"Tiếu ngạo Giang hồ" em đọc tới lần này là thứ 3. Em rất yêu thích tác phẩm này.
Vô tình gặp bài viết thú vị này, xin chia sẻ với các cụ mợ cùng sở thích đọc truyện - xem phim TNGH.
“Tiếu Ngạo Giang Hồ” và Cách mạng Văn hóa
nghiencuulichsu
Chưởng môn phái Hành Sơn Lưu Chính Phong và trưởng lão Nhật Nguyệt thần giáo Khúc Dương cùng hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ.” Vì tình bằng hữu mà Lưu Chính Phong bị thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà.
I. Từ màu đỏ của mặt trời 8, 9 giờ sáng
Trần Mặc từng nhận xét
tiểu thuyết Kim Dung có tính “nhã tục cộng hưởng,” nghĩa là ai cũng có thể đón nhận và say mê nó bất chấp khoảng cách về kiến thức. ”Kẻ hời hợt thì xem náo nhiệt, người sâu sắc thì tìm thấy đạo lý.” Bộ
Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ví dụ xác đáng về vấn đề này.
Nói về sức cuốn hút thì
Tiếu Ngạo Giang Hồ ăn khách chẳng hề thua kém
Anh Hùng Xạ Điêu, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, và hơn hẳn
Uyên Ương Đao hay
Việt Nữ kiếm (trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung luôn được lòng đông đảo độc giả hơn những tác phẩm ngắn.) Trong cuốn
Phế Đô của Giả Bình Ao, nhân vật Hồng Giang tính kế nhập một lô sách kiếm hiệp hạng hai về thay bìa, giả làm truyện Kim Dung để kiếm tiền (“
Sách của Kim Dung bán chạy lắm, quyển sách ấy đương nhiên chẳng thể bằng Kim Dung, mình lấy tên Toàn Dung, viết thật láu, chợt nhìn một cái cũng là Kim Dung, nếu họ tra ra, thì cãi tôi viết là Toàn Dung cơ mà”). Nhưng
Tiếu Ngạo Giang Hồ còn là một sản phẩm sinh ra từ cảm xúc nội tại của Kim Dung, và rộng hơn, của thời đại. Nếu không có những khía cạnh sâu sắc như vậy thì tác phẩm Kim Dung đã chẳng xứng đáng được lập riêng một ngành nghiên cứu gọi là Kim học (Jinology.)
Tiếu Ngạo Giang Hồ bắt đầu được Kim Dung viết vào năm 1967. Cách mạng Văn hóa được Mao Trạch Đông khởi xướng từ năm 1966. Đây đâu phải là sự trùng hợp. Các học giả cho rằng
Tiếu Ngạo Giang Hồ ra đời chẳng những không ngẫu nhiên mà còn rất cố ý cố tình. Theo kết luận chung của giới Kim học,
Tiếu Ngạo Giang Hồ không phải phản xạ nghệ thuật vô thức của Kim Dung mà chính là một vở kịch giễu nhại Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa. Có bốn luận cứ như sau:
Thứ nhất, tất cả các trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung đều có bối cảnh rõ ràng –
Thiên Long Bát Bộ diễn ra đời Bắc Tống,
Thần Điêu Hiệp Lữ xảy ra vào cuối thời Nam Tống,
Lộc Đỉnh Ký thời nhà Thanh, v.v,… Riêng
Tiếu Ngạo Giang Hồ là một ngoại lệ. Theo Li Yijian, sự mơ hồ về thời gian thậm chí “phi thời gian” khiến
Tiếu Ngạo Giang Hồ có thể đại diện cho bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Trong
Tiếu Ngạo Giang Hồ ta thấy giới võ lâm tưởng chừng không chịu sự quản chế của triều đình song thực ra vẫn vận hành đúng như một xã hội thu nhỏ với đầy đủ tôn ti trật tự và thủ đoạn chính trị. Những sự kiện diễn ra từng giờ từng phút tại Trung Hoa đại lục chính là cảm hứng trực tiếp để Kim Dung viết
Tiếu Ngạo Giang Hồ.
Thứ hai là những yếu tố ám chỉ đến hình ảnh mặt trời. Mặt trời là biểu tượng của Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hoá. Khắp nơi là những khẩu hiệu tuyên truyền ví lớp trẻ “đang độ thăng hoa cuộc đời giống như mặt trời lúc tám, chín giờ sáng”. Mặt trời mang màu đỏ của dòng máu cuộn trào trong huyết quản quần chúng cách mạng. Mặt trời xuất hiện trên pano áp phích, trong những vở kịch, bài hát ca tụng công lao chủ tịch. Cuốn sách
Mao Chủ tịch Ngữ lục có màu đỏ rực còn được gọi là Hồng bào thư. Hồng vệ binh đeo băng đỏ, cầm sách đỏ, miệng hát bài
Đông phương hồng.
Lời bài hát
Đông phương hồng:
Đông phương hồng, mặt trời lên
Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông
Với nhân dân Người là vị cứu tinh
Tính tang tình
Người hằng luôn quan tâm chỉ lối mọi dặm đường
************* như vầng dương
Ánh tươi chiếu rọi sáng ngời muôn phương
Khắp nơi nơi luôn có Đảng tiên phong
Trong
Tiếu Ngạo Giang Hồ thay vì Chủ nghĩa Mao Trạch Đông ta có Nhật Nguyệt thần giáo. Lúc đầu Kim Dung đặt tên cho giáo phái này là Triều Dương thần giáo (Triều Dương nghĩa là chầu mặt trời) nhưng sau vì e ngại động chạm nên ông đổi thành Nhật Nguyệt (mặt trăng và mặt trời). Vì điều này mà ông bị Nghê Khuông phê bình là thiếu chính kiến và “làm
Tiếu Ngạo Giang Hồ kém hẳn đi”. Thế chỗ cho
Mao chủ tịch ngữ lục là cuốn sách nhỏ quyền lực
Quỳ hoa bảo điển (Quỳ hoa nghĩa là hoa hướng dương.) Và vị giáo chủ võ nghệ siêu phàm mà tất cả mọi người sợ sệt xen lẫn ngưỡng mộ chính là Đông Phương Bất Bại (kẻ bất bại ở phía Đông, hướng mặt trời mọc)
Luận cứ thứ ba không còn dừng lại ở những ẩn ý kín đáo. Khi nghĩ tới Cách mạng Văn hóa, thường ta nghĩ ngay tới hai điều: cảnh đấu tố và sự sùng bái cá nhân (ở đây là tôn thờ Mao Trạch Đông.) Cả hai sắc thái đó xuất hiện trong
Tiếu Ngạo Giang Hồ và đều là những cảnh tượng gây chấn động.
Trước tiên là đấu tố ở danh môn chính phái. Khi Lưu Chính Phong mở tiệc rửa tay gác kiếm, toàn thể võ lâm đều tới tham dự. Nhưng bọn đệ tử Tung Sơn kiên quyết không cho ông hoàn thành ý nguyện. Chúng dùng vũ lực bức bách thê tử của ông, bắt ông phải khai ra có quan hệ với trưởng lão của Ma giáo là Khúc Dương, rồi lại ép ông đi ám sát người bạn tri kỷ của mình. Xin mời đọc đoạn sau từ hồi 38 “Bọn Tung Sơn uy hiếp Lưu gia:”
Đây là một trích đoạn táng đởm kinh hồn, không phải vì bạo lực máu me mà vì sức nặng tâm lý thật đáng sợ. Người đã đọc
Tiếu Ngạo Giang Hồ không dưới năm lần là tôi mà vẫn nín thở, tim đập chân run. Cơn ác mộng đó lại là một đặc trưng của Cách mạng Văn hóa, nó vẫn sống động trên từng trang viết, từng thước phim về thời kỳ này. Những cảnh tượng ép cung tàn nhẫn, dùng người nhà để đấu tố lẫn nhau, tru diệt cả gia tộc, … xảy ra với cường độ và tần suất chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc. Từ Hồng Kông đau đáu theo dõi tình hình quê hương chắc hẳn Kim Dung đã có nhiều đêm dài trăn trở, nhất là khi chính gia đình của ông trở thành nạn nhân. Như mọi nhà văn khác, ông hướng cảm xúc của mình vào ngòi bút. Tại Trung Quốc đang diễn ra một sự thật đáng sợ hơn bất cứ câu chuyện tưởng tượng nào. Và những người dân Hồng Kông khi đọc đến đoạn này ắt hiểu được ngay cảm hứng của Kim Dung đến từ đâu.
II . Cũng thanh trừng, cũng sùng bái cá nhân
Danh môn chính phái có đấu tố, thì yêu ma tà phái cũng không hề kém. Khi Lệnh Hồ Xung, Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh cải trang vào Hắc Mộc Nhai, họ chứng kiến sự hắt hủi của một “quan đại thần” trong Nhật Nguyệt thần giáo:
Đoạn này được Kim Dung viết vào khoảng 1968, khi cuộc Cách mạng Văn hoá diễn ra đã được vài năm và tấn tuồng đang trở nên gay cấn hơn. Dân thường không phải là những người duy nhất bị bánh xe Cách mạng văn hóa nghiền nát. Trong số các nạn nhân còn có cả một số quan chức, tướng lĩnh trong nội bộ ************* Trung Quốc. Để phục vụ âm mưu thanh trừng đấu đá nhau, tất cả những lỗi lầm vặt vãnh trong quá khứ đều bị lôi ra bới móc, gia đình cũng bị đem làm vật thế mạng. Đứa cháu Đổng Bách Hùng hoàn toàn bị tẩy não, sẵn sàng bán đứng tổ phụ trong khi miệng đọc vanh vách mười giáo huấn của “giáo chủ,” thật chẳng khác nào một Hồng vệ binh nho nhỏ dõng dạc khẩu hiệu Mao Trạch Đông. Có lẽ cảnh tượng “đấu tố Đổng Bách Hùng” được Kim Dung lấy cảm hứng từ sự thất sủng của Lưu Thiếu Kỳ. Năm 1968, ông bị Giang Thanh và đồng bọn vu cáo tội phản bội, nội gián, bị khai trừ khỏi Đảng và giam giữ cho đến chết.
Sự sùng bái cá nhân cũng diễn ra ở cả hai phía: chính giáo và tà giáo.
Trước tiên là chính giáo. Để đạt được chức Chưởng môn Ngũ Nhạc Kiếm Phái, Nhạc Bất Quần lên kế hoạch cẩn thận, dùng đủ mưu hèn kế bẩn: y dùng chính con gái làm mồi nhử Lâm Bình Chi, đổ tội đánh cắp Tịch Tà kiếm phổ cho đồ đệ Lệnh Hồ Xung, cố tình lừa Lao Đức Nặc mang kinh giả về dạy cho Tả Lãnh Thiền, thậm chí vung đao tự thiến để luyện kiếm,… Sau khi đâm mù mắt Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần đường hoàng lên nhận chức giữa tiếng hoan hô vang dậy của quần hào:
Con người lên lãnh chức chưởng môn Ngũ nhạc phái dĩ nhiên danh vọng cùng thanh thế nổi bật lên sáng chói. Trong võ lâm thiếu chi người cầu cạnh, trên chốn giang hồ thiếu chi kẻ hoan hô tâng bốc.
Thế nhưng chức vụ mà Nhạc Bất Quần dành được vẫn còn tương đối mới mẻ nên mức độ sùng bái vẫn chưa đạt đến đỉnh cao. Nhật Nguyệt thần giáo lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Một thời gian dài giáo chủ Đông Phương Bất Bại sống trong lớp vỏ mù mịt, càng xa vời lại càng huyền bí. Các giáo chúng phần bị ép buộc, phần cầu danh lợi, phần thật sự tin vào quyền năng vô thượng của giáo chủ, tất thảy đều uốn lưng dập đầu ca tụng công đức Đông Phương Bất Bại chẳng khác gì thần linh. Chính vì chán ghét cảnh tượng hèn hạ đấy mà Nhậm Doanh Doanh cùng Lục Trúc Ông xa rời Hắc Mộc Nhai. Về sau Nhậm Ngã Hành đánh bại Đông Phương Bất Bại, cướp lại ngôi nhưng cuộc chuyển giao quyền lực lại diễn ra vô cùng êm thấm. Những tên thuộc hạ mới phút trước còn nói những câu tâng bốc Đông Phương Bất Bại (
“Thuộc hạ rất khao khát được ra mắt giáo chủ. Cứ mỗi lần được nhìn kim điện giáo chủ là lại cảm thấy tinh thần phấn khởi, làm việc rất hăng say. Toàn thân rạo rực, tưởng chừng công lực trong người tăng lên bằng mười năm tu luyện”) phút sau đã quay ra thoá mạ giáo chủ cũ, xu nịnh Nhậm Ngã Hành. Trong số hàng ngàn con người đó, không kẻ nào giơ một ngón tay phản kháng hay tỏ ý phục thù. Văn hoá của Nhật Nguyệt Thần Giáo là sùng bái lãnh tụ, nó không hề mất đi mà chỉ chuyển từ lãnh tụ này sang lãnh tụ khác.
III . Ba lý do của một người khôn ngoan
Có thể nói Nhật Nguyệt thần giáo đã nuôi dưỡng một “echo chamber” điển hình – một thứ cộng đồng khép kín tuân theo quy ước riêng, nơi mọi hành động lời nói thậm chí suy nghĩ đều bị kiểm soát chặt chẽ. Tất cả thông tin đều là âm vang dội lại từ hệ tư tưởng của nhà độc tài. Mọi bất đồng chính kiến đều bị dập tắt, ý chí cá nhân hoàn toàn tiêu tan. Được thần phục ở môi trường như vậy thì ngay người bình thường cũng không tránh khỏi bệnh vĩ cuồng. Nhưng khi sóng lật thì kẻ chuyên quyền hôm nay cũng có thể bị nuốt chửng trong vòng xoáy chính trị, tự biến mình thành một con tốt của lịch sử. Nếu giáo chủ là trung tâm của Nhật Nguyệt thần giáo thì Mao Trạch Đông chính là trung tâm của Cách mạng Văn hóa. Ở Trung Quốc Mao được tôn sùng chẳng khác nào một vị chúa cứu thế, nhân dân thêu dệt những câu chuyện huyền thoại về ông, treo ảnh ông, miệng không ngớt ca tụng ông.
Sự tương đồng giữa Nhật Nguyệt thần giáo và giáo phái Mao Trạch Đông là không thể bàn cãi. Nhưng với
Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung cố tình làm mờ ranh giới giữa chính phái và tà phái. Cả chính phái và tà phái đều có đấu tố, cả chính phái và tà phái đều tôn thờ lãnh tụ. Vì sao lại như vậy? Có ba lý do:
Lý do thứ nhất, Kim Dung phô bày sự xấu xa của các đoàn thể, chế độ hay vỗ ngực tự xưng là quang minh chính đại. Khi mọi việc được phô bày ta thấy Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần còn gian xảo hơn Nhậm Ngã Hành, Dư Thương Hải còn tàn ác hơn Hướng Vấn Thiên. Hai cao thủ xuất chúng nhất hai phe chính-tà là Nhạc Bất Quần và Đông Phương Bất Bại hóa ra luyện chung một bộ kiếm pháp, đều trở thành kẻ bán nam bán nữ, không còn tính người. Bài học ở đây: bất kỳ tổ chức nào cũng có khả năng biến tướng thành chuyên quyền dù thông điệp ban đầu có tích cực bao nhiêu. Tương tự, mọi nhà lãnh đạo đều có khả năng trở thành một kẻ độc tài nếu được giao cho quá nhiều quyền lực.
Lý do thứ hai, Kim Dung muốn chỉ ra rằng: dưới lớp vỏ của đấu tố (chỉ trích) và xu nịnh (tung hô) đều là mục đích cá nhân. Đương nhiên luôn có những cá nhân ngây thơ tin vào chế độ vô điều kiện, nhưng đa số những kẻ thực hiện việc đấu tố và xu nịnh chỉ muốn tốt cho bản thân: hoặc bảo vệ gia đình, hoặc vơ vét tài sản, hoặc trả thù riêng tư, hoặc thăng quan tiến chức. Khi xã hội cho phép thậm chí khuyến khích điều đó thì các giá trị nhân văn hoàn toàn bị đảo lộn và tình người không còn chỗ sống, nhường chỗ cho tinh thần trên đội dưới đạp. Đây là một bài học cảnh giác vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Cuối truyện
Tiếu Ngạo, tất cả những kẻ chuyên quyền và tay sai của chúng (Nhậm Ngã Hành, Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Lao Đức Nặc,…) đều bị Kim Dung trừng phạt, nhưng cuộc đời thực chưa chắc đã có may mắn đó.
Lý do thứ ba, Kim Dung mượn sự đấu đá giữa hai phe chính-tà để ám chỉ sự tranh giành quyền lực giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Điều nực cười là Trung Hoa đại lục cấm
Tiếu Ngạo Giang Hồ vì cho rằng nó chế nhạo Mao Trạch Đông và Cách mạng Văn hóa, còn chính quyền Đài Loan thì cấm vì cho rằng Kim Dung ủng hộ ************* Trung Quốc. Từ tuổi thiếu niên Kim Dung đã dám viết truyện giễu thầy hiệu trưởng đến mức bị đuổi học. Tinh thần quật cường, không sợ giới cầm quyền của Kim Dung rõ ràng không hề bị phai nhạt khi ông tới tuổi trưởng thành.
Luận cứ thứ tư chứng tỏ
Tiếu Ngạo Giang Hồ chính là Trung Quốc thời Cách mạng Văn hóa thu nhỏ nằm ở nhân vật Đông Phương Bất Bại. Theo John Christopher Hamm trong cuốn
Paper Swordsmen, vị giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo chính là tổng hợp của Mao Trạch Đông và “Phó thống soái” Lâm Bưu. Người này được phong nguyên soái nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyền thế nghiêng trời, là cánh tay phải luôn xuất hiện bên Mao Trạch Đông. Lâm Bưu thăng tiến rất nhanh, được phong làm Phó chủ tịch Đảng duy nhất, cũng là người được chọn kế vị Mao. Thế nhưng khi quan hệ giữa hai người dần xấu đi, Lâm Bưu trở nên nôn nóng. Với mục tiêu nắm quyền làm chủ đất nước, Lâm Bưu cùng vây cánh lên kế hoạch ám sát Mao Trạch Đông. Toàn bộ chương trình đảo chính đã được Lâm Bưu và bộ sậu bàn thảo chi tiết, nhưng vẫn thất bại. Các chi tiết mờ ám xung quanh sự tử nạn của Lâm Bưu vẫn chưa được làm sáng tỏ. Sau khi chết, Lâm Bưu đã bị khai trừ khỏi ************* và kết tội phản bội.
Tước hiệu và quyền lực của Đông Phương Bất Bại có hàm ý ám chỉ Mao Trạch Đông, nhưng sự nghiệp của y có thể nói là gần như giống hệt Lâm Bưu. Điều đáng nói là Kim Dung viết xong
Tiếu Ngạo Giang Hồ năm 1969, tức là 2 năm trước khi Lâm Bưu tìm cách lật đổ Mao Trạch Đông. Bằng trực quan của mình, Kim Dung đã tiên đoán được ý đồ và vận mệnh của “tên phản loạn” Lâm Bưu.
Khi quá nhiều người chỉ ra sự trùng hợp giữa
Tiếu Ngạo Giang Hồ và Cách mạng Văn hóa, Kim Dung đã có đôi lời.
“Trong những năm tôi viết
Tiếu Ngạo Giang Hồ, cuộc Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Hoa bùng lên như ngọn lửa hoang thiêu đốt tất cả. Để giành được quyền lực, các bên đấu đá nhau đã không từ thủ đoạn nào và bản chất xấu xa của con người được bộc lộ theo những cách đáng ghê tởm nhất. Mỗi ngày khi tôi viết cho Minh Báo, cảm xúc phẫn nộ của tôi đi vào những câu chữ một cách tự nhiên, chứ tôi không cố tình dùng Tiếu Ngạo Giang Hồ để miêu tả Cách mạng Văn hóa.”
Tại sao Kim Dung đã thừa nhận ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa rồi lại chối bỏ, đồng thời còn dành nhiều năm sau đấy hiệu đính
Tiếu Ngạo Giang Hồ để bỏ đi những chi tiết quá “nhạy cảm?” Là một con người khôn ngoan kín đáo, từng là sinh viên tại Học viện chính trị trung ương tại Trùng Khánh, có lẽ Kim Dung hiểu hơn ai hết sự cân bằng giữa tự do nghệ thuật và lợi ích cá nhân. Nhờ vị trí trung lập của mình mà ngày nay các tác phẩm của Kim Dung đã không còn bị cấm tại Trung Hoa đại lục và Đài Loan, bản thân Kim Dung cũng trở thành một nhân vật được tất cả các phe phái trọng vọng, mà thông điệp của
Tiếu Ngạo Giang Hồ vẫn còn nguyên giá trị.