực kỳ đồ sộ, nghiên cứu và dịch rất công phu từ các bia ký Chăm Pa được mang đi ra nước ngoài khi Minh Mạng xóa sổ vương quốc Chăm Pa và đồ sát người dân. Sách này sẽ cung cấp rất chi tiết về phong tục, văn hóa, LỊch sử, luật pháp, đời sống...Chăm Pa, tuy nhiên do thời gian có hạn, em chưa thể dịch.

Cuốn Doanh Nhai Thắng Lãm- Chăm Pa phong thổ ký này sở dĩ em dịch vì tác giả là người đã trực tiếp đến Chăm Pa, đã sống, quan sát, và ghi chép, tuy không dài, nhưng khá thú vị về nhiều nét.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Qua những miêu tả ngắn gọn hơn cả : Chân Lạp Phong Thổ Ký, nhưng cũng khắc họa được nhiều nét về đất nước Chăm Pa huyền bí, một nền văn hóa rất rực rỡ, đậm chất Ấn Độ đã bị xóa sổ.
Do trình độ quê mùa, bản dịch từ tiếng Hán chắc sẽ có sai sót, do việc chuyển ngữ Hán cổ tương đối khó, em cố gắng bám sát nguyên ý tác giả, bài thơ em chỉ dịch phần nghĩa
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
瀛涯勝覽
DOANH NHAI THẮNG LÃM
Tác giả: Mã Hoan

Đôi nét về tác giả:
Mã Hoan, chữ Hán: 馬歡, sinh năm 1380 mất năm 1460, là người Trung Quốc gốc Ả Rập, có tên Ả Rập là ﻣَﺎ ﺧُﻮًا‎: Ma Khuana, ông còn có tên tự là Tông Đạo (宗道), đôi khi trong sách ông gọi mình khiêm nhường là: Cối Kê Sơn Tiều (會稽山樵) tức là người tiều phu ở núi Cối Kê.
Mã Hoan sinh ra tại quận Cối Kê, giáp với khu vực Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, vì là người Hồi Giáo gốc Ả Rập, Mã Hoan ngoài tiếng Ả Rập còn tinh thông chữ Hán và cả chữ Phạn Phật Giáo. Có lẽ vì thế mà ông đã được nhà Minh lựa-chọn đi trong đoàn thám-hiểm của nhà thám-hiểm nổi tiếng Trịnh Hòa, với vai-trò vừa là cố vấn và phiên dịch trong các chuyến thám-hiểm bằng đường biển nổi-tiếng khắp nơi.
Mã Hoan đã tham-gia các chuyến thám hiểm sau:
  • Chuyến thám-hiểm năm 1413, ông đã đến Chăm Pa, Java, Sumatra, Palembang, Xiêm La, Cochi (còn gọi là Cochin, là một thành phố cảng lớn ở miền tây nam Ấn Độ, nằm bên biển Laccadive) và Hormuz (Eo biển thuộc Iran ngày nay).
  • Chuyến đi năm 1421, ông đã đến Malacca, Aru (nay là Aceh, Indonesia), Sumatra, Trincomalee (nay là hải cảng phía Đông Sri Lanka), Ceylon (nay là Sri Lanka), Cochi, Calicut (nay là thành phố thuộc bang Kerala, Ấn Độ), Zufar (nay là Dhofar, Ô Man) and Hormuz.
  • Chuyến đi năm 1431, ông đến Bengal, Chittagong (nay là Chattogram, 1 thành phố hải cảng ở Bangladesh), Sonargaon (thành phố cổ trung tâm Bangladesh), Gaur (nay là Gauḍa, 1 thành phố lịch sử nằm giữa Ấn Độ và Bangladesh) và Calicut. Từ Calicut, ông được Hồng Bảo (chữ Hán 洪保, là 1 hoạn quan đồng thời cũng là nhà ngoại giao, nhà hàng hải Trung Quốc dưới thời Minh Thành Tổ, cùng với Trịnh Hòa, đã tổ chức nhiều đợt thám hiểm trên biển) gửi đi sứ thánh địa Mecca.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong các chuyến thám-hiểm của mình, Mã Hoan đã ghi chép về địa-lý, chính-trị, điều kiện thời-tiết, môi-trường, kinh-tế, phong-tục địa phương, thậm chí cả phương pháp trừng-trị tội phạm. Trở về nhà trong chuyến thám-hiểm đầu tiên của mình, ông bắt đầu viết một cuốn sách mô-tả về chuyến thám-hiểm của mình, bản thảo đầu tiên đã hoàn-thành vào khoảng năm 1416. Ông đã mở-rộng và sửa-đổi bản thảo của mình trong các chuyến thám-hiểm sau đó, bản thảo cuối cùng hoàn-chỉnh vào khoảng năm 1451. Tên cuốn sách của ông là Doanh Nhai Thắng Lãm (瀛涯勝覽: Doanh là Biển lớn, Nhai là bờ, Thắng là tốt đẹp, Lãm là xem xét nhìn ngắm rộng rãi, ta tạm dịch là: Khảo sát tổng thể các bờ biển).
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
DOANH NHAI THẮNG LÃM TỰA

Lời Đề Tựa của Mã Hoan, viết năm 1616.
Tôi có lần đọc quyển [sách] Đảo Di Chí (島夷誌, tức là “Tập Tài Liệu Về Các Hòn Đảo và Cư Dân Man di Của Chúng), có ghi-chép các sự biến đổi mùa và khí hậu, và sự khác biệt trong địa-lý và dân chúng. Tôi lấy làm ngạc nhiên và nói: “Làm sao lại có nhiều sự bất-đồng đến thế trong thế giới?”
Trong năm thứ mười một [thời] Vĩnh Lạc, [tức] năm Quý Tỵ [1413], Thái Tông Văn Hoàng Đế [tức Minh Thành Tổ Chu Đệ] ban một sắc lệnh cử vị chánh sứ đại thái giám Trịnh Hòa đảm nhận quyền tổng chỉ huy các bảo thuyền và đi đến các nước khác nhau tại Tây Dương [Có thể hiểu là vùng biển phía Tây Hải Nam, Biển Đông] để tuyên đọc các mệnh lệnh của hoàng đế và ban thưởng các tặng phẩm.
Tôi cũng được phái đi với tư cách thuộc viên để thông dịch các văn kiện ngoại quốc. Tôi đi theo [sứ bộ] đến bất kỳ nơi nào phái bộ đi đến, vượt qua các biển nước bao la , các triều sóng khổng lồ mà tôi không biết chạy dài bao nhiêu triệu hải lý; tôi đã đi qua nhiều xứ sở, có các mùa, khí hậu, địa thế và dân cư [khác nhau]; và tôi đã nhìntận mắt [các xứ sở này], tôi đã tự thân len lỏi [qua các xứ sở này]. Sau đó tôi hiểu được rằng những ghi chép trong Đảo Di Chí không phải là bịa -đặt, và rằng còn có nhiều điều kỳ- thú hơn thế hiện- hữu.
Vì thế tôi đã thu thập [các ghi chép về] sự xấu, nét đẹp của dân chúng tại mỗi xứ sở, [và về] các điểm dị biệt hay tương đồng giữa phong tục những địa phương, cũng như [về] các sự khác -biệt trong các sản phẩm tự nhiên, và [về] các biên giới. Tôi đã sắp xếp [các ghi chép của tôi] theo thứ tự sao cho thành một quyển sách, mà tôi đặt nhan đề là Doanh Nhai Thắng Lãm. [Nó giúp] mang lại cho độc giả quan tâm một cái nhìn tóm lược để học hỏi mọi sự kiện quan trọng về nhiều nước khác nhau và đặc biệt sẽ nhìn thấy làm sao mà ảnh hưởng văn minh của Hoàng Đế lại được tỏa rộng trên một tầm mức chưa từng có mà các triều đại trước đây không thể nào so sánh được.
Thực là văn chương ngu- muội, [bởi tôi] chỉ là một kẻ quê mùa, đội ơn mưa móc [ nhà vua] được may mắn tháp- tùng sứ giả, và [đi] cùng với với vị sứ giả, từ những sự quan -sát riêng mà viết ra sách Doanh Nhai Thắng Lãm này.

Thực là duyên cơ kỳ ngộ [như chuyện chỉ xảy ra một lần] trong một nghìn năm. Sách này, tôi không có khả năng dùng những lời lẽ văn hoa, tôi chỉ viết ra những sự kiện chân thực và không có gì khác nữa. [Tôi hy vọng rằng] độc giả sẽ không chê cười về sự quê kệch trong văn phong vậy.

Thay cho lời tựa.

Vĩnh Lạc, năm thứ 14, tức năm Bính Thân, Hoàng Chung Nguyệt, cát đán, Cối Kê Sơn Tiều Mã Hoan thuật. [ tức là ngày 19 tháng Mười Một năm 1416, Mã Hoan đã khởi sự viết bản thảo đầu tiên cho quyển sách của ông mười bốn tháng sau khi có sự trở về của cuộc viễn chinh lần thứ tư của Trịnh Hòa, Hoàng Chung Nguyệt có nghĩa là mặt trăng vàng hình quả chuông, tháng Mười Một]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
瀛涯勝覽紀行詩

Doanh Nhai Thắng Lãm kỷ hành thi

Hoàng Hoa sứ giả thừa thiên sắc

Tuyên bố luân âm vãng di vực

Kình chu hống lang phiếm thương minh

Viễn diệp hồng đào diêu vô cực

Hồng đào hạo hạo dũng quỳnh ba

Quần sơn ẩn ẩn phù thanh loa

Chiêm Thành cảng khẩu tạm đình khế

Dương phàm tấn tốc lai Đồ Bàn

Đồ Bàn viễn cách Trung Hoa địa

Thiên khí diễm chưng nhân vật dị.

Khoa đầu khỏa túc ngữ chu Lệ (vì kiêng húy tên vua Minh Chu Lệ nên tác giả viết khác đi chữ Lệ 㒧)

Bất tập y quan lễ nghĩa sơ.

Thiên thư đáo xứ đằng hoan thanh,

Man khôi tù trưởng tranh tướng nghênh.

Nam kim dị bảo viễn trì cống,

Hoài ân mộ nghĩa sư trung thành.

Đồ Bàn hữu vãng Tây Dương khứ,

Tam Phật Tề (tên Ấn Độ là Srivijaya, quốc gia cổ ngày nay thuộc là các vùng Palembang, Kewu Plain, Chaiya, Jambi thuộc Malaysia, Indonesia và Thái Lan; Srivijaya thực ra là tên gọi kinh đô của nhà nước bá chủ. Người nước ngoài lấy nó gọi tên cả liên minh này. Srivijaya còn được viết là Sriwijaya. Trong tiếng Phạn, sri (श्री) nghĩa là "tỏa sáng" còn vijaya (विजय) nghĩa là "vinh quang”. Người Trung Hoa xưa ký âm của từ này bằng chữ Hán thành 室利仏逝 phiên âm Hán-Việt: Thất Lợi Phật Thệ). Sử người Việt dùng tên Tam Phật Tề) qua lâm ngũ dư.

Tô Môn Đáp Lạt trì trung lưu,

Hải bạc phiên thương kinh thử tụ.

Tự thử phân chu vãng Tích Lan,

Kha Chi, Cổ Lý liên chư phiên.

Nhược thủy nam tân lưu sơn cốc,

Khứ lộ mang mang canh hiểm gian.

Dục đầu Tây Vực giao ngưng mục,

Đán kiến ba quang tiếp thiên lục.

Chu nhân kiểu thủ hỗn Tây Đông,

Duy chỉ tinh thần định Nam Bắc.

Hốt Lỗ Mô Tư cận hải bàng,

Đại Uyên, Mễ Tức thông hành thương.

Đại Uyên [ Đại Uyên là một dân tộc và quốc gia cổ ở Tây Vực thời nhà Hán, thuộc tộc người Ferghana ở thung lũng Ferghana ở Trung Á], Mễ Tức [ Ai Cập] các thương nhân buôn bán đi qua.

Tằng vấn bác vọng sứ tuyệt vực,

Hà như đương đại diễm ân quang.

Thư sinh thông dịch vong ti tiện,

Sứ tiết thao bồi du lãm biến.

Cao sơn cự lãng khải tằng quan,

Dị bảo kỳ trân kim thủy kiến.

Phủ ngang kham dư vô hữu ngân,

Tế thiên cực địa giai vương thần.

Thánh Triều nhất thống cổn Hoa Hạ,

Ô khoáng cổ kim thục khả luận.

Sứ tiết cần lao khúng trì mộ,

Thời trị Nam phong chỉ quy lộ.

Chu hành cự lang nhã du long,

Hồi thủ hà hoang cách yên vụ.

Quy đáo kinh hoa cẩn tử thần,

Long trì hiến nạp giai kỳ trân.

Trùng đồng nhất cố thiên nhan hỷ,

Tước lộc quân ban vũ lộ tân.​
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tạm dịch



Bài thơ ghi nhớ cuộc hành trình

Sứ giả Hoàng Đế vâng sắc chỉ

Tuyên đọc ý chỉ của nhà vua báo tin mừng đến các nước man di

Thuyền lớn như cá Kình gầm lên lướt sóng lớn trên biển mênh mông

Vượt qua muôn ngàn ngọn sóng đỏ mịt mùng không biết đâu là bến bờ

Từng đợt sóng lớn nhỏ mênh mông tuôn trào

Từng dãy núi ẩn hiện xanh biếc lấp lánh.

Tạm dừng nghỉ ở hải cảng xứ Chiêm Thành

Căng buồm nhanh chóng đến xứ Đồ Bàn

Xứ Đồ Bàn ở cách quá xa đất Trung Hoa

Khí hậu nóng bốc lên ngùn ngụt làm cho con người và cảnh vật khác lạ.

Đầu trần chân đất người thì nhỏ bé nói ngôn ngữ kỳ lạ

Họ không đội mũ cũng chẳng biết gì về lễ nghĩa.

Khi chỉ của Thiên triều truyền đến xứ này mọi người đều nói lên niềm hân hoan,

Các tù trưởng tranh nhau nghênh đón [ thánh chỉ].

Vàng bạc phương Nam, bảo vật kì dị ở tận phương xa cũng nhanh cống nạp,

Cảm tạ ân đức ngưỡng mộ việc đạo nghĩa [của Thiên Triều] họ bày tỏ lòng trung thành.

Thăm xong xứ Đồ Bàn là lại lên đường ra biển Tây Dương,

Đi qua [ nước] Tam Phật Tề nhìn thấy năm hòn đảo.

Đảo Sumatra đứng sừng sững giữa đại dương,

Thuyền buôn lớn của nước ngoài thường đi qua và tụ hội tại nơi này.

Một phần của hạm đội đi đến Sri Lanka,

Kochi, Kozhikode [ các thành phố ở Ấn Độ] và những nơi xa lạ liên tiếp đến.

Những dòng hải lưu yếu ở bờ biển phía nam chảy quanh khe núi,

Những con đường đã đi qua xa mịt mờ và vô cùng gian nan nguy hiểm.

Mong muốn đến đất Tây Vực xa xôi mỏi con mắt,

Chỉ thấy những con sóng nhỏ lấp lánh nối với đường chân trời xanh biếc.

Các thủy thủ ngẩng lên trông [ chỉ thấy] phương Tây và phương Đông hòa nhập với nhau,

Chỉ có nhìn sao Bắc Thần mà định hướng Nam Bắc.

Eo biển Hormuz gần với đại dương,

Đã từng nghe nói đến sứ thần đến các nước tận Tây Vực,

Sao có thể so với [triều đại] hiện thời mang lại nhiều ân huệ lớn hơn.

Tôi chỉ là thư sinh làm công việc thông dịch thấp hèn,

Được chịu ơn mà đi cùng sứ giả để quan sát mọi nơi.

Núi cao sông lớn há gì không đến xem cho thỏa tầm mắt,

Những đồ châu báu ngọc ngà kỳ lạ ngày nay lần đầu tiên được thấy.

Ngẩng lên cúi xuống thấy trời đất không biết đâu là ranh giới,

Trong khoảng khắp bầu trời và mặt đất đều là thần dân của nhà vua.

Thánh Triều thống nhất mọi [ dân tộc] dưới thế nước lớn Hoa Hạ,

Thực là từ cổ chí kim đến nay chưa có triều đại nào sánh kịp.

Vị sứ giả làm việc chăm chỉ hôm sớm chỉ sợ lỡ muộn công việc,

Đúng lúc gặp được con gió Nam chỉ đường cho ông quay về.

Thuyền lớn lướt sóng như là cưỡi lên rồng,

Quay đầu nhìn lại hoang mạc đã mờ cách trong sương khói.

Trở về kinh đô [ tôi] được đến bái kiến nhà vua,

Tại sân rồng bao nhiêu là báu vật kỳ lạ được dâng lên.

Cặp mắt nhà vua nhìn thật vui mừng,

Tất cả tân khách đến dự đều được ơn mưa móc nhà vua ban tước lộc.​
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHIÊM THÀNH QUỐC​

Quốc gia này được gọi là Vương Xá Thành [ Mã Hoan thấy thành này giống thành phố Rajagrha, cố đô của Magadha tại tiểu bang Bihar của Ấn Độ ngày nay, có lẽ thành này là Panduranga, Phan Rang ngày nay].

[Vương quốc] nằm chính và trải-rộng theo phía Nam của biển Đại Hải, [một vùng biển] ở phía Nam của biển Quảng Đông. Khởi hành từ eo biển Ngũ Hổ thuộc huyện Trường Lạc, thị trấn Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến và hành trình theo hướng Tây Nam, thuyền có thể đến nơi [này] trong mười ngày nếu gặp luồng gió thuận. Ở phía Nam, xứ này tiếp giáp với nước Chân Lạp, ở phía Tây nó giáp ranh giới của Giao Chỉ, [và] ở cả phía Đông và Bắc địa hình thoai thoải đều hướng xuống biển.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở [một khoảng] cách một trăm lý (dặm TQ, khoảng 500m) về phía Đông Bắc tính từ kinh đô, có một hải cảng tên là Tân Châu Cảng [ tức là cảng Thị Nại, Quy Nhơn bây giờ] Trên bờ cảng họ dựng một tháp cao bằng đá với nhiều tượng và bia kí [chữ Sanskrit] tạo thành một danh thắng thật kỳ-diệu. Rất nhiều tàu thuyền mọi nơi đến đây [với mục đích] nghỉ ngơi, buôn bán, trú bão và ra khơi. Bên trái bờ cảng, có một đồn canh, được gọi bởi các thương nhân và người nước ngoài là Thiết Tỷ Nại [ phiên âm tiếng Hán của chữ Sri Banoy]; có hai vị chỉ huy phụ trách đồn này; [và] bên trong [đồn] có khoảng 50 hay 60 gia đình người dân sinh sống, để bảo vệ cho bến tàu.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đi theo hướng Tây Nam 100 lý bạn sẽ tới thành phố nơi Quốc Vương cư ngụ [ không rõ bây giờ là ở đâu?]; người nước ngoài gọi tên vương quốc này là Chiêm [Thành]. Thành phố có một bức tường thành bằng đá rất đẹp và kỳ lạ, với lối ra vào qua 4 cổng, có người được lệnh đứng gác. Nhà vua [ lúc này trị vì Chăm Pa là vua Vira Bhadravarman (1400-1441), từ 1432 được gọi là Indravarman] quấn quanh mình bằng những chiếc vòng vàng, trông thô-kệch giống các sắc dân ở ngoại tộc [ của Trung Hoa]. Quốc Vương Chăm Pa còn là vua các của xứ sở trực thuộc, có gốc là người Ấn Độ [ tác giả dùng từ này với một nghĩa rất rộng rãi, để chỉ cả vua Xiêm, vua các Vương quốc ở Đông Nam Á, Chân Lạp, và vua Sri lanka; có thể vì thấy hình dạng và nét văn hóa giống nhau], [và là] một tín đồ sùng tín Phật Giáo. Trên đầu, ông đội một vương miện ba tầng trang sức thanh-nhã bằng vàng chạm trổ tinh-xảo, giống như mũ được mang bởi các vai phụ cho các nghệ sĩ Kinh Kịch tại Trung Quốc. Trên mình, ông mặc một áo choàng dài bằng vải nước ngoài với các họa tiết nhỏ [được thêu] bằng chỉ ngũ sắc sặc sỡ, và bên dưới mình [của ông] là một tấm khăn [ váy] bằng lụa tơ tằm màu; [và] ông đi chân đất. Khi xuất cung, ông cưỡi lên một con voi, hay ông còn đi bằng một chiếc xe nhỏ với hai con bò vàng kéo đằng trước.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chiếc mũ mà các tù trưởng khác đội được làm bằng lá Thao Diệp khô [ phiêm âm tiếng Chăm Pa: kajan hay tiếng Mã Lai và Indonesia: kajang, chỉ một loại lá cây dứa dại dùng để dệt chiếu thảm, không thấm nước], và cũng giống như chiếc mũ của nhà vua, nhưng có đồ trang trí bằng vàng và nhiều màu sắc; [và] sự khác biệt trong [các chiếc nón biểu thị] thứ bậc của đẳng-cấp. Các chiếc áo choàng nhiều màu sặc sỡ mà họ mặc không dài quá đầu gối, phần dưới thân họ quấn một tấm khăn vải ngoại quốc nhiều màu được dệt rất đẹp.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cung điện nơi nhà vua cư ngụ rất cao và rộng. Các mái dài phía trên đều được lợp loại ngói nhỏ. Bốn bức tường thấp bao quanh được xây dựng bằng đá vôi với phần trang trí cực kỳ công-phu bằng những họa tiết Ấn Độ, [và trông] rất gọn ghẽ, các lớp đá được đẽo gọt và chồng khít với nhau. Các cánh cửa rất lớn được làm bằng gỗ cứng, [và] được trang trí với các hình khắc các thú hoang và gia súc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các ngôi nhà trong đó dân chúng sinh sống có mái lợp bằng tranh dốc xuống; chiều cao của mái hiên nhà (tính từ mặt đất) không thể quá 3 xích [1 xích = 31,242cm]. Mỗi khi ra vào [người ta] ra vào phải khom lưng và cúi đầu xuống; [và có] chiều cao quá khổ là một điều bực mình.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về màu sắc trang phục của họ, người Chăm Pa thích mặc các loại trang phục màu đỏ tím, các loại quần áo màu trắng bị cấm đoán, và chỉ có vua mới được mặc chúng; đối với dân chúng, [trang phục] màu đen, vàng, và tím được phép mặc; nhưng mặc quần áo màu trắng là bị xử tử.

Người đàn ông nước này có mái tóc xoăn bồng, còn phụ nữ chải tóc rồi búi thành một búi tóc nằm ở phía đằng sau đầu. Đa số người dân đều có nước da ngăm đen. Phần trên [của cơ thể] họ mặc áo ngắn bằng vải mỏng, không tay, và quanh phần dưới có quấn một chiếc khăn lụa màu sắc rất bắt mắt. Mọi người đều [đi] chân đất.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khí hậu ở xứ này nóng nhưng dễ chịu, không có sương hay tuyết, lúc nào cũng giống như thời gian tháng Tư hay tháng Năm [Âm lịch]. Cây cối lúc nào cũng xanh tươi.

Miền núi sản xuất gỗ lim, trầm hương, tre Quan Âm [người dịch không biết tre Quan Âm thế nào?], gỗ giáng hương và gỗ mun. Gỗ mun có nước gỗ màu đen rất bóng, và chắc chắn có phẩm chất tốt hơn sản phẩm của các xứ khác. Trầm Hương duy nhất được sản xuất tại một ngọn núi lớn của xứ sở này, thiên hạ khắp nơi đều không đâu có; nó rất quý đắt giá, được trao đổi [theo trọng lượng của chính nó] quy bằng bạc.

Tre Quan Âm giống như sợi mây nhỏ; mỗi một sợi dây dài từ 7 trượng, 8 xích [có màu] đen như sắt; nó có hai hay ba mấu dài từng thốn [ 3,33cm] một; chỉ duy nhất ở xứ này có mà thôi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tê giác và voi vô cùng nhiều. Con tê giác có hình dạng giống như con trâu nước; một con lớn cân nặng bảy hay tám trăm cân [1 cân = 500 gram], toàn thân không có lông, màu đen, và tất cả mình được che phủ bởi các vảy; da nó thì nhăn và dày; chân có ba móng; [và] đầu có một cái sừng mọc ra ở giữa sống mũi, một sừng dài đo được 1,4 xích 5 thốn. Nó không ăn cỏ, nhưng ăn các loại cây hay lá có gai; nó cũng ăn [các mảnh] gỗ khô. Nó bài tiết ra phân tương tự như loại chất thải của một tiệm nhuộm vải.

Ngựa của người Chăm Pa ngắn và nhỏ, trông như con lừa bên Trung Quốc. Trâu nước, bò vàng, lợn và dê đều có rất nhiều. Ngỗng và vịt thì hiếm có. Gà thì ngắn và nhỏ; con lớn nhất không quá hai cân [về trọng lượng] [và] chân của chúng dài một thốn rưỡi và tối đa là hai thốn [chiều cao]. Gà trống có mào đỏ và tai trắng, với eo nhỏ và đuôi vểnh cao; chúng cũng gáy khi người ta nhấc chúng đặt lên trên tay; [chúng] rất được ưa thích vậy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về các loại hoa quả, xứ này có các loại như trái mơ, cát cánh, cam, dưa hấu, cây mía, dừa, mít và chuối nhiều loại. Quả mít giống như trái bí, vỏ bên ngoài giống như vỏ trái vải của xứ Giao Chỉ; bên trong lớp vỏ là các múi cơm màu vàng, to như quả trứng gà, ăn ngọt như mật ong; bên trong [các múi này] là hột mít trông giống như thận con gà; [và] khi nướng lên để ăn, nó có vị như hạt dẻ. [tác giả lần đầu thấy những thứ ở Chăm Pa mà Trung Quốc không có, nên miêu- tả khá kỹ, với người Việt thì thấy bình thường, nhưng với người phương Bắc TQ, đây thực sự là điều mới mẻ]

Về các loại rau, họ có dưa vàng, bí đao, dưa chuột, bầu, cải, cây mù tạt, hành và gừng, và đó là tất cả; các loại hoa quả và rau khác tôi hoàn toàn không thấy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phần lớn đàn ông lấy việc đánh cá để sinh-sống; họ ít làm nghề nông, và vì thế, gạo và ngũ cốc không được dồi dào. Trong nhiều loại gạo của địa phương, hạt gạo nhỏ và dài, và có màu hơi đỏ. Lúa đại mạch và lúa mì đều rất ít. Hàng ngày dân chúng không ngừng nhai hạt cau với là trầu có cảm tưởng họ ăn thay cơm. [ trong nguyên văn tác giả gọi cau là Tân Lang 檳榔, do cách phiên âm tiếng Chăm Pa: Pin-lang, hay pinong, người Malaysia gọi là: pinang].

Khi nam và nữ kết hôn, theo phép tắc người con trai trước tiên phải đến gia đình người con gái và ra mắt song thân. Nếu được cha mẹ cô gái đồng ý, sau mười ngày hay nửa tháng, cha mẹ chàng trai, cùng với thân nhân và bè bạn của họ, rồi có đội chơi đàn, trống và các nhạc cụ vui vẻ sẽ đi theo sẽ hộ tống đôi vợ chồng quay về nhà [bên cha mẹ chồng]; sau đó họ cùng nhau uống rượu và chơi nhạc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cách làm rượu, họ lấy cơm và trộn lẫn cùng với dược thảo, ủ kín [hỗn hợp] trong một cái bình, và đợi cho đến khi nó thành rượu. Qua thời gian rượu đã chuyển vị ngon, khi muốn uống rượu, theo nguyên tắc họ lấy ống tre nhỏ có đốt dài, vào khoảng ba đến bốn xích chiều dài, cắm nó vào trong bình rượu; sau đó tân khách cùng ngồi, chủ nhà đổ một số nước tùy theo số người uống, và lần lượt hút [rượu] và uống nó một cách trịnh-trọng; khi bình rượu bị uống cạn sạch, họ lại đổ thêm nước và uống tiếp; [việc này họ làm] cho mãi đến khi không còn mùi [rượu] [nữa]; [và] sau đó họ sẽ ngừng lại.

Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút; họ dùng da dê kéo mỏng hay vỏ cây hun khói đen; họ đóng thành lớp và gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, [trong đó], với phấn trắng, họ viết chữ dể ghi lại thành bài văn, bài ký hay các tài liệu khác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hình phạt [tại] xứ sở này: với [các] tội nhẹ, tội nhân bị đánh vào giữa lưng bằng một sợi roi mây nhỏ; đối với [các tội] nặng, sẽ bị cắt mũi; với tội trộm cướp, bị chặt tay; đối với tội ngoại tình, cả đàn ông và đàn bà bị khắc lên mặt bằng dùi sắt nung đỏ sao cho thành vết sẹo; đối với các tội nghiệm-trọng nhất, họ lấy một thanh gỗ cứng, vót nhọn một đầu thành cây cọc nhọn hoắt , đặt cọc đó trên một khúc gỗ trông tựa như một một chiếc thuyền nhỏ, [khúc gỗ này] họ đặt giữa dòng nước thủy triều dâng; [và] họ bắt tội nhân ngồi trên mũi cọc gỗ nhọn, khi nước rút; [cọc] gỗ này sẽ đâm xuyên từ hậu môn và thò ra từ cửa miệng và tội nhân bị chết; [và] rồi [thi thể] bị bỏ trên dòng nước để thị uy dân chúng.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top