Chi Alnus chứa khoảng 33 loài và 8 loài lai ghép là cây gỗ hoặc cây bụi với lá sớm rụng, hoa đơn tính cùng gốc (hoa đực và hoa cái trên cùng một cây) với hoa đực là hoa đuôi sóc, hoa cái dạng nón giống như nón của cây lá kim, sinh sống chủ yếu tại vùng ôn đới. Được xếp trong họ Betulaceae (họ duyên mộc / bạch dương / cáng lò), bộ Fagales (bộ sồi dẻ). Tiếng Anh gọi là alder, tiếng Pháp là aulne / aune / vergne / verne, tiếng Nga là ольха (oljkha), tiếng Trung là khi mộc (桤木).
Loài duy nhất có ở miền bắc Việt Nam là Alnus nepalensis được David Don mô tả khoa học lần đầu năm 1825 tại trang 58 sách Prodromus Florae Nepalensis (Đại cương Thực vật chí Nepal). Tên gọi bản địa VN (có lẽ là phiên âm theo cách gọi của người dân tộc) là tổng quản sui / tống quán sủi / tống quán sủ / chi li mù. Phân bố trong khu vực từ dãy núi Himalaya tới miền nam Trung Nguyên Trung Quốc và miền bắc Đông Dương, du nhập vào Hawaii. Cao độ sinh sống 200 - 2.800 m. Tại Việt Nam tìm thấy trong khu vực rừng khô ở vùng núi miền bắc - từ Lai Châu, Lào Cai tới Cao Bằng, Lạng Sơn.