- Biển số
- OF-342827
- Ngày cấp bằng
- 14/11/14
- Số km
- 2
- Động cơ
- 272,920 Mã lực
Kiến thức cơ bản nên biết về giảm xóc
Ngày càng nhiều xe có động cơ mạnh hơn và chạy nhanh hơn có nghĩa là hệ thống treo đã trở thành một bộ phận phát triển quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô. Và các hệ thống này sẽ đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong tương lai, bởi vì chúng - đặc biệt là các lò xo và giảm xóc - cung cấp liên kết giữa các hệ thống treo bánh xe với thân xe, đảm bảo bánh xe luôn tiếp xúc tối ưu với mặt đường. Dưới đây cho ta một lời giải thích đơn giản về cách hoạt động của nó.
Hệ thống treo: bám đường – sức kéo - thoải mái
Hệ thống treo là bộ phận liên kết giữa đường và thân xe. Công việc của hệ thống treo là giảm - càng nhiều càng tốt một cách có kiểm soát - những rung động từ bánh xe và thân xe gây ra bởi mặt đường không bằng phẳng hoặc do thay đổi hướng chuyển động. Mọi nỗ lực phải được thực hiện để ngăn chặn những rung động truyền vào thân xe nhằm giảm sự đu đưa, dập dình và chúi đầu, tránh lắc lư, và đảm bảo tối ưu tiếp xúc của bánh xe với mặt đường, tối ưu sức kéo với sự trượt nhỏ nhất. Hệ thống treo bao gồm một loạt các thành phần, gồm bát bèo, lò xo, giảm xóc, rô tuyn cân bằng, thanh cân bằng, giá bắt cầu / bánh xe, bi moay ơ, càng (thanh giằng), phanh bánh xe, vành, lốp xe, dẫn động lái.
Lò xo và hoạt động của lò xo
Lò xo làm yếu đi ảnh hưởng của mặt đường không bằng phẳng và các sự tác động từ mặt đường, biến chúng những thành rung động. Lò so tạo ra một liên kết quan trọng giữa các thành phần trong hệ thống treo, kết nối khối được treo và không được treo trên xe. Khối không được treo bao gồm các thành phần xe nằm giữa đường và lò xo, tức là các bánh xe, phanh và các bộ phận của hệ thống treo bánh xe và lái. Tất cả các thành phần xe khác được coi như là khối được treo và bao gồm thân xe, khung xe và các bộ phận còn lại của hệ thống treo bánh xe và lái. Mức độ thoải mái của một hệ thống treo theo nguyên tắc cơ bản là tỷ lệ của khối không được treo trên khối được treo nhỏ hơn, độ thoải mái lớn hơn. Lò xo làm việc trong sự kết hợp với thanh cân bằng, các lốp xe và ghế ngồi.
Giảm xóc và hoạt động của giảm xóc
Giảm xóc làm giảm và làm chậm sự rung động từ lò xo, đó là lý do tại sao về mặt kỹ thuật chúng được gọi một cách chính xác là giảm chấn. Giảm xóc chuyển đổi động năng thành nhiệt năng thông qua ma sát chất lỏng. Điều này xảy ra do dòng chảy của dầu bị chậm lại bởi các van điều tiết bên trong giảm xóc. Các van trong giảm xóc được thiết kế đặc biệt để đảm bảo rằng các rung động truyền qua bởi lò xo được giảm ngay từ đầu. Giảm xóc có thể bị nóng lên đến nhiệt độ từ 100 đến 120oC trong quá trình này.
Sự tương tác giữa lò xo và giảm xóc
Khi một chiếc xe đi qua một chướng ngại vật, điều này đầu tiên tác động đến lò xo, nhưng không bị cản trở bởi sự giảm chấn quá mức của giảm xóc. Khi xe đi qua chỗ lồi trên đường, ví dụ, chướng ngại vật buộc các bánh xe phải trồi lên trong khoang bánh xe. Trong quá trình này, lò xo bị nén lại. Giảm sóc khi đó ở trong giai đoạn nén. Khi lò xo dãn trở về trạng thái ban đầu khi xe qua chướng ngại vật, giảm xóc làm chậm sự chuyển động của lò xo do nó giải phóng độ căng của nó với một lực lớn. Giảm sóc bây giờ ở trong giai đoạn phục hồi. Giai đoạn nén (nén của lò xo và giảm xóc, ví dụ như khi lái xe qua chướng ngại vật trên đường) = lực giảm xóc thường khoảng 25%. Giai đoạn phục hồi (khi lò xo kéo giảm xóc trở lại) = lực giảm xóc thường khoảng. 75%.
Kết luận: Một lò xo với độ cứng cao hơn (lò xo thể thao hoặc lò xo thấp) sẽ chỉ làm việc tốt nhất trong sự kết hợp với giảm xóc hiệu suất cao thích hợp hoặc giảm xóc thể thao.
Thông tin thêm về các loại giảm xóc
Giảm xóc thủy lực
Ngày nay, giảm xóc thủy lực hiếm khi được sử dụng trong ngành công nghiệp ô tô hiện nay. Nhìn từ quan điểm kỹ thuật, loại giảm xóc này là một giải pháp kém hiệu quả, bởi vì dầu có chứa khoảng 10% không khí. Dưới tải trọng, các phân tử không khí và dầu phân cách (tạo bọt / bong bóng), kết quả là giảm đáng kể lực giảm xóc – trong những hành trình dài trên những con đường và đường cao tốc quốc gia, có thể đo được mất mát tới 35% lực giảm xóc. Điều đó có nghĩa các bánh xe bám đường kém đi; chỉ sau khi ra khỏi tình trạng này, giảm xóc trở lại với đầy đủ lực của nó và xe mới có hiệu suất lái xe ban đầu của nó.
Giảm xóc áp suất khí
Với giảm xóc áp suất khí, mất mát này của lực giảm xóc không xảy ra. Việc sử dụng nitơ đảm bảo rằng dầu giảm xóc là vĩnh viễn dưới áp lực, do đó ngăn cản tạo bọt, ngay cả khi dưới tải trọng. Kết quả là, hiệu suất lái xe của một chiếc xe trang bị giảm xóc áp suất khí có thể được xác định chính xác và giữ ổn định, tin cậy, bất kể tình huống nào; điều này tạo thành một phần đáng kể về độ an toàn. Giảm xóc áp suất khí có với một trong hai công nghệ ống đơn (mono-tube) hoặc ống kép (twin-tube). Các xác nhận cho thấy hệ thống ống kép (twin-tube) đại diện cho công nghệ hàng đầu với một mức giá hấp dẫn. Trong khi đó, hệ thống ống đơn (mono-tube), là công nghệ được lựa chọn trong xe thể thao và xe thể thao tiêu chuẩn. Khu vực làm việc hiệu quả tương đối lớn của piston đảm bảo lực giảm chấn cao hơn nên xử lý xe tốt hơn. Việc xả tối ưu năng lượng nhiệt vào khí quyển đồng nghĩa với hiệu suất cao nhất có thể đạt được và thiết kế mạnh mẽ cung cấp dự trữ an toàn tối đa trong điều kiện lắp ráp linh hoạt, ví dụ: công nghệ đảo ngược.
Áp dụng:
Nếu chiếc xe được trang bị giảm xóc thủy lực theo tiêu chuẩn, chuyển sang giảm xóc áp suất khí (ví dụ như giảm xóc loại B4 của hãng BILSTEIN) sẽ tối ưu hóa ổn định lái, bám đường, thoải mái và an toàn của bất kỳ chiếc xe bình thường nào. Xe nguyên bản lắp giảm xóc áp suất khí tiêu chuẩn chỉ giữ lại khả năng vận hành của chúng nếu thay thế giảm xóc áp suất khí tương đương.Việc chuyển sang giảm xóc áp suất khí ống đơn (mono-tube) (như giảm xóc loại B6 của hãng BILSTEIN) cải thiện khả năng vận hành tổng thể của xe và cung cấp lực giảm chấn lớn hơn, do đó cải thiện độ an toàn và cảm giác thích thú khi lái xe, thậm chí dưới tải trọng nặng, ví dụ như được sử dụng để kéo rơ mooc.
Ngày càng nhiều xe có động cơ mạnh hơn và chạy nhanh hơn có nghĩa là hệ thống treo đã trở thành một bộ phận phát triển quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô. Và các hệ thống này sẽ đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong tương lai, bởi vì chúng - đặc biệt là các lò xo và giảm xóc - cung cấp liên kết giữa các hệ thống treo bánh xe với thân xe, đảm bảo bánh xe luôn tiếp xúc tối ưu với mặt đường. Dưới đây cho ta một lời giải thích đơn giản về cách hoạt động của nó.
Hệ thống treo: bám đường – sức kéo - thoải mái
Hệ thống treo là bộ phận liên kết giữa đường và thân xe. Công việc của hệ thống treo là giảm - càng nhiều càng tốt một cách có kiểm soát - những rung động từ bánh xe và thân xe gây ra bởi mặt đường không bằng phẳng hoặc do thay đổi hướng chuyển động. Mọi nỗ lực phải được thực hiện để ngăn chặn những rung động truyền vào thân xe nhằm giảm sự đu đưa, dập dình và chúi đầu, tránh lắc lư, và đảm bảo tối ưu tiếp xúc của bánh xe với mặt đường, tối ưu sức kéo với sự trượt nhỏ nhất. Hệ thống treo bao gồm một loạt các thành phần, gồm bát bèo, lò xo, giảm xóc, rô tuyn cân bằng, thanh cân bằng, giá bắt cầu / bánh xe, bi moay ơ, càng (thanh giằng), phanh bánh xe, vành, lốp xe, dẫn động lái.
Lò xo và hoạt động của lò xo
Lò xo làm yếu đi ảnh hưởng của mặt đường không bằng phẳng và các sự tác động từ mặt đường, biến chúng những thành rung động. Lò so tạo ra một liên kết quan trọng giữa các thành phần trong hệ thống treo, kết nối khối được treo và không được treo trên xe. Khối không được treo bao gồm các thành phần xe nằm giữa đường và lò xo, tức là các bánh xe, phanh và các bộ phận của hệ thống treo bánh xe và lái. Tất cả các thành phần xe khác được coi như là khối được treo và bao gồm thân xe, khung xe và các bộ phận còn lại của hệ thống treo bánh xe và lái. Mức độ thoải mái của một hệ thống treo theo nguyên tắc cơ bản là tỷ lệ của khối không được treo trên khối được treo nhỏ hơn, độ thoải mái lớn hơn. Lò xo làm việc trong sự kết hợp với thanh cân bằng, các lốp xe và ghế ngồi.
Giảm xóc và hoạt động của giảm xóc
Giảm xóc làm giảm và làm chậm sự rung động từ lò xo, đó là lý do tại sao về mặt kỹ thuật chúng được gọi một cách chính xác là giảm chấn. Giảm xóc chuyển đổi động năng thành nhiệt năng thông qua ma sát chất lỏng. Điều này xảy ra do dòng chảy của dầu bị chậm lại bởi các van điều tiết bên trong giảm xóc. Các van trong giảm xóc được thiết kế đặc biệt để đảm bảo rằng các rung động truyền qua bởi lò xo được giảm ngay từ đầu. Giảm xóc có thể bị nóng lên đến nhiệt độ từ 100 đến 120oC trong quá trình này.
Sự tương tác giữa lò xo và giảm xóc
Khi một chiếc xe đi qua một chướng ngại vật, điều này đầu tiên tác động đến lò xo, nhưng không bị cản trở bởi sự giảm chấn quá mức của giảm xóc. Khi xe đi qua chỗ lồi trên đường, ví dụ, chướng ngại vật buộc các bánh xe phải trồi lên trong khoang bánh xe. Trong quá trình này, lò xo bị nén lại. Giảm sóc khi đó ở trong giai đoạn nén. Khi lò xo dãn trở về trạng thái ban đầu khi xe qua chướng ngại vật, giảm xóc làm chậm sự chuyển động của lò xo do nó giải phóng độ căng của nó với một lực lớn. Giảm sóc bây giờ ở trong giai đoạn phục hồi. Giai đoạn nén (nén của lò xo và giảm xóc, ví dụ như khi lái xe qua chướng ngại vật trên đường) = lực giảm xóc thường khoảng 25%. Giai đoạn phục hồi (khi lò xo kéo giảm xóc trở lại) = lực giảm xóc thường khoảng. 75%.
Kết luận: Một lò xo với độ cứng cao hơn (lò xo thể thao hoặc lò xo thấp) sẽ chỉ làm việc tốt nhất trong sự kết hợp với giảm xóc hiệu suất cao thích hợp hoặc giảm xóc thể thao.
Thông tin thêm về các loại giảm xóc
Giảm xóc thủy lực
Ngày nay, giảm xóc thủy lực hiếm khi được sử dụng trong ngành công nghiệp ô tô hiện nay. Nhìn từ quan điểm kỹ thuật, loại giảm xóc này là một giải pháp kém hiệu quả, bởi vì dầu có chứa khoảng 10% không khí. Dưới tải trọng, các phân tử không khí và dầu phân cách (tạo bọt / bong bóng), kết quả là giảm đáng kể lực giảm xóc – trong những hành trình dài trên những con đường và đường cao tốc quốc gia, có thể đo được mất mát tới 35% lực giảm xóc. Điều đó có nghĩa các bánh xe bám đường kém đi; chỉ sau khi ra khỏi tình trạng này, giảm xóc trở lại với đầy đủ lực của nó và xe mới có hiệu suất lái xe ban đầu của nó.
Giảm xóc áp suất khí
Với giảm xóc áp suất khí, mất mát này của lực giảm xóc không xảy ra. Việc sử dụng nitơ đảm bảo rằng dầu giảm xóc là vĩnh viễn dưới áp lực, do đó ngăn cản tạo bọt, ngay cả khi dưới tải trọng. Kết quả là, hiệu suất lái xe của một chiếc xe trang bị giảm xóc áp suất khí có thể được xác định chính xác và giữ ổn định, tin cậy, bất kể tình huống nào; điều này tạo thành một phần đáng kể về độ an toàn. Giảm xóc áp suất khí có với một trong hai công nghệ ống đơn (mono-tube) hoặc ống kép (twin-tube). Các xác nhận cho thấy hệ thống ống kép (twin-tube) đại diện cho công nghệ hàng đầu với một mức giá hấp dẫn. Trong khi đó, hệ thống ống đơn (mono-tube), là công nghệ được lựa chọn trong xe thể thao và xe thể thao tiêu chuẩn. Khu vực làm việc hiệu quả tương đối lớn của piston đảm bảo lực giảm chấn cao hơn nên xử lý xe tốt hơn. Việc xả tối ưu năng lượng nhiệt vào khí quyển đồng nghĩa với hiệu suất cao nhất có thể đạt được và thiết kế mạnh mẽ cung cấp dự trữ an toàn tối đa trong điều kiện lắp ráp linh hoạt, ví dụ: công nghệ đảo ngược.
Áp dụng:
Nếu chiếc xe được trang bị giảm xóc thủy lực theo tiêu chuẩn, chuyển sang giảm xóc áp suất khí (ví dụ như giảm xóc loại B4 của hãng BILSTEIN) sẽ tối ưu hóa ổn định lái, bám đường, thoải mái và an toàn của bất kỳ chiếc xe bình thường nào. Xe nguyên bản lắp giảm xóc áp suất khí tiêu chuẩn chỉ giữ lại khả năng vận hành của chúng nếu thay thế giảm xóc áp suất khí tương đương.Việc chuyển sang giảm xóc áp suất khí ống đơn (mono-tube) (như giảm xóc loại B6 của hãng BILSTEIN) cải thiện khả năng vận hành tổng thể của xe và cung cấp lực giảm chấn lớn hơn, do đó cải thiện độ an toàn và cảm giác thích thú khi lái xe, thậm chí dưới tải trọng nặng, ví dụ như được sử dụng để kéo rơ mooc.
Chỉnh sửa cuối: