Đoạn cuối của đơn:
Phần 4:
NHỮNG DẤU HIỆU VI PHẠM TRONG ĐIỀU TRA VÀ LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN
Qua những tài liệu mới xuất hiện trình bày ở trên, liên hệ với nội dung, bản chất và các tình tiết của vụ án, chúng tôi cho rằng Điều tra viên của CQĐT Công an tỉnh Long An có những hành vi có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án.
Ngoài việc rất nhiều bút lục thể hiện sự ngoại phạm của Hồ Duy Hải bị rút khỏi hồ sơ vụ án – như trình bày ở trên, còn thể hiện ở những điểm chính sau đây:
1. Không xác định, trưng cầu giám định giờ chết của hai nạn nhân:
Theo quy định tại BLTTHS, trong chứng minh tội phạm, việc xác định chính xác thời gian vụ án xảy ra là có tính nguyên tắc, bắt buộc.
Trong vụ án này, ngay từ đầu CQĐT đã xác định được nguyên nhân chết của hai nạn nhân, đồng thời đã tiến hành chụp ảnh hiện trường, khám nghiệm, giám định tử thi…vv. Qua các tình tiết được ghi nhận và kết quả khám nghiệm, giám định, như: tình trạng thức ăn trong dạ dày (thức ăn đã nguyễn, lượng ít), độ đông máu, độ co cứng tử thi, vết hoen, nhiệt độ cơ thể, màu da …vv – có đủ cơ sở để có thể xác định được thời điểm chết của hai nạn nhân. Đây cũng chính là thời điểm hung thủ gây án.
Qua bản “Báo cáo ban đầu số” 16/VKS.P1A ngày 14/1/2008 của VKSND tỉnh Long An (BL.VKS: 61 – bị rút khỏi hồ sơ vụ án) cho thấy ngay từ đầu, đã xác định được khá chính xác như sau: “Thời gian xảy ra khoảng 21h”; Cả hai nạn nhân đều chết sau ăn khoảng 24h. Thời gian chết khoảng 10h”.
Qua nội dung nêu trong Báo cáo ban đầu, đã cho thấy kết quả điều tra (nêu trong KLĐT và Cáo Trạng), xác định vụ án xảy ra lúc khoảng 20h30 và cũng là thời điểm hai nạn nhân chết) hoàn toàn mâu thuẫn và thiếu cơ sở khoa học.
2. Cố ý làm sai lệch giờ hung thủ gây án, bỏ qua kết quả điều tra xác định nạn nhân Vân vẫn còn ở tiệm bán trái cây lúc 21h01’:
Bên cạnh việc không giám định giờ chết của hai nạn nhân, còn có nhiều tình tiết thể hiện việc CQĐT đã cố tình làm sai lệch thời điểm hung thủ gây án.
Chúng tôi luôn cho rằng việc CQĐT xác định thời gian hung thủ ra tay sát hại hai nữ nạn nhân lúc khoảng 20h30 là quá sớm, không hợp lý.
CQĐT xác định thời gian gây án lúc "khoảng 20h30" là căn cứ vào lời khai của Hồ Duy Hải và chị Huỳnh Thị Kim Tuyền, người sống phía sau bưu cục Cầu Voi. Tại “Biên bản ghi lời khai” chị Tuyền ngày 29/3/2008 (BL 258), khoảng 20h30 phút tối 13/1/2008 chị có nghe tiếng la “ướt ướt” phát ra từ bưu cục.
Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án còn thể hiện có 3 bút lục khác về vấn đề này và có sự mâu thuẫn rất lớn về thời gian, so với lời khai ngày 19/3/2008 của chị Huỳnh Thị Kim Tuyền. Cụ thể:
1. Chị Nguyễn Thị Bích Ngân, là người bán trái cây cho Vân khai (BB ghi lời khai ngày 14/1/2008) như sau: “Vào lúc khoảng 20g 45 – 21g ngày 13/1/2008 tôi đang bán trái cây thì có 1 cô gái ốm, cao mặc áo sơ mi màu trắng, tóc ngang vai đi bộ lại chỗ tôi mua trái cây. Tôi biết cô gái này làm ở Bưu điện Cầu Voi". Cô gái này chính là nạn nhân Vân.
2. Đặc biệt: hình ảnh do camera ghi lại tại cây xăng Cầu Voi lúc 21h01': Tại “Biên bản về việc xác định thời gian Nguyễn Thị Thu Vân đi mua trái cây trước khi bị sát hại” do CQĐT thực hiện ngày 16/1/2008 (BL 262) nội dung ghi rõ như sau:
"Anh Long (chồng chị Ngân, người bán trái cây cho Vân) cho biết: vào khoảng 20h50’ ngày 13/1/2008 anh ở tại nhà, lúc này có Vân nhân viên bưu điện Cầu Voi đến mua trái cây tại nhà anh, vợ anh là Ngân ra bán trái cây cho Vân, cùng thời điểm này anh đi đến cây xăng Cầu Voi để bán xăng thì Vân còn ở tại nhà anh. Khi anh Long đi đến cây xăng Cầu Voi thì cây xăng Cầu Voi có ghi hình ảnh do chủ doanh nghiệp XD Cầu Voi có lắp đặt camera.
CQĐT đã mở máy quay phim ghi hình tại Cây xăng Cầu Voi xác định thời gian anh Nguyễn Thanh Long đến cây xăng đồng thời để xác định lại thời gian Nguyễn Thị Thu Vấn đến mua trái cây tại nhà anh Long. Qua kiểm tra, máy quay phim tại cây xăng Cầu Voi thì anh Long đi đến cây xăng Cầu Voi để bán xăng là lúc 21h1'40'' ngày 13/1/2008. Khoảng cách từ nhà anh Long đến cây xăng Cầu Voi là khoảng 50m. Khi anh đi đến cây xăng thì Vân còn tại nhà anh".
3. Trong số những tài liệu bị rút khỏi hồ sơ vụ án mà chúng tôi vừa phát hiện, có Biên bản lấy lời khai của chị Tuyền ngày 14/1/2008, tức ngay sau đêm xảy ra vụ án (BLVKS 113 – VKS đánh số). Theo BB này, chị Tuyền khai nghe tiếng kêu “ái ái” còn sớm hơn: lúc 20h.
Qua những tài liệu trên, cho thấy:
- Có sự chênh lệch lớn (30 - 60 phút) giữa 2 lời khai của chính chị Tuyền và lời khai của chị Ngân bán trái cây cho nạn nhân Vân. Nếu xác định thời điểm chị Tuyền nghe tiếng kêu “á á” 20h30’ là lúc hung thủ gây án thì sẽ vô lý, vì lúc 21h01' – tức là 30 phút sau đó, nạn nhân Vân vẫn còn đang ở tiệm trái cây bên ngoài bưu cục. Xét về mặt logic, thời điểm Vân mua trái cây phải được xem là quan trọng hơn rất nhiều so với thời gian chị Tuyền nghe tiếng kêu. Vì nạn nhân Vân không thể bị giết rồi sau đó 30 phút lại đi mua trái cây.
- Theo quy định tại BLTTHS, khi có những tình tiết/lời khai mâu thuẫn, thì CQĐT phải tiến hành xác minh, đối chất làm rõ. Thế nhưng trong vụ án này CQĐT đã không cho đối chất, mà thậm chí còn rút bớt một bản khai của chị Tuyền và không sử dụng thông tin rất quan trọng trong 2 bút lục còn lại.
- Việc xác định thời gian gây án sai hoàn toàn có thể dẫn đến khả năng bỏ lọt hung thủ thật sự. Vì trong vụ án này, thời gian gây án có thể chỉ diễn ra trong vòng 5-10 phút. Một người từ TP.HCM, có thể gây án lúc 22h, sau đó quay về lại TP.HCM ngủ và được người quen xác nhận là tối qua ngủ ở nhà. Hoặc một đối tượng tình nghi nhưng chứng minh được đang ở quán cà phê lúc 21h lại có thể được xem là có tình tiết “ngoại phạm” trong trường hợp CQĐT xác định giở gây án không chính xác.
3. Dữ liệu camera đêm 13/1/2008 và Nhân viên phụ trách lầu 1:
Qua xem xét Bộ ảnh khám nghiệm hiện trường, chúng tôi nhận thấy: thời điểm 1/2008 khi vụ án xảy ra, tại tầng trệt Bưu cục Cầu Voi có ít nhất 2 vị trí gắn camera an ninh, giám sát và bảo vệ.
Chúng tôi được biết tại Bưu cục Cầu Voi từ năm 2008 được chia thành 2 khu vực: Tầng trệt kinh doanh dịch vụ bưu điện do hai nữ nhân viên Hồng và Vân phụ trách; Tầng 1 là nơi để máy móc thiết bị viễn thông - thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bưu điện tỉnh Long An. Có một nhân viên phụ trách kỹ thuật, vận hành hệ thống máy móc thiết bị trên tầng 1.
Việc tại bưu cục Cầu Voi có gắn camera an ninh là một thuận lợi đặc biệt và rất quan trọng. Vì:
- Nếu còn lưu được dữ liệu camera, thì chắc chắn sẽ xác định chính xác 100% hung thủ có phải là Hồ Duy Hải hay không, vì phạm vi quan sát của camera bao quát toàn bộ hiện trường vụ án.
- Trong hồ sơ vụ án có sự mâu thuẫn, hoặc chưa rõ liên quan đến lầu 1. Nhân viên phụ trách kỹ thuật lầu 1 làm việc tại bưu cục và chắc chắn có quen biết hai nữ nạn nhân. Do vậy, nếu xác định người này là nhân chứng, chắc chắn sẽ có thêm nhiều thông tin quan trọng về vụ án.
Rất bất thường, khi trong hồ sơ vụ án hoàn toàn không có bất kỳ thông tin, tài liệu nào về camera gắn tại Bưu cục và người nhân viên phụ trách kỹ thuật lầu 1.
Chúng tôi cho rằng Bưu điện tỉnh Long An hiện có thể vẫn còn lưu giữ dữ liệu ghi hình tối 13/1/2008 tại bưu cục Cầu Voi và hoàn toàn có thể cung cấp thông tin về nhân viên phụ trách lầu 1 thời điểm xảy ra vụ án – góp phần làm sáng tỏ các tình tiết còn “mờ” của vụ án.
4. Nguyễn Văn Nghị thật sự là ai và có ngoại phạm?
Nguyễn Văn Nghị là người mà ngay sau khi vụ án xảy ra, báo chí đưa tin đây chính là nghi can số 1, là bạn trai của nữ nạn nhân Ánh Hồng và đã bị CQĐT tạm giữ, lấy lời khai. Tuy nhiên sau đó trong hồ sơ vụ án hầu như không có bất kỳ một thông tin nào về người này.
Từ năm 2015, gia đình Hồ Duy Hải có Đơn tố giác đối tượng Nguyễn Văn Nghị, vì hàng loạt dấu hiệu liên quan hoặc ít nhất cũng là nhân chứng rất quan trọng trong vụ án. Tuy nhiên Công an tỉnh Long An chỉ trả lời đơn giản là: Không có ai là Nguyễn Văn Nghị, mà chỉ có một người tên là Nguyễn Hữu Nghị và người này không liên quan gì đến vụ án.
Tuy nhiên, trong Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKSTC-V7 ngày 22/11/2019 của VKSNDTC đã nêu rõ: ‘đối tượng tình nghi là Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Mi Sol chưa được làm rõ”. Tại phiên tòa giám đốc thẩm vừa qua, các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Long An đều trình bày và xác định CÓ đối tượng Nguyễn Văn Nghị (CQĐT có lấy lời khai, so sánh dấu vân tay, … vv - nhưng cho rằng không có chứng cứ xác định là nghi can nên không đưa vào hồ sơ vụ án!?). Ngay trong QĐ giám đốc thẩm của TANDTC cũng nêu tên đối tượng Nguyễn Văn Nghị.
Như vậy, có thể khẳng định Nguyễn Văn Nghị là một nhân vật có thật.
Ngoài ra, cũng chưa có bất kỳ bằng chứng nào thể hiện Nguyễn Văn Nghị là người có tên Nguyễn Hữu Nghị hiện nay. Nếu Nguyễn Văn Nghị là Nguyễn Hữu Nghị - thì tại sao tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 6-8/5/2020 vừa qua, CQĐT công an tỉnh Long An không nêu vấn đề này, mà vẫn cung cấp thông tin và trình bày về đối tượng có tên là Nguyễn Văn Nghị?
Như vậy, rõ ràng tình tiết về một người có tên là Nguyễn Văn Nghị là MỚI – đã lần đầu tiên được chính thức nêu tên trong QĐ giám đốc thẩm. Hiện nay trong hồ sơ vụ án mà chúng tôi tiếp cận chưa hề có bất kỳ một bản khai hay xác minh nào về nhân vật này. Điều này là rất bất thường và cũng là bằng chứng thể hiện việc làm sai lệch hồ sơ vụ án.
5. Nhiều tình tiết cho thấy có dấu hiệu một người khác - từ Bộ ảnh hiện trường đối chiếu với Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/1/2008:
Cũng qua bộ ảnh hiện trường vụ án do CQĐT chụp sáng 14/1/2008, đối chiếu so sánh với Biên bản khám nghiệm hiện trường cùng ngày, chúng tôi nhận thấy có nhiều tình tiết, dấu hiệu bất thường đã không được ghi nhận khách quan, thậm chí loại bỏ khỏi hồ sơ vụ án. Trong khi những tình tiết này chắc chắn có sự liên quan đến người nào đó có mối quan hệ với hai nạn nhân Hồng và Vân. Cụ thể như sau:
5.1. Bao giấy đựng ảnh và tờ “Giấy chứng nhận” trên bàn salon phòng khách đã đi đâu?
Trong BB khám nghiệm hiện trường, đã mô tả khá chi tiết những đồ vật trên bàn salon phòng khách. Như: ly nước, 2 bịch trái cây, những miếng xốp, tạp chí Đất Mũi. Lâu nay chúng tôi đều tin sự thật như vậy.
Nhưng khi tiếp nhận Bộ ảnh hiện trường mới đây, chúng tôi thấy trên mặt bàn còn có 2 đồ vật đặc biệt, có thể chứa thông tin liên quan đến hung thủ, hoặc mối quan hệ giữa nạn nhân và hung thủ, và những khả năng liên quan khác. Đó là 1 bao thư đựng ảnh và 1 Giấy chứng nhận: thể hiện bên trong phải có hình ảnh của ai đó và giấy chứng nhận phải ghi tên người nào đó?
Tại sao 2 đồ vật quan trọng này đã không được ghi nhận trong Biên bản khám nghiệm hiện trường và cũng không thu giữ?
5.2. Tô, chén và nắp vung trên cầu thang ai sử dụng, tạo ra?
Trong bộ ảnh hiện trường có nhiều tấm ảnh chụp khu vực phòng bếp, cầu thang lên lầu 1. Trong đó, tại các bức ảnh số 21 (BL 395) và số 33 (BL 399) thể hiện trên cầu thang lên lầu 1 có 1 cái tô, 1 cái chén, 1 ly nước và 1 nắp vung (úp xuống trong ảnh 21 và ngửa lên trong ảnh 33).
Tô, chén, ly nước này ai đã sử dụng? Trong khi Hồ Duy Hải không có lời khai nào về việc này.
5.3. Dấu vân tay đã thu được là của ai? Việc rút bất thường thông tin/tài liệu về dấu vân?
- Theo Báo cáo ban đầu ngày 14/1/2008 của VKSND tỉnh Long An, nêu rõ có các dấu vân tay tại hiện trường là “mới”, thu được và có thể truy nguyên. Thực tế CQĐT đã thu dấu vân và chính vì vậy mới trưng cầu giám định được. Mà kết quả là Bản kết luận dấu vân tay của Hồ Duy Hải không trùng khớp.
Tuy nhiên, có rất nhiều điểm bất thường, thể hiện dấu hiệu tình tiết dấu vân đã được rút khỏi hồ sơ vụ án một cách có chủ ý, dẫn đến khả năng bỏ lọt hung thủ thật sự.
Trong Biên bản khám nghiệm hiện trường mô tả rõ có 3 vị trí có dấu vân là trên cánh tủ phòng ngủ, cánh cửa sau phòng bếp và trên tay nắm lavabo. Các dấu vân này đều đã được thu giữ (ghi rõ trong BB khám nghiệm hiện trường). Trong Biên bản BLVKS số 29, 30, 31, 32 còn ghi rõ là thu “dấu vân trên cánh tủ và cánh cửa”.
Thế nhưng, trong trong Cáo trạng chỉ mô tả dấu vân ở lavabo (bỏ qua dấu vân thu ở cánh cửa và cánh tủ). Điều này là rất bất thường, cố ý.
Trong khi đó, ngoài việc dấu vân tay không phải của HDH, thì việc dấu vân tay có trên cánh tủ chính là thêm một tình tiết nữa chứng minh hung thủ không phải là Hải. Vì Hải không có động tác nào (theo Cáo trạng và KLĐT, thực nghiệm điều tra …) có thể làm dính vân tay trên cánh tủ.
5.4. Ai đã dựng lại chiếc bếp dầu bị đổ trước đó? Hiện trường giả?
Trong bộ ảnh chụp hiện trường ngay tại vị trí có xác hai nạn nhận, cho thấy một chiếc bếp dầu bị bung tất cả các bộ phận:. nắp chụp trên văng trên mặt bàn ăn, các vòng chụp (gồm 3 cái) rơi rải rác trên nền nhà; dưới nền nhà dầu, cặn dầu chảy lênh láng, dính lên người hai nạn nhân.
Thế nhưng chiếc bếp dầu lại ở vị trí đứng ngay ngắn, không nghiêng (để có thể gây chảy dầu). Điều này cho thấy phải có ai đó dựng lại chiếc bếp dầu trước đó đã bị đổ ngã. Việc này Hồ Duy Hải không có lời khai nào và cũng chưa được CQĐT làm rõ. Liệu có khả năng hiện trường vụ án đã bị hung thủ giàn dựng giả?
5.5. Ai đã ở trên lầu 1 đêm 13/1/2008?
Từ nhiều năm qua, chúng tôi cũng nêu trong các đơn sự nghi ngờ về việc lầu 1 bưu cục Cầu Voi có dấu hiệu liên quan đến hung thủ gây án. Trong bản ảnh chụp hiện trường ngày 14/1/2020 mới xuất hiện, đã cho thấy điều chúng tôi nghi vấn là có cơ sở. Đó là: Cửa trước trên lầu 1 mở và cánh cửa “khóa” mà CQĐT ghi trong Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/1/2008 thực ra là một cửa giả (dùng để lấy sáng và quay ngang hông nhà).
Phần 5:
DẤU HIỆU VI PHẠM TỐ TỤNG, THIẾU KHÁCH QUAN TRONG XÉT XỬ
1. Hồ Duy Hải đã liên tục kêu oan, nhưng chưa bao giờ được xem xét về nội dung kêu oan
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự là phải bảo đảm xác định sự thật của vụ án. CQĐT, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và cả chứng cứ xác định vô tội của bị can, bị cáo. Đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Trong vụ án này, việc Hồ Duy Hải khai nhận tội là có, tuy nhiên phần lớn là trong các bản khai có sự “tham gia” khá bất thường của luật sư Võ Thành Quyết – một luật sư chỉ định – trong khi gia đình đã mời luật sư Nguyễn Văn Đạt. Tuy nhiên, có một sự thật ngày càng rõ – qua các tài liệu mới xuất hiện, là Hồ Duy Hải cũng liên tục kêu oan trong tất cả các phiên tòa xét xử và cho tới hiện nay. Hải khẳng định mình chỉ khai, chứ không thực hiện hành vi giết hai nạn nhân.
Qua những tài liệu mới xuất hiện, chúng tôi được biết rõ thêm như sau:
- Khi nhận Cáo trạng, lời nói đầu tiên Hải nói mình không phạm tội, Cáo Trạng không đúng.
- Hồ Duy Hải kêu oan tại phiên tòa sơ thẩm. Báo chí có phản ánh.
- Đặc biệt nghiêm trọng: Hồ Duy Hải kháng cáo kêu oan nhưng không được toà phúc thẩm xem xét, toàn bộ ý kiến bào chữa của luật sư không hề được ghi nhận trong bản án phúc thẩm. Trong Biên bản phiên toà phúc thẩm đã thể hiện rất nhiều lần Hải nói mình bị oan, không giết người, đã khai không đúng. Trong lời nói sau cùng Hồ Duy Hải cũng đề nghị “xem xét lại vụ án này thật kỹ”, khẳng định mình không phạm tội. Thế nhưng HĐXX phúc thẩm đã không hề làm rõ tình tiết kêu oan của Hải, mà chủ yếu là “kiểm tra” lời những bản cung của Hải. Việc kết luận và kết tội thuần tuý dựa vào lời khai. Những lời bào chữa có căn cứ, chỉ ra hoàng loạt điểm mâu thuẫn, vô lý và đề nghị huỷ án điều tra lại của luật sư đã không được toà xem xét; cũng không ghi nhận – dù chỉ một chữ, trong bản án phúc thẩm.
- Trong thời gian đang chờ thi hành án, năm 2011 từ trong Trại tạm giam công an tỉnh Long An Hồ Duy Hải đã gửi đơn kêu oan đến Quốc Hội.
- Trong các đợt tiếp xúc với Đoàn giám sát, các Đoàn công tác liên ngành – Hồ Duy Hải cũng đều kêu oan. Đặc biệt, trong Biên bản làm việc khi gặp Đoàn giám sát QH cuối năm 2014, Hồ Duy Hải thậm chí còn khai mình bị đánh, bị mớn cung.
- Liên tục nhiều năm qua và cho tới hiện tại, mỗi khi gia đình vào thăm gặp, Hồ Duy Hải đều luôn nói mình bị oan và nói gia đình tìm Chủ tịch nước để xin minh oan cho mình.
Thật bất thường là hầu hết những tài liệu thể hiện lời kêu oan của Hồ Duy Hải hoặc là đã bị rút khỏi hồ sơ vụ án, hoặc là các luật sư chưa bao giờ được tiếp cận. Chỉ sau phiên tòa giám đốc thẩm, những tài liệu thể hiện việc Hồ Duy Hải kêu oan mới xuất hiện.
Như vậy, có thể khẳng định việc Hồ Duy Hải kêu oan là xuyên suốt, có thật. Nhưng nội dung kêu oan của Hồ Duy Hải chưa bao giờ được xem xét một cách công bằng, đối chiếu với những tình tiết mâu thuẫn, chưa làm rõ trong hồ sơ vụ án – như là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Điều này thật đau lòng.
2. Rất nhiều tình tiết bất hợp lý, nhiều tài liệu còn “thiếu” (luật sư chưa từng thấy) và/hoặc bị rút khỏi hồ sơ vụ án:
Trong khuôn khổ một lá đơn, chúng tôi không thể liệt kê hết, chỉ nêu ra một số:
- Theo lời khai của 2 nhân chứng Nguyễn Mi Sol và Lê Thị Thu Hiếu, tại Bưu cục Cầu Voi có 2 con dao, 2 cái thớt. Giả định rằng con dao do các dân phòng phát hiện sau tấm bảng là con dao hung khí thật, thì vẫn còn 1 con dao và 1 cái thớt nữa, đã đi đâu?
- Bản khai của 2 nhân chứng từng bị xem là nghi can hàng đầu: Nguyễn Mi Sol và Nguyễn Văn Nghị ngay sau khi vụ án xảy ra (trước thời điểm HDH bị bắt) đang ở đâu? Những chứng cứ nào thể hiện sự ngoại phạm của hai nhân chứng này?
- Bản khai nhân viên phụ trách kỹ thuật lầu 1?
- Bảng kê tài liệu, bút lục có trong hồ sơ vụ án của CQĐT?
- Quyết định trưng cầu giám định vân tay: Nguyễn Mi Sol, Nguyễn Văn Nghị, Hồ Duy Hải?
3. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm Lê Quang Hùng trước đó đã chứng kiến thực nghiệm điều tra, không thể bảo đảm xét xử khách quan, độc lập:
Trong bản ảnh thực nghiệm hiện trường do CQĐT chụp (ngày 20/8/2008) đã cho thấy một tình tiết bất ngờ: thẩm phán Lê Quang Hùng – người sau đó là chủ tọa phiên tòa sơ thẩm, đã có mặt chứng kiến quá trình thực nghiệm điều tra.
Theo quy định tại Điều 42 và 46 BLTTHS 2003 (nay là Điều 49 và 53 BLTTHS 2015), thì: Người tiến hành tố tụng (thẩm phán) phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu họ đã tham gia với tư cách là người làm chứng trong vụ án đó; hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Việc thẩm phán Hùng có mặt, chứng kiến Hồ Duy Hải thực nghiệm điều tra – là một thủ tục tố tụng thuộc giai đoạn điều tra và có ý nghĩa tương đương vai trò là “người chứng kiến”; rồi sau đó chính ông lại là chủ tọa điều khiển phiên tòa xét xử sơ thẩm - theo chúng tôi chắc chắn sẽ không thể bảo đảm việc xét xử được vô tư, khách quan. Vì dù muốn hay không, trong nhận thức chủ quan, ông Hùng mặc nhiên đã xem Hồ Duy Hải là người phạm tội. Việc này thậm chí có dấu hiệu vi phạm quy định về tố tụng hình sự.
Mặt khác, sự có mặt của thẩm phán Lê Quang Hùng khi vụ án vẫn đang trong giai đoạn điều tra, chưa có KLĐT, chưa có Cáo trạng truy tố, nhưng đã có thẩm phán – là người của cơ quan xét xử “tham gia” vào, biết trước sẽ là người xét xử sơ thẩm rõ ràng là điều rất bất thường và không bảo đảm sự độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Phần 6:
DẤU HIỆU LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU TRA VIÊN LTT
Qua những nội dung đã trình bày ở trên, liên quan đến các tài liệu đã bị rút khỏi hồ sơ vụ án một cách cố ý, chúng tôi muốn đặc biệt đề cập đến 2 tài liệu (bút lục) sau đây, mà chúng tôi cho rằng có liên quan đến trách nhiệm của Điều tra viên LTT
(Ghi chú: Vì lý do tế nhị, chúng tôi xin được viết tắt tên ĐTV trong Đơn đăng công khai này):
1. Báo cáo (viết tay) của một điều tra viên (BLVKS: 203, 204)
Tài liệu này, có nội dung, cho thấy được lập trước thời điểm có Kết luận điều tra (khoảng tháng 7/2008).
Nội dung trong tài liệu này thể hiện rõ kết quả điều tra, đã xác định rất chính xác như sau:
· Thời điểm xảy ra: 21h.
· Có tên 4 nhân chứng đã vào bưu cục Cầu Voi tối 13/1/2008 và được lấy lời khai là: Đinh Văn Còi, Lê Thanh Trí, Hồ Văn Bình, Đinh Vũ Thường.
· Có tên chị Ngân bán trái cây (có lời khai về việc Vân mua trái cây lúc 20h45-21h).
2. Báo cáo vụ án HDH ngày 28/7/2008 ghi tên ĐTV LTT (BLVKS: 57, 58, 59, 60)
Từ nội dung Báo cáo này cho thấy: Mặc dù thời điểm ngày viết Báo cáo (ngày 28/7/2008) đã có kết quả điều tra, xác minh những tình tiết rất quan trọng như:
- Kết quả xác minh camera cây xăng (thể hiện lúc 21h01 nạn nhân Vân vẫn còn ở ngoài)
- Kết luận giám định dấu vân tay của Hồ Duy Hải (thể hiện Hải ngoại phạm).
- Bản khai ngày 20/3/2008 không nhận tội của Hồ Duy Hải, có ghi tên nhiều người chứng kiến.
- Bản khai của các nhân chứng Đinh Văn Còi, Lê Thanh Trí, Hồ Văn Bình (thể hiện HDH ngoại phạm).
- Bản khai của Nguyễn Mi Sol, Nguyễn Văn Nghị (trước khi bắt Hồ Duy Hải, chắc chắn có nhiều thông tin về Nguyễn Văn Nghị, kỹ sư Trung …vv).
- Vv…
Thế nhưng trong Báo cáo của ĐTV LTT đã KHÔNG hề đề cập đến các tình tiết rất quan trọng nêu trên. Trong khi đây là những chứng cứ xác định Hồ Duy Hải hoàn toàn ngoại phạm, không liên quan.
Chưa hết, trong Báo cáo còn thể hiện ĐTV LTT không hề tiến hành đối chất, làm rõ những mâu thuẫn trong nội dung các bản khai của các nhân chứng mà chính ĐTV này lấy lời khai.
Ngoài ra, trong Báo cáo ĐTV LTT còn khẳng định hầu hết các tình tiết do Hồ Duy Hải khai, vẽ sơ đồ, nhận dạng … là “phù hợp”, trong khi sự thật không phải vậy. Cụ thể:
* Làm sai lệch bản chất chiếc ghế “thu tại hiện trường”
Theo Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/1/2008 (bản VKS đánh số BL) cho thấy ngay từ ngày 14/1/2008 CQĐT đã thu giữ chiếc ghế inox mã số HPN2447052, kích thước 98cm. Đây mới chính là chiếc ghế tang vật thật sự.
Đến ngày 25/3/2008, CQĐT lại đến Bưu cục Cầu Voi thu một ghế. Theo Biên bản tạm giữ đồ vật (chiếc ghế) ngày 25/3/2008 (BL: 328, 329), chiếc ghế này kích thước 67cm, mã số 44705.
Như vậy, hai chiếc ghế này hoàn toàn khác nhau về mã số, kích thước và đặc biệt là khác nhau về bản chất. Chiếc ghế thu ngày 25/3/2008 sau khi bắt Hồ Duy Hải không phải là ghế tang vật thật.
Thế nhưng, trong Báo Cáo của ĐTV LTT lại nói rằng
“Ngày 10/7/2008 CQĐT đã cho bị can Hải nhận dạng chiếc ghế mà CQĐT đã thu giữ ngày 25/3/2008 tại Bưu cục Cầu Voi. Kết quả bị can Hải xác định đúng là cái ghế mà CQĐT thu giữ là GHẾ DÙNG ĐẬP ĐẦU NẠN NHÂN VÂN”.
Qua đó, cho thấy ĐTV LTT đã làm sai lệch kết quả điều tra một cách cố ý. Thay thế chiếc ghế kích thước 67cm thành tang vật thật. Và việc Hồ Duy Hải nhận dạng một chiếc ghế khác lại được xác định là “hoàn toàn phù hợp”!? Trong khi đó, chiếc ghế tang vật thật đã biến mất bất thường đang ở đâu?
* Làm sai lệch bản chất cái thớt dính máu:
Trong Báo cáo của ĐTV LTT ghi:
"Ngày 10/7/2008 tiến hành cho bị can Hải nhận dạng cái thớt mà bị can dùng làm hung khi đánh nạn nhân Hồng, kết quả phù hợp với đặc điểm cái thớt mà nhân chứng xác nhận có ở Bưu cục Cầu Voi".
Với nội dung như vậy, ai cũng hiểu rằng Hồ Duy Hải đã nhận dạng được chiếc thớt mà mình đã dùng để đánh nạn nhân Hồng. Nhưng sự thật hoàn toàn không phải vậy.
Quá trình khám nghiệm hiện trường ngày 14/1/2008 chi ghi nhận có 1 cái thớt phía trên đầu nạn nhân Hồng (ghi chú: thực tế trên cái thớt này dính rất nhiều máu, là tang vật vì có dấu hiệu liên quan đến vụ án mạng). Nhưng CQĐT đã không thu giữ cái thớt này. Đến ngày 24/6/2008 CQĐT mới cho nhân chứng Lê Thị Thu Hiếu đi mua 1 cái thớt về nộp – thể hiện tại Biên bản xác định đồ vật ngày 26/6/2008 (BL 205).
Do vậy, chắc chắn không thể có chuyện Hồ Duy Hải nhận dạng cái thớt mà mình đã dùng để đánh nạn nhân Hồng như trong Báo cáo nêu.
Qua đó, cho thấy ĐTV LTT đã làm sai lệch kết quả điều tra một cách cố ý. Thay thế cái thớt mua ở chợ thành tang vật thật.
* Hồ Duy Hải vẽ sơ đồ hiện trường hoàn toàn không đúng, thiếu nhiều chi tiết cơ bản và quan trọng, nhưng vẫn kết luận “hoàn toàn phù hợp”
Trong bản “Sơ đồ hiện trường vụ án” do Hồ Duy Hải tự tay vẽ ngày 23/3/2008 (BL.VKS: 112) cho thấy Hải đã vẽ sai rất nhiều vị trí, và thiếu rất nhiều vật dụng, tường, cửa quan trọng. Như: sai vị trí cầu thang (gồm cả hướng đi), bếp, bàn phòng bếp, và đặc biệt là vị trí chiếc ghế inox (được xác định là Hải dùng đập đầu Vân). Trong Cáo Trạng (trang 3) ghi rõ kết quả điều tra Hải thấy chiếc ghế trên phòng khách gần salon, cầm trên tay. Thế nhưng trong Bản sơ đồ do Hải vẽ, chiếc ghế nằm ở vị trí sát tường là không đúng, cũng không phải là vị trí mô tả tại hiện trường (dưới chân nạn nhân Vân). Và thiếu rất nhiều chi tiết quan trọng như: vị trí tủ, giường, két sắt, ghế, …vv.
Nếu so sánh với Sơ đồ do Kỹ thuật viên Nguyễn Duy Du vẽ ngày 14/1/2008 (BL: 48, 49) và thực tế hiện trường Bưu cục sẽ thấy là hoàn toàn khác biệt. Đây cũng chính là chứng cứ góp phần thể hiện Hồ Duy Hải khó có thể là hung thủ khi lời khai thì quá chi tiết mà bản vẽ thì hoàn toàn không khớp.
Tóm lại: Qua nội dung bản Báo cáo vụ án Hồ Duy Hải ngày 28/7/2008, chúng tôi cho rằng thể hiện rất rõ dấu hiệu của hành vi cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án của điều tra viên LTT. Hệ quả, dẫn đến trong hồ sơ vụ án bị rút, không thể hiện các tình tiết ngoại phạm và không liên quan của Hồ Duy Hải. Toà án các cấp, đặc biệt là cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm đều không hề biết đến những tình tiết này khi xét xử. Đây là một thực tế, là sự thật.
Tất nhiên, chúng tôi không nói rằng chỉ duy nhất Điều tra viên LTT là có hành vi có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án trong vụ án này. Vấn đề làm sai lệch hồ sơ vụ án rất cần được điều tra, làm rõ.
Kính thưa quý cơ quan,
Đã 13 năm qua, gia đình Hồ Duy Hải và các luật sư liên tục gửi đến các cơ quan chức năng 3 lá đơn chính: Đơn đề nghị giám đốc thẩm (từ 2012), đơn tố giác đối tượng Nguyễn Văn Nghị (từ 2015); đơn tố cáo làm sai lệch hồ sơ vụ án (từ 2017). Trong đó, chúng tôi đã nêu lên rất nhiều vấn đề mâu thuẫn, chưa rõ; đặc biệt là tình tiết ngoại phạm về thời gian và dấu vân tay của Hồ Duy Hải.
Nay qua những tài liệu có dấu hiệu bị rút khỏi hồ sơ vụ án vừa mới phát hiện và trình bày ở trên, càng cho thấy lời lời kêu oan của Hồ Duy Hải, cũng như những vấn đề mà chúng tôi đã nêu ra từ nhiều năm qua là hoàn toàn có cơ sở. Những tình tiết ngoại phạm của Hồ Duy Hải nay đã có thêm rất nhiều tài liệu/chứng cứ chứng minh rõ ràng.
Qua những điều trình bày nêu trên, chúng tôi thấy rằng:
- Dấu hiệu hành vi cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án trong vụ án này rất rõ ràng. Qua việc rút bớt các tài liệu rất quan trọng, và không sử dụng những kết quả kiểm tra, xác minh có lợi cho Hồ Duy Hải, cho thấy đây là hành vi cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, hoàn toàn không phải là sơ ý. Hành vi này có mục đích là: cố tình ép có tội đối với Hồ Duy Hải, dù không có chứng cứ, cơ sở khách quan nào.
- Dấu hiệu có một (hoặc 2) người thanh niên khác đã có mặt tại bưu cục Cầu Voi tối 13/1/2008 và người này không phải là Hồ Duy Hải là rõ ràng. Tình tiết này cũng đã bị CQĐT cố ý rút khỏi hồ sơ vụ án. Mục đích của việc này là gì không thể không làm rõ. Qua đó, đồng thời cũng cho thấy khả năng Hồ Duy Hải đã bị kết án oan là rất cao.
Theo quy định tại Điều 398 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, thì: Bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
1. Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật;
2. Có tình tiết mà Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;
3. Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
4. Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Trên tinh thần cẩn trọng và trách nhiệm, chúng tôi cho rằng dấu hiệu của tất cả 4 căn cứ nêu trên – đều thể hiện đầy đủ trong vụ án này, như trình bày ở trên. Nói khác đi, hoàn toàn có đủ căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Mà mục đích không gì khác hơn, là bảo đảm sự nghiêm minh, khách quan, công bằng của pháp luật. Không làm oan người vô tội, đồng thời không bỏ lọt tội phạm.
Qua đơn này, chúng tôi một lần nữa kêu oan cho bị án Hồ Duy Hải, và kính đề nghị quý cơ quan, trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của mình, xem xem xét và giải quyết các đề nghị sau đây:
1. Xem xét và khởi tố vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, xâm hại hoạt động tư pháp trong vụ án Bưu cục Cầu Voi. Trong đó, đặc biệt có vai trò và trách nhiệm của Điều tra viên LTT. Chúng tôi hoàn toàn tin rằng, nếu hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án được xem xét và xử lý đúng quy định, sẽ làm rõ được sự xác thực của các tài liệu bị rút khỏi hồ sơ vụ án; qua đó chứng minh được Hồ Duy Hải có bị oan hay không?
2. Kính đề nghị Viện trưởng VKSNDTC xem xét và kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm kết tội Hồ Duy Hải - vì thuộc trường hợp “có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó” – quy định tại Điều 397 BLTTHS 2015.
3. Đề nghị xem xét lại tính đúng đắn và khách quan của Quyết định giám đốc thẩm ngày 8/5/2020 của HĐTP TANDTC, theo hướng cần chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC: hủy án, điều tra lại – theo quy định tại Chương 27 BLTTHS 2015, để tránh oan, sai.
Chúng tôi mong mỏi và kiến nghị việc điều tra, xét xử và kết tội một con người phải bảo đảm nguyên tắc khách quan, đúng pháp luật. Mọi vi phạm, sơ suất dù nhỏ nhất, cũng đều có thể dẫn đến oan sai cho Hồ Duy Hải. Mọi hành vi vi phạm pháp luật trong điều tra, truy tố và xét xử cần được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Kính mong được xem xét. Xin chân thành cám ơn.
Những người làm đơn và kiến nghị (đã ký)
Ls. Trần Hồng Phong. Gia đình Hồ Duy Hải: Nguyễn Thị Loan (mẹ HDH), Hồ Thị Thu Thuỷ (em HDH), Nguyễn Thị Rưỡi, Nguyễn Thị Len (dì HDH).
.....
Đính kèm Đơn kêu oan cho HDH:
1. Báo cáo ban đầu ngày 14/1/2008 của VKSND tỉnh Long An.
2. Báo cáo viết tay của điều tra viên, có ghi tên 2 nhân chứng: Đinh Văn Còi, Lê Thanh Trí.
3. Báo cáo vụ án Hồ Duy Hải ngày 28/7/2008.
4. BB lấy lời khai nhân chứng Hồ Văn Bình ngày 20/1/0008 (bị rút khỏi HSVA).
5. BB lấy lời khai 2 nhân Đinh Văn Còi và Lê Thanh Trí ngày 15/1/0008 (bị rút khỏi HSVA).
6. BB lấy lời khai nhân chứng Nguyễn Thị Bích Ngân ngày 14/1/2008.
7. BB xác định thời gian Nguyễn Thị Thu Vân đi mua trái cây trước khi bị sát hại, ngày 16/1/2008.
8. Đơn kêu oan của Hồ Duy Hải gửi Quốc Hội năm 2011).
9. Đơn tố cáo ghi khống lời khai của nhân chứng Đinh Vũ Thường ngày 25/9/2020 (mới).
10. Giấy xác nhận của nhân chứng Nguyễn Mi Sol ngày 4/10/2020 (mới).
.....