Mô hình quản lý nước cho HN tối ưu phải có mô hình quản lý của ngành điện(có điều hành A0) và tiều tiết phân phối cho mạng lưới đều do đơn vị này quản lý điều tiết. Nối về ngành cấp nước HN phải có đơn vị(DNNN) làm trung gian điều tiết phân phối cho các vùng hợp lý, khoa học(áp dụng công nghệ 4.0 vào)
-Các nhà máy nước(DNTN) có quyền đầu tư và tùy theo nguồn tài chính mà quyết định công suất cấp, nhưng khi bán vào mạng lưới có đơn vị điều tiết theo giờ, ngày, mùa mà quyết định mua
của đơn vị sản xuất(NMN). Để bình đẳng giữa các NSX thì đơn vị điều tiết có thông báo trước(hoặc nối mạng chung) tùy theo tỷ lệ công suất NM mà điều tiết cho hợp lý(kiểu ngành điện thông báo đến các nhà máy phát điện).
-Còn về chất lượng nước, lập các trạm đấu "A0" quản lý nối có quan trắc thông báo hàng giờ các thông số cơ bản(chỉ tiêu chất lượng, áp suất, lưu lượng, đương nhiên phải tuân thủ QCVN 01). Nếu nước từ NM nào đến không đạt yêu cầu sẽ bị stop ngay cử ngõ vào TP, và tự động điều tiết(thông báo) NM khác tăng công suất bù.
-Toàn thành phố là mạng lưới khép kín(không phải các NM quản lý mà là đơn vị điều hành quản lý.
- Tránh trường hợp quản lý lộn xộn như hiện nay(các NM tranh thủ chiếm thị phần, rồi nước của tôi tốt hơn nước của ông, sông Đuống sạch hơn sông Đà...không tránh dc cạnh tranh không hoàn hảo(có thể như sự cố vừa qua).
-Hộ sử dụng nước sẽ phải trả cho bộ phận kinh doanh của đơn vị điều tiết.
- Nhà nước điều hành QLNN định giá mua bán nước cho từng đơn vị mua bán nước