Các loại tàu chiến tốc độ cao, hoạt động ở vùng biển gần bờ có nhiệm vụ chống tàu ngầm, phát hiện ngư lôi, trinh thám, thu thập tin tức tình báo, phối hợp tác chiến…
Vừa qua, hãng Reuters dẫn lời Đô đốc Jonathan Greenert, chỉ huy tác chiến Hải quân Mỹ, cho biết nước này sẽ điều “những tàu tuần duyên (LCS) mới nhất” tới đồn trú ở Singapore và trong vài năm tới có thể là Philippines, sau quyết định luân chuyển 2.500 lính thủy đánh bộ tới Darwin (Australia).
Quân bài tẩy đang dần lộ diện khi Mỹ tăng cường sử dụng các tàu chiến cỡ nhỏ, khả năng cơ động cao để án ngữ những tuyến hàng hải chiến lược ở Đông Á.
(Đất Việt) Kỳ 1: Giương oai gần bờ
Triển khai kế hoạch đầy tham vọng trị giá 30 tỉ đô la, hiện Hải quân Mỹ đã đưa vào biên chế 2 tàu tuần duyên thế hệ mới là USS Freedom (LCS-1) và USS Independence (LCS-2). Tàu USS Fort Worth (LCS-3) đang được đóng, và dự kiến được đưa vào biên chế năm 2012.
Nhanh, ẩn, áp sát bờ
Để có thể hoạt động ở vùng nước nông, kể cả là trên sông, thiết kế của tàu tuần duyên có đôi chút khác biệt. So với tàu chiến thông thường, lườn tàu tuần duyên thấp hơn, không sử dụng chân vịt và bánh lái, mà dùng
ống hơi nước điều khiển để lái tàu, giúp tàu dễ dàng vào sát bờ.
Với đặc thù nhiệm vụ, tốc độ của tàu tuần duyên là yếu tố được các nhà thiết kế rất quan tâm. Tàu Freedom do hãng Lockheed Martin đóng sử dụng 2 động cơ Fairbanks Morse Colt-Pielstick 16PA6B STC chạy bằng diesel. Tốc độ tối đa của tàu là hơn 74km/h.
Trong khi đó, hãng General Dynamics đã sử dụng thiết kế tàu chiến 3 thân cho Independence. Sử dụng 2 turbine khí, 2 động cơ dầu diesel MTU Friedrichshafen 8000 Series, 4 động cơ phản lực nước Azimuth thruster, 4 máy phát diesel, vận tốc trung bình của Independence là 40 knot (tương đương 74 km/h). Nhưng khi cần, Independence có thể vươn lên tốc tối đa khoảng 50 knot (90 km/h), với tầm hoạt động tối đa đạt 19.000 km.
Tàu tuần duyên USS Freedom (LCS-1).
Cả 2 loại tàu này đều có khoang chứa máy bay lớn gấp 1,5 lần khoang chứa trên tàu chiến tiêu chuẩn. Independence có đủ chỗ cho 2 trực thăng MH-60 Seahawks, hoặc 1 chiếc trực thăng СН-53/МН-53 và 3 trực thăng không người lái UAV loại MQ-8 Fire Scout, tàu ngầm không người lái... Máy bay trên tàu có thể cất cánh trong điều kiện biển động cấp 5.
Ngoài ra, tàu còn có khả năng thu-phóng xuồng máy tốc độ cao chỉ trong vòng 15 phút ở điều kiện biển động cấp 4. Để thực hiện nhiệm vụ trinh thám, thiết kế phần thân tàu của Freedom và Independence dựa theo nguyên tắc tàng hình với bề mặt phẳng và góc nghiêng lớn.
Đa dạng về vũ khí
LCS được coi là đối thủ “đáng gờm” trên biển một phần cũng bởi hệ thống vũ khí được trang bị trên tàu. Freedom và Independence được trang bị vũ khí giống hệt nhau.
Tàu tuần duyên thường có gắn ụ pháo BAE Mk110 57mm, do hãng Bofors chế tạo dựa trên nguyên mẫu của khẩu Bofors 57 Mk3, với tốc độ bắn
220 vòng/phút, tầm xa là 17 km. Pháo Mk110 có thể sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu ngầm, nổi và trên không. Đạn pháo Mk295 gồm kíp nổ đã được lập trình, 8000 mảnh đạn làm từ vonfram và 420 gr chất nổ dẻo. Ngay trước khi được bắn ra, kíp nổ đã được lập trình sẵn trong ụ pháo.
Ụ pháo được nối với hệ thống điều khiển khai hỏa, có khả năng lựa chọn mục tiêu. Với sơ đồ này, một quả đạn pháo Mk 295 có thể thay thế cho vài loại đạn khác nhau, dùng cả cho mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền.
Hệ thống tên lửa đối không RIM-116.
Ngoài ra, tàu còn được trang bị súng máy 12,7mm, bệ phóng tên lửa hải đối không tầm ngắn Raytheon RIM-116 để bảo vệ tàu trước những cuộc tấn công của tên lửa hành trình đối hạm. tổ hợp pháo phòng thủ tầm gần MK 15 Phalanx lắp pháo 6 nòng cỡ 20mm (tốc độ bắn 4.500 phát/phút) dùng để tiêu diệt tên lửa chống hạm, máy bay cánh cố định.
LCS còn từng dự định trang bị hệ thống tên lửa "tương lai" XM501, tuy nhiên dự án này đã hủy bỏ đầu năm 2011. XM501 sử dụng 2 loại tên lửa: LAM và PAM Mk31.
Câu hỏi còn để ngỏ
Freedom dùng hệ thống điều khiển thông tin tác chiến COMBATSS-21, được kết nối với các thiết bị hiển thị và hệ thống vũ khí trên tàu. Các mục tiêu trên không và mặt nước được hiển thị trên màn hình nhờ trạm radar 3 phối hợp TRS-3D và trạm quang điện với kênh hồng ngoại.
Để hiển thị những mục tiêu ngầm, Freedom sử dụng trạm thủy âm học đa chức năng kết hợp cùng ăng-ten và hệ thống dò mìn tự động. Để làm nhiễu radar đối phương bằng những dải tần vô tuyến điện và hồng ngoại, Freedom sử dụng trạm phát sóng SKWS do hãng Terma A/S của Đan Mạch sản xuất.
Hãng General Dynamics chọn hệ thống điều khiển thông tin tác chiến ICMS với thiết kể mở của hãng Northrop Grumman để trang bị cho Independence.Trạm radar Hươu cao cổ biển (Sea Giraffe), trạm quang điện AN/KAX-2 và radar dẫn đường "Bridgemaster-E" được sử dụng để hiển thị mục tiêu nổi và truyền hiệu lệnh. Trạm tác chiến điện tử ES-3601, 3 trạm Super RBOC và 2 trạm "Nulka" sử dụng để tạo bẫy giả và làm nhiễu radar đối phương. Với những mục tiêu dưới nước, Independence dùng hệ thống dò và hiển thị ngư lôi SSTD.
Dù giá thành không hề “dễ thở” (khoảng 550-600 triệu USD), nhưng đây vẫn sẽ là mẫu tàu
tuần dương tương lai của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, khả năng phòng không của các tàu tuần duyên kể trên khi không có sự yểm trợ từ tàu khu trục lớp DD(X) vẫn còn là một câu hỏi bị bỏ ngỏ.
Hiền Thảo
Đặc trưng của tàu tuần duyên (LCS) thế hệ mới là hệ thống vũ khí (từ màn hình hiển thị đến hỏa lực) đều được lắp đặt sẵn trong từng container chứa module. Hình thức kết nối giữa module chiến đấu và tàu cũng như các kênh trao đổi thông tin đều được tiêu chuẩn hóa. Vì vậy, quá trình hiện đại hóa vũ khí không ảnh hưởng đến cơ chế tác chiến của tàu. Các nhà chế tạo có thể định hình trước đặc tính của từng loại vũ khí lắp đặt trên tàu, diện tích, khối lượng, tải trọng…
Chuyên môn hóa cao
Mỗi LCS hiện đại có thể thay đổi đến 20 cơ chế chiến đấu. Cấu hình tự động khi thay đổi các module được phát triển dựa trên thành tựu của tàu tuần duyên Sea Fighter và ứng dụng cơ chế “kết nối-chiến đấu”. Việc thay đổi module có thể thực hiện trong 24 giờ để thích ứng nhu cầu chiến trường.
LCS có 3 module tương ứng 3 nhiệm vụ chủ chốt: module
diệt ngư lôi, module chống tàu ngầm và module chống tàu nổi. Module diệt ngư lôi gồm nhiều hệ thống khác nhau để dò tìm, phân loại và vô hiệu hóa các loại ngư lôi. Đó là tàu ngầm không người lái dò ngư lôi điều khiển từ xa AN/WLD-1, sonar điều khiển từ xa tìm kiếm thủy lôi và tàu ngầm đối phương AN/AQS-20A, hệ thống dò ngư lôi bằng laser trên không, trung tâm vô hiệu hóa ngư lôi trên không (AMNS)… Robot trên mặt nước sẽ hỗ trợ trực thăng MH-60S diệt ngư lôi. Bộ phận quét mìn tự động gồm một tàu nổi không người lái, kéo theo bộ phận quét ngư lôi bằng từ tính và âm học.
Module chống tàu ngầm gồm hệ thống giám sát lưới ngầm vùng duyên hải chiến lược, kết hợp với hàng loạt các cảm biến âm, thiết bị lặn, mạng lưới liên lạc trung tâm, thiết bị ngầm và xuồng nổi không người lái cùng trực thăng đa chức năng. Ngoài ra còn phải kể đến ngư lôi Mk54, phao âm, sonar tần số thấp dùng cho trực thăng MH-60R. Module tấn công tàu nổi được trang bị hệ thống hiển thị và vũ khí có độ chính xác cao, dùng để tấn công những mục tiêu nổi có kích thước nhỏ và các loại vũ khí phóng ra từ bờ.
Hỏa lực của tàu khi lắp module này sẽ có thêm pháo Mk 46 30 mm dùng để đánh chặn, có tốc độ bắn
200 vòng/phút. Ngoài ra trên tàu còn được trang bị hệ thống tên lửa có độ chính xác cao. Tên lửa tấn công trực diện có đầu dò laser và hồng ngoại được làm lạnh, có đầu nổ đa thức và tầm xa lên đến 40 km. Trực thăng MH-60R được trang bị súng và tên lửa Hellfire.
Trực thăng MH-60R trang bị cho LCS khai hỏa. Hải quân Mỹ chuẩn bị trang bị tên lửa Griffin lên module chống tàu nổi, và Freedom là tàu đầu tiên nhận loại tên lửa này. Loại tên lửa tầm ngắn, nhỏ gọn này chỉ nặng gần 15 kg, dài hơn 1 m, chứa đầu đạn nổ nặng khoảng 5 kg, sử dụng hệ thống đầu dò hỗn hợp, với tầm bắn khoảng 6 km. Griffin rất phù hợp cho những mục tiêu là tàu tốc độ cao. Tuy nhiên, nó không thể được coi là hỏa lực hải quân hỗ trợ cho bộ binh và không phù hợp để lắp đặt trên tàu lớn hoặc tàu tấn công tốc độ cao. Khả năng linh hoạt của tàu còn được thể hiện ở chỗ, nó có thể được tiếp liệu trên biển, thay vì phải cập bờ.
Cùng với việc thay đổi các module chiến đấu, thủy thủ đoàn cũng phải có khả năng ứng phó nhanh nhạy. Hiện Mỹ bắt đầu chương trình mới có tên gọi “Huấn luyện đạt chuẩn” (Train to Qualify - T2Q) dành cho những thủy thủ phục vụ trên LCS. Điều này là hết sức cần thiết, do số lượng giảm đáng kể, trong khi yêu cầu tác chiến lại tăng cao, thủy thủ phải nắm bắt và sử dụng thành thạo các loại phương tiện, máy móc cho mỗi nhiệm vụ.
Còn “tử huyệt”
Tuy nhiên, khả năng thay module chiến đấu trong vòng 24 giờ cũng châm ngòi cho nhiều ý kiến phản biện. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong điều kiện bình thường, chứ chưa nói đến thực chiến, để có thể thực hiện được nguyên tắc “kết nối-chiến đấu” cho các module, cần ít nhất là 3 ngày. Họ cũng đặt dấu hỏi về khả năng chiến đấu của module chống tàu nổi. Chẳng hạn nhiệm vụ tấn công tàu và ca-nô đối phương được “giao” cho tên lửa Hellfire phóng ra từ trực thăng.
Nhưng, do lượng thuốc nổ chứa trong tên lửa này không lớn, tầm xa vẫn cần được cải thiện, thì Hellfire khó có thể là đối thủ xứng tầm của tàu chiến đối phương có gắn tên lửa hiện đại. Hơn thế nữa, trong điều kiện bão gió, việc cất và hạ cánh của máy bay trực thăng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Vì thế, trước khi Hải quân Mỹ hoàn thành kế hoạch tìm kiếm vũ khí phù hợp để thay thế, thì module tác chiến chống tàu nổi vẫn sẽ là “tử huyệt” của LCS.
Phóng tên lửa Griffin từ tàu tuần duyên. Kể cả USS Freedom và Independence, dù đã được đưa vào biên chế, nhưng vẫn vấp phải không ít vấn đề. Với USS Freedom, trọng lượng thừa khiến tàu có nguy cơ bị chìm cao khi vấp phải đòn tấn công của đối phương; cửa phóng các thiết bị điều khiển từ xa bên hông tàu. Ngoài ra, khi tiếp liệu tại những vùng nước sâu, Freedom khó có thể hoạt động với tốc độ chậm. Khi đó, chỉ có thể dùng trực thăng để tiếp liệu cho tàu.
Ngoài ra, LCS còn gặp nhiều trục trặc về kỹ thuật. Ngày 12/9/2010, động cơ khí turbin trên Freedom bị hỏng, buộc tàu phải dùng động cơ diesel thay thế để quay về cảng. Tháng 2/2011, tại một cuộc thử nghiệm trong điều kiện biển động, thân tàu Freedom bị nứt một đường dài 15 cm, buộc tàu phải “uống”
19 lít nước/giờ. Trong khi đó, USS Independence lại gặp vấn đề ăn mòn điện năng trong môi trường điện giải. Thân tàu bằng nhôm tương tác với động cơ đẩy bằng thép không gỉ trong điều kiện nước biển, chưa kể đến các dòng điện khác chưa được tách ra là môi trường lí tưởng cho hiện tượng ăn mòn điện năng. Hiện Hải quân Mỹ đang nghiên cứu lắp đặt hệ thống bảo vệ cực âm cho tàu.
Hiền Thảo