[Funland] Các bài nhạc tụng ưa thích

Transit2011

Xe tải
Biển số
OF-127510
Ngày cấp bằng
13/1/12
Số km
273
Động cơ
379,329 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em thích nhất bài Dược Sư Tâm Chú!
 

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,196 Mã lực
=slaz8;16864000]22

[video=youtube;nA9xc4Vzx1M]http://www.youtube.com/watch?v=nA9xc4Vzx1M&list=PL4C7FC973F2069B5C[/video]
http://www.youtube.com/watch?v=nA9xc4Vzx1M&list=PL4C7FC973F2069B5C[

Nguồn gốc Kinh Đại thừa
Sau hơn 500 năm kể từ khi Phật nhập diệt, Phật giáo Đại thừa mới bắt đầu xuất hiện và từ đó những bộ phái khác đều bị Phật giáo Đại thừa gọi chung là Tiểu thừa.

Phật giáo Nguyên thủy, còn gọi là Nam tông, Theravada không công nhận danh xưng Tiểu thừa và phản bác: “Kinh Đại thừa không phải là lời Phật dạy”. Những luận cứ sau đây biện minh cho nhận xét trên.

Luận cứ 1: Hoà thượng Walpola Rahula của Phật giáo Nguyên thủy nói: “Có người nghĩ rằng: ‘Tánh Không’ mà ngài Long Thọ nói, hoàn toàn là giáo lý Đại thừa. Thật ra ngài căn cứ vào lý Vô ngã và Duyên khởi, đã có sẳn trong kinh Pàli để viết ra”.

Có một lần đại đức Ananda hỏi Đức Phật: “Người ta nói về chữ ‘Không’, vậy ‘Không’ là gì? Đức Phật trả lời: Nầy Ananda, ‘Không’ là không có bản ngã, cũng không có bất cứ điều gì liên quan với bản ngã trên đời nầy. Đo đó, thế gian là vô ngã”.

Ngài Long Thọ chỉ dựa vào hai giáo lý trên khi ông viết quyển sách nổi tiếng “Trung quán luận”, Madhyamika-karika.

Luận cứ 2: Trong sách “Bát Nhã Tâm kinh giảng giải” Dalai Lama nói: “Trong các lần kết tập chỉ có 5 bộ Nikãya và 4 bộ A-hàm mà thôi, hoàn toàn không có kinh của Đại thừa”. Nhận định trên của ngài Dalai Lama có nghiã là kinh Đại thừa là do tăng sĩ sáng tạo sau nầy.

Luận cứ 3: Theo sách “Sự hình thành Đại thừa” của J. O’ Neil, Kinh Đại thừa xuất hiện khoảng 100 năm trước công nguyên. Như vậy kinh Đại thừa là do các tăng sĩ viết ra sau nầy, vì không còn ai sống sót để ghi lại lời của Phật, sau hơn 500 năm, kể từ khi Phật nhập diệt.

Luận cứ 4: Khi cố gắng nhớ để ghi lại lời dạy của Phật, thì chỉ có thể ghi lại một cách tóm lược, ngắn gọn vài trang, giống như kinh Nguyên thủy, chớ không thể ghi lại một cách chi li, đầy đủ từng chi tiết, trường giang đại hải như kinh Đại thừa. Cụ thể là bộ kinh Đại Bát nhã có tất cả là 600 quyển, Kinh Hoa Nghiêm có 80 quyển. Thời gian thực hiện tất cả các bộ kinh nầy cũng phải là vài chục năm, vượt quá thời lượng của các lần kết tập. Do đó nếu nói kinh Đại thừa là do tăng sĩ kết tập là không hợp lý.

Luận cứ 5: Nói rằng kinh điển được Phật dạy theo thứ tự của “Ngũ thời Phật giáo” ?. Thế nhưng trong các lần kết tập, tăng chúng chỉ ghi lại kinh A Hàm trong thời kỳ A Hàm thời mà không nói gì đến các thời kia như: Hoa Nghiêm thời, Phương Đẳng thời, Bát Nhã thời, Pháp Hoa thời. Như vậy “Ngũ thời Phật giáo” là không có cơ sở để tin được.

Luận cứ 6: Nói rằng kinh Đại thừa là do Bồ tát Di Lặc, Văn Thù kết tập và truyền lại cho cao tăng như: ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân… Dẫn chứng nầy quá thần bí, vì hai Bồ tát trên là vô hình, vô tướng.

Luận cứ 7: Từ ngữ Đại thừa, Mahayana và Tiểu thừa, Hinayana chỉ tìm thấy trong các kinh sách khoảng 600 năm, sau khi Phật đã nhập diệt hơn 500 năm. Như vậy đức Phật không có nói hai từ ngữ trên.

Luận cứ 8: Kinh Nguyên thủy và kinh Đại thừa đều do tăng chúng viết ra. Sự khác biệt giữa hai loại kinh nầy là:

* Kinh Nguyên thủy là do các tăng sĩ kết tập, ghi lại lời dạy của Phật một cách trung thực, không thêm, không bớt cho nên gọi là kinh Nguyên thủy. Trong khi đó thì …

* Kinh Đại thừa là do tăng sĩ hậu sinh, sau hơn 500 năm, tự ý triễn khai giáo lý của Phật tùy theo sự hiểu biết cá nhân, thêm điều nầy, bớt đoạn kia và vì không không do tăng sĩ kết tập cho nên kinh Đại thừa rất mâu thuẫn, khi nói có, khi nói không, khi thực, khi hư.

* Thí dụ về sự mâu thuẫn: Trong kinh Tứ niệm xứ, Phật giáo Nguyên thủy ghi là: Quán pháp như pháp, còn Phật giáo Đại thừa ghi là: Quán pháp vô ngã. Như vậy “pháp” chỉ vô ngã, chớ không vô thường hay sao?

* Thí dụ về sự suy diễn: Phật dạy là: “con người có Lục thức”. Đại thừa suy diễn để thêm 4 thức nữa thành 10 thức. Bốn thức đó là: Manas, Alaya, Amala và Hridaya.

* Thí dụ về Thần chú: Thần chú là linh ngôn, mật ngữ không thể sửa đổi âm thanh. Thế nhưng thần chú: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Boddhi Svaha bị đổi thành: Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.

Luận cứ 9: Theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thế giới thành tựu, Bồ tát Phổ Hiền nói: “Thần lực Như Lai tạo lập thế giới”. Thế nhưng đạo Phật không chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế toàn năng đã tạo dựng ra vũ trụ và muôn loài. Như vậy kinh Hoa Nghiêm không phải là lời dạy của Phật, vì trái ngược với giáo lý của Phật.

Luận cứ 10 Theo kinh Nguyên thủy, Phật là vị A la hán đã đắc đạo, khi còn tại thế gian. Ngược lại theo thuyết “Tam thân Phật” của Đại thừa, Phật Thích Ca đã là Phật từ vô lượng kiếp và ngài nhập thế là để hoá độ. Nếu như vậy thì Phật Thích Ca đã biết là phải: “tu hành như thế nào ?”. Ngài đâu cần phải: “6 năm khổ hạnh rừng già để tầm đạo”. Do đó thuyết “Tam thân Phật” là không hợp lý, là do tăng sĩ Đại thừa tạo dựng.

Luận cứ 11 Thời đại của đức Phật, con người còn mộc mạc, chất phát, ngôn từ ít ỏi cho nên Phật dạy Sổ tức thiền, Minh sát thiền, Vipassana … đơn giản và dể hiểu. Ngược lại Đại thừa có cách tu thiền: Tứ vô sắc định với bốn đẳng cấp là: Không vô biên xứ định; Thức vô biên xứ định; Vô sở hữu xứ định; Phi tưởng, phi / phi tưởng xứ định (đtyl, 49). Thật là phức tạp và khó hiểu để tu tập đối với Phật tử của 2600 năm về trước ???. (t.n.x.78)

Luận cứ 12 Kinh Nguyên thủy dùng tiếng Pàli, lời văn bình dị. Kinh Đại thừa dùng tiếng Sanskrit, văn hoa bóng bẩy, với nhiều huyền nghiã và ẫn dụ. Tại sao kinh sách trong các lần kết tập đều bằng tiếng Pàli mà không bắng tiếng Sanskrit?. Đó là vì khi xưa Phật giảng dạy bằng ngôn ngữ Pàli cho nên kinh Nguyên thủy chỉ dùng tiếng Pàli để ghi lại mà thôi.

Luận cứ 13: Theo trang mạng của Thư viện Hoa sen: Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan Đà kết tập kinh điển và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A Nan Đà lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng kỳ đà, Sa môn quả, Phạm động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo,Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di được kết tập thành một bộ gọi là Tạp A hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng nhất A hàm. Các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp tạng.

Thế rồi tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuyên bố: Chúng ta đã kết tập xong giáo pháp. Từ nay những gì Phật không chế định thì không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì Phật đã chế định.

Đây là các tài liệu cổ nhất, đánh dấu bước đầu hình thành Chánh tạng Pàli. Tạng kinh nầy là căn bản cho Phật giáo Nguyên thủy. Hoàn toàn không có Tạng kinh của Đại thừa.

Luận cứ 14: Điều ngự giác hoàng, Trúc lâm Đại đầu đà Trần nhân Tông không tin kinh: A Di Đà và kinh Vô lượng thọ là lời Phật dạy, qua hai câu sau đây của bài phú “Cư trần lạc đạo”:

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.

Luận cứ 15: Kinh Tứ niệm xứ, tụng bản 3, (Tứ niệm xứ, 241,243) có câu: “vô sở ý, bất khởi thế gian tưởng, dĩ bất khỏi tưởng tiện vô bố úy, dĩ vô bố úy tiện vô dư, dĩ vô dư, trừ khử loạn tưởng tiện Niết bàn”.

Câu kinh trên có khí vị như “Tâm kinh Bát Nhã”. Đó là: “tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn”. Như vậy phải chăng “Tâm kinh Bát nhã” nói riêng và kinh Đại thừa nói chung được suy diễn từ kinh Nguyên thủy ?. (T.n.x. tr. 37)

Luận cứ 16: Nalinaksha Dutt viết: “Tập kinh Saddharmapundarika, thuộc kinh Pháp hoa của Đại thừa, dùng hai lời tuyên bố của Phật trong kinh Nguyên thủy để chứng minh kinh Đại thừa là lời dạy của Phật”.

* Lời tuyên bố thứ nhất của đức Phật, sau khi giác ngộ là: Phật ngần ngại không biết nên truyền thuyết giáo pháp cho đại chúng hay nhập Niết bàn? (Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: giáo lý Đại thừa quá cao siêu nên Phật mới ngần ngại). * Lời tuyên bố thứ hai của đức Phật là: Phật giảng chánh pháp không nhất luật phải như nhau. (Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: Phật muốn giảng dạy giáo lý Nguyên thủy trước, rồi kế đó, đổi lại, giảng giáo lý Đại thừa sau).

Cách giải thích như trên để chứng minh kinh Đại thừa là lời Phật dạy rất mơ hồ, không rõ ràng, vì hai câu trên có thể giải thích theo nhiều ý nghiã khác nhau.

Luận cứ 17: Tiến sĩ Suzuki viết: “Đại thừa không phải là lời dạy chính xác của đức Phật, nhưng các tăng sĩ Đại thừa rất hãnh diện về sự kiện nầy, vì đó là một sức mạnh tôn giáo linh động. Như vậy nào có quan hệ gì vấn đề Đại thừa là lời dạy chính xác hay không chính xác của Phật”. Luận Luận cứ 18: J.R. O’Neil viết: “Kinh của Đại thừa hoàn toàn khác hẳn về văn phong, âm điệu, nhưng chúng được nhiều người theo phong trào mới chấp nhận là “Phật ngôn” vì nhiều lý do. Thứ nhât, họ tin rằng đức Phật vẫn hiện hữu, cảm nhận được qua các trạng thái nhập thiền và mộng tưởng và đã giảng các bộ kinh đó. Thứ hai, chúng được xem như sản phẩm từ các tuệ giác Bát Nhã cũng có một căn bản như các bài pháp của đức Phật. Thứ ba, về sau nầy, nhiều người Đại thừa lại tin rằng các kinh đó là lời giảng của đức Phật, nhưng đã được dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn (Naga, Long vương), cho đến khi nào loài người có thể nhận thức được tầm mức quan trọng của kinh thì mới thỉnh được chúng, qua năng lực trong lúc tham thiền.

Luận cứ 19 Ngài Thế Thân, Asanga viết quyển sách: “Pháp tướng Duy thức học” rất nổi tiếng. Ngài đã làm cho Phật giáo Đại thừa phát triễn mạnh mẽ vào thế kỹ thứ 4 và chính ngài cũng từ bỏ Phật giáo Nguyên thủy để tu hành theo Phật giáo Đại thừa. Để biện minh cho nguồn gốc kinh Đại thừa, ngài nói: “Có thể kinh Đại thừa là do một vị nào đó ?. viết ra … và vị đó ?. ắt hẳn đã chứng quả Bồ đề như Phật Thích Ca và như vậy kinh Đại thừa cũng phải được xem như là lời Phật dạy”.

Câu nói trên của cao tăng Thế Thân chứng tỏ là ngài cũng không thể khẳng định kinh Đại thừa là lời Phật dạy, mặc dù ngài sinh trưởng rất gần với thời đại của đức Phật.

Kết luận:

Tăng sĩ Nguyên thủy có đầy đủ lịch sử, kinh sách, tài liệu đề chứng minh kinh Nguyên thủy là lời dạy của Phật. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp và A Nan Đà kết tập lời Phật dạy một cách trung thực, không thêm, không bớt để hoàn tất giáo pháp và luật lệ tu hành của đạo Phật. Trong lần kết tập thứ hai, giáo pháp (Dhamma) bị tách ra làm hai và được sắp xếp lại cho thứ tự, gọn gàng trong 3 tạng Pitaka (basket). Đó là: Tạng kinh (Suttanta), tạng vi-diệu (Abhidhamma) và tạng luật (Vinaya). Đó là Tam tạng Pàli. Trong các lần kết tập kế tiếp, chỉ có tạng luật bị thay đổi chút ít để thích nghi với điều kiện sinh sống và hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Chánh tạng nầy là căn bản tu học của đạo Phật Nguyên thủy.

Tăng sĩ Đại thừa không có chứng cớ cụ thể nào để chứng minh kinh Đại thừa là lời dạy của Phật, ngoại trừ những dẫn chứng siêu nhiên, thần bí như đã nói trong luận cứ số 6 và 18. Ngay cả cách tu hành cũng không làm theo lời dạy của Phật như: ăn chay thay vì ăn mặn, đọc kinh bằng tiếng điạ phương thay vì tiếng Phạn (Pàli), mặc y phục khác biệt vân vân. Kinh Đại thừa là do tăng sĩ suy diễn sâu rộng lời dạy của Phật. Nhờ đó triết lý Phật học trở nên linh động và phong phú hơn. Tiêu biễu là: “Trung quán luận” và “Duy thức học”. Kinh Đại thừa cũng giới thiệu nhiều vị Phật và Bồ tát. Các vị Phật và Bồ tát nầy trở thành đối tượng cho việc thờ phượng, giúp thành công trong việc truyền bá Phật giáo Đại thừa.
http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?488260-Tiểu-thừa-vs-Đại-thừa-Trung-quốc-Ấn-độ
 
Chỉnh sửa cuối:

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,196 Mã lực
Đời người hay ảo tưởng, vì vô minh mà không biết mình làm thế nào là đúng là sai?. Do đó co những chuyện nhìn thấy như nhau mà mỗi cá nhân có một đánh giá khác nhau về sự việc, cái đo là do tâm biến hiện mà ra.
Lại có những chuyện do sắc uẩn, người đời nhìn vào thường nghĩ theo quan điểm chủ quan của mình mà xét đoán sự việc một cách phiến diện không rốt ráo. Nhớ lại câu chuyện xưa .
Khổng Tử: Trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật.

Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử

Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ … Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo … Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm.

Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.

Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống … thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ … Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh … rồi từ từ đưa cơm lên miệng …

Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài … ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”

Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về … Nhan Hồi lại luộc rau … Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ …

Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.

Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước …

Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa com đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy … cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?

Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!”

Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”

Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”

Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”

Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi … nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em …

Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi … bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và … thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

sưu tầm!
 
Chỉnh sửa cuối:

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,196 Mã lực
Chuyện nay: có một ngôi chùa nọ rất linh thiêng, tín đồ rất đông, nên ma vương rất giận. có điều phật pháp vô biên nên nó chả làm gì phá hoại chùa được, do đó, nó liền nghĩ ra một kế là có thể tạo ra các chướng ngại để cản người đến cầu đạo. nó liền cho đệ tử hóa thân thành các tay trộm cắp anh chị giả dạng người trà trộn vào phá dám người kia. Có một chị thấy ngôi chùa đó rất đông, lại nghe đồn đại là chỗ đó cầu được ước thấy, thây vậy sinh lòng ham muốn, liều đánh đường đến đó với mong cầu lừa được phi vụ béo bở. Chẳng ngờ , do tâm ma xuất ra nên ma vương liền biết được, nó liền cho đệ tử đến làm chướng ngại. Do đó chị kia sau khi đến lễ lạt thì người chen chúc đông nget không để được lễ rồi bị móc túi (do ma trà trộn làm) sau đó đến khi lễ xong lấy xe gửi ở ngòai liền bị chặt đẹp. Tức quá chị ta liền chửi rủa sinh tâm sân hận. thế là bao nhiêu công đức lễ phật ra tro, đã thế chị ta còn thề không bao giờ đến chùa..
Bàn
Ngẫm lại chị kia quả là đáng thương, vì vô minh nên bị ngăn trở đã thế lại không có lòng tin chân thật nên đã bị lợi dụng gây sân hận, và đã bở lỡ cơ hội tiếp xúc với thiện tri thức. Nếu chị này cứ chọn một ngày nào đó vắng vẻ đến lễ với tâm thanh thản thì tốt biết bao. Vả lạ chị ta chỉ vì một đứa ắn cắp (lợi dụng lúc sơ hở hay tên trông xe chặt đẹp là những đứa ngoài đạo) mà quay lưng lại với Đạo là quá khờ.
Ngày xưa khi Ngài Thần Quang chặt tay cầu pháp , vì cầu đạo mà dám bỏ cả thân , Ngãm lại chị kia để được nguyện ước mà mất mát một tí chút vật ngoại thân thì đâu đáng kể gì? so ra thì cái giá quá rẻ
Đáng tiếc người đời nay đều phần đông cũng dễ bị như chị gái trong câu chuyện trên. Đều do cái vỏ bên ngoài của sự việc mà đánh giá sai cái cốt lõi ở trong.
Nên Đức Phật đã khuyên người ta NHẪN chúc cũng vì lẽ đó
 
Chỉnh sửa cuối:

slaz8

Xe ba gác
Biển số
OF-73831
Ngày cấp bằng
25/9/10
Số km
20,089
Động cơ
622,196 Mã lực
Đêm dài lắm mộng , thêm câu chuyện đêm khuy thư giãn trước khi đi nghỉ

“Năm Khai nguyên đời Đường Huyền Tông, có ông đạo sĩ họ Lã. Ông ta có một chiếc gối sứ mầu xanh. Một hôm đạo sĩ đi du ngoạn vào trọ cùng lữ điếm với một người thanh niên tên là Lư Sinh. Trong lúc hai người chờ chủ quán nấu cháo hoàng lương (loại mễ hạt nhỏ mầu vàng, giống hạt ngô), thời gian đến bữa còn lâu, bèn ngồi tán gẫu. Trong lúc nói chuyện, Lư Sinh cứ luôn than, phận mình nghèo khổ, không biết làm sao thoát nhanh ra khỏi. Đạo sĩ cười mà rằng, để thoát nhanh khỏi cảnh nghèo khổ cũng không khó.
Sau đó, đạo sĩ lấy từ trong tay nải ra chiếc gối sứ mầu xanh đưa cho Lư Sinh bảo, cậu nằm gối lên chiếc gối này ngủ một giấc thì có thể được vinh hoa phú quí! Chiếc gối hai đầu có hai lỗ nhỏ. Lư Sinh gối lên thì thấy chiếc lỗ cứ to dần lên, bèn đi vào.
Thoạt đầu đập vào mắt Lư Sinh là quang cảnh một ngôi làng trù phú giầu có. Bước đến đầu làng, anh ta được một a-hoàn xinh đẹp nghênh đón, đưa vào ở trong một tòa nhà lộng lẫy. Lư Sinh bắt đầu sống một cuộc sống sung sướng, phù hoa. Sau đó anh ta lấy con gái một nhà giầu có ở bên sông Thanh Hà, vợ chồng tràn ngập ân ái. Năm thứ hai anh ta thi đỗ tiến sĩ, từ đó hoan lộ hanh thông, chức lên như diều gặp gió, từ “tiết độ sứ” lên “ngự sử đại phu” rồi “tể tướng đương triều”, cuối cùng được phong là “Yên quốc công”. Lư Sinh sinh được 5 người con đều kết sui gia với những nhà danh gia vọng tộc.
Lư Sinh có 10 đứa cháu thật hoạt bát đáng yêu. Làm quan 50 năm, ruộng đất, giáp đệ, người đẹp, ngựa tốt Lư Sinh không gì không có. Đến năm 80 tuổi, do bệnh tật nên dâng biểu xin từ quan. Huyền Tông đích thân hạ chiếu tuyên dương công đức… Lúc đó chắc vì gió máy, đạo sĩ họ Lã bật ho, làm Lư Sinh tỉnh giấc. Anh ta nhận ra rằng mình đang nằm trong lữ điếm, mọi thứ xung quanh vẫn y như cũ, nồi cháo hoàng lương vẫn chưa nhừ.
Lư Sinh cảm thấy tiếc nuối, hóa ra mấy chục năm vinh hoa phú quí chỉ là một giấc mộng.
Lã đạo sĩ cười: Cuộc đời là vậy đấy!”
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top