Chim,Thu,Nụ, Đé là 4 loại cá biển ăn ngon nhất(dân gian truyền lại)
Cá đé[2], tên khoa học
Ilisha elongata, còn gọi là
cá lặc (
giản thể: 勒鱼;
bính âm:
lèyú,
lặc ngư), hay
cá trích Trung Quốc, là một loài
cá trích trong họ
Pristigasteridae.
Còn cá Nụ(chắc quê em gọi thế), Còn tên các vùng khác có thể là Nhụ
Ngoài thịt ăn một lần nhớ mãi, một giá trị khác của cá nhụ chính là cái bong bóng rất quý.
Cá nhụ có thể sống trong cả môi trường nước lợ lẫn nước mặn với kích cỡ trưởng thành dài trung bình 55 – 70cm, khối lượng 5 - 7kg. Người ta từng bắt gặp ngoài tự nhiên có con cá nhụ chiều dài tới 2 m, khối lượng đạt 145kg
Cá nhụ bốn râu,
cá chét,
cá chét bùn[1] hay
cá nhụ lớn (
danh pháp hai phần:
Eleutheronema tetradactylum) là loài cá thuộc
họ Cá vây tua (Polynemidae)
[2]. Đây là loài cá nuôi có giá trị thương phẩm cao
[2] sống ở tầng đáy vùng ven biển
[3], tạo thành các đàn cá lẻ nhỏ
[4]. Cá trưởng thành của loài dễ bị thương tổn này
[5] bơi vào các con sông trong mùa đông
[4]. Cá trưởng thành ăn các loại tôm và cá con, đôi khi ăn cả các loại giun nhiều tơ (Polychaeta)
[6] trong khi cá non ăn các loại tôm tép nhỏ và các loài giáp xác tựa như tôm thuộc họ
Mysidae[6].
Giống cá quý này đang bị suy giảm nhanh chóng. Năm 1990 sản lượng khai thác cá nhụ trên thế giới đạt 12.125 tấn và kể từ đó tụt dốc không phanh, đến năm 2001 chỉ còn 1.770 tấn.
Trước tình hình đó, nhiều nước đã tập trung nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo và nuôi cá nhụ thương phẩm. Đài Loan đứng đầu thế giới trong việc sản xuất thành công giống cá nhụ từ năm 1996. Những năm gần đây giống cá nhụ của Đài Loan đã được xuất sang nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Thái lan, Indonesia, Singapore, Philippine...
Theo thông tin từ Hiệp hội sản xuất cá biển Đài Loan, năm 2007 họ đã sản xuất được 11,3 triệu con giống, năm 2008 được 9,7 triệu con và năm 2009 được 10,6 triệu con.
Trung Quốc tuy mới thành công trong sinh sản nhân tạo cá nhụ nhưng đã lập một cột mốc ấn tượng khi sản xuất được tới 4,5 triệu con giống/năm. Ngoài ra, Singapore và Malaysia cũng đã công bố sản xuất thành công giống cá nhụ nhưng số lượng chưa đáng kể. Về mặt thương phẩm, người ta thường nuôi cá nhụ trong các ao đầm nước lợ, trong các trang trại nuôi tôm sau khi bị dịch bệnh và nuôi lồng bè.
Ở Việt Nam, cá nhụ được xác định có phân bố tự nhiên tại vùng biển phía Bắc và cả trong các ao đầm có diện tích lớn. Giá cá nhụ có trọng lượng trên 2 kg luôn từ 400.000 - 450.000 đồng/kg và nói chung rất hiếm. Đến nay, các nhà khoa học đã điều tra được vùng phân bố tự nhiên của cá nhụ ở các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Nam Định.
Họ cũng đã xây dựng được biện pháp kỹ thuật thu gom cá tự nhiên, vận chuyển sống và thuần hóa loài cá này trong ao. Đây là loài cá hoang dã, sống nổi, hoạt động mạnh nên công việc thu gom, vận chuyển sống, thuần hóa tốn rất nhiều thời gian, kinh phí và công sức. Nhóm thực hiện đề tài phải mất 2 năm nghiên cứu với 9 lần thí nghiệm thực nghiệm đến nay mới có kỹ thuật thu gom, vận chuyển sống đạt >90%, thuần hóa cá đạt tỷ lệ sống sau 5 tuần nuôi dưỡng đạt >80%.