Bộ đội Biên phòng Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân của
**** Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là một thành phần của
Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định và là một lực lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Trụ sở Bộ Tư lệnh: Số 4 Đinh Công Tráng,Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội (Đối diện Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).
Ngày
19 tháng 11 năm
1958,
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương **** Cộng sản Việt Nam đã quyết định thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến và các lực lượng vũ trang khác chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng, giao cho ngành
công an trực tiếp chỉ đạo, lấy tên là
Lực lượng Cảnh vệ. Lực lượng Cảnh vệ gồm: Cảnh vệ Biên phòng và Cảnh vệ Nội địa.
Theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, Cảnh vệ Biên phòng có nhiệm vụ:
- Trấn áp kịp thời bọn gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, hải phỉ nhỏ và các bọn phá hoại khác qua lại hoạt động ở khu vực biên giới, giới tuyến, bờ biển.
- Đánh mạnh vào bọn vũ trang xâm phạm biên giới của Tổ quốc, đối phó với mọi hành động có tính cách gây chiến trong khi chờ đợi bộ đội quốc phòng đến tiếp viện.
- Ngăn ngừa và trừng trị bọn chuyên buôn lậu qua khu vực biên giới.
- Thực hiện quy chế qua lại biên giới do Chính phủ đã quy định, kiểm soát việc qua lại biên giới (kể cả xe, người, hành lý, hàng hóa, các tác phẩm văn hóa và các vật dùng khác từ trong nước mang ra và từ ngoài nước mang vào trong nước).
- Bảo vệ đời sống an toàn và của cải của nhân dân, tài sản của Nhà nước, các kho tàng, hợp tác xã, công trường, nông trường, ở khu vực biên giới, chống bọn thổ phỉ, hải phỉ, biệt kích tấn công cướp bóc bất ngờ.
Cảnh vệ Nội địa có nhiệm vụ (nhiệm vụ này nay chuyển giao cho lực lượng cảnh sát bảo vệ thuộc Tổng cục Cảnh sát,
Bộ Công an):
- Trấn áp mọi hoạt động phá hoại của những toán phỉ nhỏ, bọn gián điệp nhảy dù và các vụ bạo động, phá hoại của các bọn phản cách mạng khác.
- Bảo vệ các cơ quan đầu não, các lãnh tụ của **** và Nhà nước, các cơ quan ngoại giao, các lãnh tụ quốc tế và các vị khách nước ngoài vào thăm nước ta.
- Bảo vệ các công xưởng, hầm mỏ, kho tàng quan trọng, các trung tâm thông tin liên lạc quan trọng, các đầu mối và trục giao thông quan trọng, các cuộc vận chuyển quan trọng, các cơ sở văn hóa, khoa học kỹ thuật quan trọng.
- Bảo vệ an ninh Thủ đô, các thành phố và thị xã quan trọng, bảo vệ các cuộc mít tinh lớn do Trung ương và Chính phủ quy định, chấp hành lệnh giới nghiêm khi cần thiết và cùng Cảnh sát nhân dân duy trì trật tự trị an chung.
- Canh gác các trại cải tạo, trại giam, áp giải các phạm nhân chính trị và hình sự quan trọng, bảo vệ các phiên tòa.
Ngày
3 tháng 3 năm
1959,
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 100 - TTg về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là
Công an Nhân dân Vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an. Ngày này được lấy làm ngày thành lập Bộ đội Biên phòng.
Lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang được tổ chức vào tối ngày
28 tháng 3 năm
1959, lúc 19 giờ, tại Câu lạc bộ Quân nhân,
Hà Nội.
Đến cuối năm
1979 Công an nhân dân vũ trang đổi tên là Bộ đội Biên phòng và chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Năm
1988, Bộ đội Biên phòng lại chuyển sang trực thuộc
Bộ Nội vụ cho đến cuối năm
1995 thì lại chuyển về
Bộ Quốc phòng.