[Funland] Sự va chạm giữa các nền văn minh - Samuel P. Huntington

Mandalord

Xe điện
Biển số
OF-193695
Ngày cấp bằng
12/5/13
Số km
3,657
Động cơ
201,841 Mã lực
Chào các cụ.

Khi Liên Xô tan vỡ năm 1991, cuộc đối đầu Đông - Tây giữa 2 phe XHCN và TBCN chấm dứt, thế giới nghĩ về viễn cảnh hoà bình và hợp tác. Trong bối cảnh tưởng chừng hết sức tốt đẹp đó (ít nhất là tốt đẹp đối với các quốc gia phương Tây), Samuel P. Huntington - một nhà bình luận chính trị - viết bài xã luận Clash of civilizations (Sự va chạm giữa các nền văn minh) năm 1993, tiên đoán về thời đại sau Chiến tranh lạnh rằng dù cho đối đầu giữa các dân tộc hay quốc gia vẫn còn hiện diện, đối đầu giữa các nền văn hoá nổi lên trở thành nguồn chính của xung đột.

Tác phẩm này nhận được nhiều sự chú ý và là trung tâm của nhiều cuộc tranh cãi, cả ủng hộ và phản đối, giống như mọi tác phẩm nổi tiếng khác trong lĩnh vực khoa học chính trị, Khoa học chính trị cũng không phải là khoa học chính xác; các tiên đoán trong bài xã luận có cái đúng và có cái không thành sự thật. Tuy nhiên, trong bối cảnh gần 20 năm thế giới chống chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, đồng thời cuộc "cạnh tranh chiến lược" Mỹ - Trung càng lúc càng leo thang và có xu hướng trở thành đối đầu, một tác phẩm nghiên cứu gần 30 năm về trước có thể đem tới một góc nhìn (bên cạnh nhiều góc nhìn khác) để tìm hiểu sâu sắc hơn về những gì đang diễn ra.

Bản gốc tiếng Anh (31 trang): https://www.stetson.edu/artsci/political-science/media/clash.pdf
Bản dịch tiếng Việt (25 trang): http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2013/09/nghiencuuquocte-net-54-su-va-cham-giua-cac-nen-van-minh.pdf

Đoạn mở đầu:

Hình thái tiếp theo của xung đột

Chính trị thế giới đang bước vào một giai đoạn mới, và các nhà trí thức đã không hề ngần ngại đưa ra vô số quan điểm về hình hài của nó – sự cáo chung của lịch sử, sự trở lại của mối thâm thù giữa các quốc gia – dân tộc, và sự suy tàn của các quốc gia – dân tộc dưới sức ép của chủ nghĩa bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu và các chủ nghĩa khác. Mỗi quan điểm đều nắm bắt một khía cạnh nào đó của hiện thực đang hình thành. Tuy nhiên tất cả đều không nắm bắt được một khía cạnh quan trọng, thực tế là trung tâm, của hình hài khả dĩ của chính trị thế giới trong những năm sắp tới.

Theo giả thiết cá nhân tôi, nguồn chính của xung đột trong thế giới mới sẽ không chỉ tập trung vào vấn đề hệ tư tưởng hay kinh tế. Thay vào đó khác biệt văn hóa sẽ là yếu tố chính gây nên sự chia rẽ loài người và là nguồn chính của xung đột. Quốc gia dân tộc vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò là chủ thể trung tâm của quan hệ quốc tế, tuy nhiên xung đột trong thế giới chính trị chủ yếu sẽ diễn ra giữa các quốc gia và các nhóm thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự xung đột giữa các nền văn minh sẽ chi phối chính trị thế giới. Và như vậy đường phân cách các nền văn minh sẽ trở thành các đường chiến tuyến trong tương lai.

Xung đột giữa các nền văn minh sẽ là bước phát triển mới nhất trong sự tiến hóa của xung đột trong thế giới hiện đại. Một thế kỷ rưỡi sau Hòa ước Westphalia cùng sự xuất hiện của hệ thống quốc tế hiện đại, các cuộc xung đột của thế giới phương Tây chủ yếu diễn ra giữa các đấng quân vương – các hoàng đế, các vị vua của chế độ quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến cố gắng mở rộng hệ thống nhà nước, quân đội, sức mạnh kinh tế theo tư tưởng trọng thương, và quan trọng nhất là mở rộng lãnh thổ cai trị. Tuy nhiên trong quá trình hình thành các quốc gia dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Cách mạng Pháp, chiến tuyến chính của xung đột là giữa các quốc gia hơn là giữa các bậc quân vương. Năm 1793, R. R. Palmer nhận xét “Thời kỳ chiến tranh giữa các vị vua đã qua, thời kỳ chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.” Mẫu hình xung đột của thế kỷ 19 kéo dài đến hết Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau đó, từ kết quả của Cách mạng Nga và các phản ứng chống lại cuộc cách mạng này, xung đột giữa các quốc gia đã nhường đường cho sự xung đột giữa các hệ tư tưởng, đầu tiên là giữa chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa dân chủ tự do, và sau đó là giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân chủ tự do. Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, xung đột ý thức hệ này biểu hiện qua sự đối đầu giữa hai siêu cường là Mỹ và Liên Xô, cả hai nước này đều không phải là các quốc gia dân tộc theo nghĩa châu Âu cổ điển và mỗi quốc gia đều xác định bản sắc của mình trên phương diện hệ tư tưởng.

Xung đột giữa các bậc quân vương, giữa các quốc gia dân tộc và giữa các hệ tư tưởng cơ bản là những xung đột của nền văn minh phương Tây, hay “nội chiến giữa các nước phương Tây” theo như cách gọi của William Lind. Sự phân loại này là đúng nếu xét đến cuộc Chiến tranh Lạnh, hai cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh trước đó trong thế kỷ mười bảy, mười tám và mười chín. Với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, chính trị thế giới bước ra khỏi giai đoạn chi phối bởi phương Tây, và trung tâm của nó giờ đây là sự tương tác giữa các nền văn minh phương Tây với ngoài phương Tây hay giữa các nền văn minh ngoài phương Tây với nhau. Trong quan hệ chính trị giữa các nền văn minh, các dân tộc và chính phủ của các nền văn minh ngoài phương Tây không còn đóng vai trò chủ thể lịch sử là mục tiêu của chủ nghĩa thực dân phương Tây nữa mà đã cùng với phương Tây trở thành đối tượng thúc đẩy và định hình lịch sử.

Bản chất của các nền văn minh

Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thế giới bị phân chia thành các nước thế giới thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Sự phân chia này giờ đây không còn phù hợp nữa. Giờ đây cách phân chia ý nghĩa hơn nhiều là phân loại các nước theo nền văn hóa và văn minh của họ chứ không phải theo hệ thống chính trị, kinh tế, hay theo trình độ phát triển kinh tế như trước kia.

Khái niệm nền văn minh nghĩa là gì? Một nền văn minh là một thực thể văn hóa. Các thôn làng, các vùng, các nhóm sắc tộc, các dân tộc, các nhóm tôn giáo, tất cả đều có những nền văn hóa riêng biệt với các cấp độ đồng nhất văn hóa khác nhau. Văn hóa của một ngôi làng miền Nam nước Ý sẽ có sự khác biệt với văn hóa một ngôi làng ở miền Bắc, nhưng cả hai đều chia sẻ nét văn hóa chung của nước Ý, phân biệt chúng với những ngôi làng ở nước Đức. Cũng như vậy, các cộng đồng châu Âu chia sẻ những đặc điểm văn hóa chung phân biệt họ với các cộng đồng người Ả Rập hay người Hoa. Tuy nhiên, các cộng đồng người Ả Rập, người Hoa hay các cộng đồng châu Âu không nằm trong một thực thể văn hóa lớn hơn nào khác. Họ cấu thành nên các nền văn minh. Như vậy một nền văn minh là nhóm văn hóa cao nhất của con người và là cấp độ rộng nhất của bản sắc văn hóa mà con người có được để phân biệt với các loài khác. Các yếu tố của một nền văn minh bao gồm các yếu tố khách quan chung như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, phong tục, các thể chế, và các yếu tố chủ quan để con người tự nhận dạng lẫn nhau. Con người có nhiều cấp độ bản sắc khác nhau: một công dân La Mã có thể tự xác định mình theo nhiều cấp độ như là một người La Mã, một công dân Ý, một người theo Công giáo, một tín đồ Cơ đốc giáo, một công dân châu Âu hay một người phương Tây. Trong đó nền văn minh là cấp độ bản sắc rộng nhất mà anh ta có thể dùng để tự nhận dạng. Con người hoàn toàn có thể và thực sự đã từng tái định nghĩa bản sắc của mình và do đó dẫn tới sự thay đổi trong thành phần và ranh giới của các nền văn minh.

Một nền văn minh có thể bao gồm một cộng đồng lớn người dân, ví dụ như Trung Hoa (“một nền văn minh vờ làm một quốc gia” như cách nói của Lucian Pye), hay cũng có thể chỉ bao gồm một số rất ít người như cộng đồng những người nói tiếng Anh ở vùng Caribbê. Một nền văn minh có thể gồm nhiều quốc gia dân tộc như nền văn minh của các nước phương Tây, các nước Mỹ Latinh hay các nước Ả Rập; cũng có thể chỉ gồm một quốc gia như trường hợp nền văn minh Nhật Bản. Giữa các nền văn minh sẽ có sự pha trộn và chồng lấn nhau, và có thể bao gồm cả các nền văn minh nhỏ hơn. Ví dụ như văn minh phương Tây có hai biến thể chính là văn minh châu Âu và văn minh Bắc Mỹ, hay như cộng đồng Hồi giáo có thể chia nhỏ thành văn minh Ả Rập, văn minh người Thổ hay cộng đồng các nước nói tiếng Malay. Tuy nhiên, các nền văn minh là các thực thể có ý nghĩa, và dù ranh giới giữa chúng rất mong manh, các ranh giới đó là có thật. Các nền văn minh cũng luôn vận động, chúng hưng thịnh rồi suy vong, chia tách rồi hợp nhất. Và như những người nghiên cứu lịch sử đều biết thì các nền văn minh còn biến mất và bị chôn vùi dưới rêu phong thời gian.

Người phương Tây có xu hướng quan niệm rằng các quốc gia dân tộc là chủ thể chính của các vấn đề toàn cầu. Các quốc gia dân tộc đã đóng vai trò đó, nhưng chỉ trong vài thế kỷ. Phạm vi rộng lớn nhất của lịch sử loài người chính là lịch sử của các nền văn minh. Trong cuốn Một nghiên cứu về lịch sử [A Study of History], Arnold Toynbee đã chỉ ra 21 nền văn minh chính, nhưng chỉ 6 trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Lý do các nền văn minh sẽ xung đột lẫn nhau

Bản sắc của nền văn minh đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tương lai khi thế giới sẽ được định hình phần lớn bởi sự tương tác giữa bảy hay tám nền văn minh chính, bao gồm văn minh phương Tây, văn minh Nho giáo, văn minh Nhật Bản, văn minh Hồi giáo, văn minh Ấn giáo, văn minh của người Slavơ –Chính thống giáo, văn minh Mỹ Latinh và cũng có thể sẽ gồm cả nền văn minh châu Phi. Xung đột quan trọng nhất trong tương lai sẽ diễn ra dọc theo đường chia cắt giữa các nền văn minh này.

Tại sao lại như vậy?

Thứ nhất, sự khác biệt giữa các nền văn minh không chỉ là có thật mà còn rất căn bản. Các nền văn minh phân biệt với nhau chủ yếu qua tôn giáo, ngoài ra còn qua các yếu tố khác như lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống. Người dân ở các nền văn minh khác nhau có sẽ những quan điểm riêng biệt về quan hệ giữa con người với Đấng tối cao, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với quốc gia, cha mẹ với con cái, quan hệ chồng vợ cũng như sự khác biệt quan điểm về tầm quan trọng của quyền lợi so với nghĩa vụ, sự tự do so với quyền hạn nhà nước, hay quan điểm về sự bình đẳng và phân chia thứ bậc. Những sự khác biệt này được hình thành từ hàng thế kỷ nay, do đó không thể dễ dàng biến mất. Những khác biệt này mang tính nền tảng hơn so với sự khác biệt giữa các ý thức hệ chính trị hay chế độ chính trị. Cho dù khác biệt không có nghĩa là xung đột và xung đột cũng không có nghĩa là bạo lực thì hàng thế kỷ qua, khác biệt giữa các nền văn minh đã tạo ra các cuộc xung đột kéo dài nhất và bạo lực nhất.

Thứ hai, thế giới đang dần thu hẹp lại. Sự tương tác giữa cư dân thuộc các nền văn minh khác nhau đang ngày càng tăng lên, kèm theo đó là sự gia tăng ý thức về nền văn minh cũng như nhận thức về sự khác biệt và tương đồng giữa các nền văn minh với nhau. Thái độ thù địch là phản ứng của người Pháp khi những người Bắc Phi di cư đến nước này, trong khi đó những người nhập cư Ba Lan Công giáo châu Âu “lương thiện” lại ngày càng được chào đón. Người Mỹ phản ứng tiêu cực hơn nhiều với những nguồn đầu tư từ Nhật Bản so với các nguồn đầu tư lớn hơn từ Canada hay các nước châu Âu. Tương tự như vậy, như Donald Horowitz đã chỉ ra, “đối với những người dân vùng Đông Nigeria, một người Ibo có thể là người Ibo Owerri hay người Ibo Onitsha. Ở Lagos, người đó đơn giản là người Ibo. Ở London, anh ta là một người Nigeria. Còn ở New York, người ta chỉ biết đó là một người châu Phi.” Tương tác giữa cư dân thuộc các nền văn minh khác nhau làm gia tăng ý thức về nền văn minh của họ, điều đến lượt nó sẽ tăng cường sự khác biệt và sự thù địch đã có, hoặc được cho là đã có, từ sâu xa trong lịch sử.

Thứ ba, quá trình hiện đại hóa nền kinh tế và thay đổi trong xã hội trên phạm vi toàn cầu sẽ đưa con người rời xa khỏi các bản sắc bản địa lâu đời. Chúng cũng sẽ làm suy yếu các quốc gia dân tộc trong vai trò là một nguồn tạo nên bản sắc. Thay vào đó các hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới sẽ nắm giữ vai trò này, thường là dưới dạng các phong trào được gọi là “trào lưu chính thống”. Những phong trào nào có thể được tìm thấy ở Kitô giáo Tây phương, Do Thái giáo, Phật giáo, Ấn giáo, cũng như Hồi giáo. Ở hầu hết các nước hay tôn giáo, những người tích cực đi theo các phong trào chính thống này chủ yếu là những chuyên gia kỹ thuật, những người có trình độ chuyên môn, hay các doanh nhân thuộc tầng lớp trung lưu, học cao và còn trẻ. George Weigel nhấn mạnh “sự phi thế tục hóa thế giới đang là một xu hướng xã hội chủ đạo vào cuối thế kỷ hai mươi.” Sự hồi sinh của tôn giáo mà Gilles Kepel gọi là “sự trả thù của Chúa” (la revanche de Dieu) đã tạo nên cơ sở của bản sắc cũng như sự cam kết vượt khỏi biên giới quốc gia để kết nối các nền văn minh với nhau.

Thứ tư, phương Tây đóng vai trò kép trong việc cải thiện ý thức về nền văn minh. Một mặt, nền văn minh phương Tây đang ở đỉnh cao của quyền lực. Mặt khác, điều này dẫn đến hiện tượng các nền văn minh phi phương Tây đang tìm cách quay lại các giá trị gốc rễ. Chúng ta ngày càng nghe nhiều hơn về xu hướng hướng nội và xu hướng “Á hóa” của Nhật, sự kết thúc của di sản Nehru và xu hướng “Hindu hóa” của Ấn Độ, sự thất bại của các ý tưởng về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc của phương Tây, từ đó dẫn đến xu hướng “tái Hồi giáo hóa” của vùng Trung Đông, hay cuộc tranh luận về xu hướng “phương Tây hóa” so với “Nga hóa” ở đất nước của Boris Yeltsin. Một phương Tây đang ở đỉnh cao quyền lực đang đối mặt với một thế giới ngoài phương Tây ngày càng có mong muốn, ý chí và các nguồn lực để định hình thế giới theo các cách thức phi phương Tây.

Trong quá khứ, giới tinh hoa của các xã hội phi phương Tây thường là những người có quan hệ mật thiết với phương Tây, được giáo dục tại những ngôi trường như Oxford, Sorbonne hay Sandhurst, hấp thu các quan niệm và giá trị phương Tây. Trong khi đó, dân chúng ở các nước phi phương Tây thường lại thấm nhuần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, các mối quan hệ này lại bị đảo ngược. Một quá trình phi phương Tây và bản địa hóa của giới tinh hoa đang diễn ra ở nhiều quốc gia ngoài phương Tây cùng lúc với việc các giá trị văn hóa, phong cách và thói quen của phương Tây, đặc biệt là Mỹ, lại ngày càng trở nên phổ biến với những người dân thường.

Thứ năm, các đặc trưng và khác biệt về văn hóa khó biến đổi, vì vậy việc thỏa hiệp hay giải quyết khó hơn so với các khác biệt về chính trị hay kinh tế. Như ở Liên Xô cũ, những người cộng sản có thể trở thành những người dân chủ, người giàu có thể thành người nghèo và người nghèo có thể giàu lên, nhưng người Nga không thể trở thành người Estonia, cũng như người Azerbaijan không thể trở thành người Armenia. Trong các xung đột về giai cấp và tư tưởng, câu hỏi mấu chốt là “Bạn thuộc phe nào?” và người ta có thể và thực sự đã chọn phe và cả đổi phe. Trong các cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi đặt ra là “Anh là ai?” Đó là một bản sắc mặc định không thể thay đổi? Như ta đã biết, từ Bosnia, tới khu vực Capcadơ và tới Sudan, trả lời sai câu hỏi trên có thể khiến một viên đạn găm vào đầu người đáp. Hơn cả khía cạnh sắc tộc, tôn giáo phân định con người một cách rõ ràng và riêng biệt. Một người có thể mang hai dòng máu Pháp và Ả Rập và đồng thời là công dân của hai nước nhưng lại khó hơn nhiều để vừa là người Công giáo vừa là người Hồi giáo.

Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực về kinh tế đang phát triển. Tỉ trọng của thương mại liên khu vực trong tổng thương mại giai đoạn 1980 – 1989 tăng từ 51% lên 59% ở châu Âu, từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% lên 36% ở Bắc Mỹ. Tầm quan trọng của các khối kinh tế khu vực sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai. Một mặt, sự thành công của chủ nghĩa khu vực kinh tế sẽ củng cố ý thức về bản sắc văn minh. Mặt khác, chủ nghĩa khu vực kinh tế chỉ có thể thành công khi xuất phát điểm của nó là từ một nền văn minh chung. Cộng đồng châu Âu tồn tại dựa trên nền tảng là văn hóa châu Âu và Kitô giáo phương Tây. Hay như thành công của Khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) dựa trên sự hội tụ đang diễn ra giữa các nền văn hóa Mexico, Canada và Mỹ. Ngược lại, Nhật Bản gặp khó khăn trong việc tạo nên một thực thể kinh tế tương tự ở Đông Á bởi vì bản thân Nhật Bản là một xã hội và là một nền văn minh độc nhất, riêng biệt. Cho dù các mối liên kết thương mại và đầu tư của Nhật Bản với các nước Đông Á khác có phát triển tới đâu thì những sự khác biệt văn hóa với các quốc gia này sẽ ngăn cản Nhật thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực như ở châu Âu hay Bắc Mỹ.

Ngược lại, văn hóa chung rõ ràng đang tạo thuận lợi cho sự mở rộng nhanh chóng quan hệ kinh tế giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hồng Kông, Đài Loan, Singapore với các cộng đồng Hoa kiều ở các nước châu Á khác. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự giống nhau về văn hóa ngày càng vượt qua những khác biệt về hệ tư tưởng, mang Trung Hoa đại lục và Đài Loan xích lại gần nhau. Nếu các nét chung về văn hóa là điều kiện tiên quyết cho sự hội nhập kinh tế thì khối kinh tế chính ở Đông Á trong tương lai sẽ có trung tâm là Trung Quốc. Khối này trên thực tế đang được hình thành. Như Murray Weidenbaum nhận xét,

Mặc cho hiện nay Nhật Bản đang thống trị trong khu vực, nền kinh tế dựa vào người Trung Quốc của châu Á đang nổi lên nhanh chóng trở thành trung tâm của các ngành công nghiệp, thương mại và tài chính. Khu vực chiến lược này bao gồm các thành tố đáng kể về trình độ phát triển công nghệ và chế tạo (Đài Loan), khả năng tiếp thị, kinh doanh và dịch vụ nhạy bén (Hồng Kông), một mạng lưới liên lạc tốt (Singapore), một nguồn tài chính dồi dào (cả ba), cũng như nguồn đất đai, tài nguyên và nhân công rộng lớn (Trung Hoa đại lục)… Từ Quảng Châu đến Singapore, từ Kuala Lumpur đến Manila, mạng lưới nhiều ảnh hưởng này – vốn thường dựa vào sự mở rộng các dòng tộc truyền thống – đã được miêu tả như là xương sống của nền kinh tế Đông Á.[1]
Văn hóa và tôn giáo đồng thời là nền tảng của Tổ chức Hợp tác Kinh tế (ECO), đem mười nước Hồi Giáo phi Ả Rập gồm Iran, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Tadjikistan, Uzbekistan và Afghanistan lại gần nhau. Đây là tổ chức được thành lập năm 1960 bởi Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan và Iran. Một động lực cho sự hồi sinh và mở rộng của tổ chức này là do sự nhận thức của lãnh đạo một vài nước rằng họ không thể gia nhập vào Cộng đồng châu Âu. Tương tự vậy, Caricom, Thị trường chung Trung Mỹ và khối Mercosur cũng dựa trên nền tảng văn hóa chung. Tuy nhiên, cố gắng xây dựng một thực thể kinh tế rộng lớn hơn ở Trung Mỹ và vùng Caribbean làm cầu nối giữa khu vực gốc Anglo và Latinh cho đến nay đã thất bại.

Bởi vì con người tự xác định bản sắc của mình trên khía cạnh dân tộc và tôn giáo, họ có xu hướng thấy một mối quan hệ đối chọi giữa “chúng tôi” với “họ” tồn tại giữa mình với những người thuộc các dân tộc hay tôn giáo khác. Sự sụp đổ của các quốc gia mang bản sắc hệ tư tưởng ở Đông Âu và Liên Xô cũ đồng nghĩa với việc vấn đề bản sắc và sự đối chọi về sắc tộc truyền thống nổi lên hàng đầu. Khác biệt về văn hóa và tôn giáo tạo nên những khác biệt về các vấn đề chính sách, từ các vấn đề về quyền con người đến các vấn đề nhập cư, thương mại và giao dịch cho đến các vấn đề về môi trường. Khoảng cách ngắn về mặt địa lý làm gia tăng các yêu sách lãnh thổ xung đột nhau ở Bosnia cho tới Mindanao. Quan trọng nhất, nỗ lực của phương Tây trong việc biến chủ nghĩa dân chủ và tự do thành giá trị toàn cầu, duy trì lợi thế quân sự sẵn có và nâng cao lợi ích kinh tế đang tạo ra sự chống đối từ các nền văn minh khác. Khả năng kêu gọi hỗ trợ và thiết lập các liên minh trên nền tảng hệ tư tưởng giảm xuống đã làm các chính phủ và các nhóm quốc gia phải ngày càng dùng bản sắc văn minh và tôn giáo chung như một cách khác để huy động sự ủng hộ.

Có thể nói, sự xung đột giữa các nền văn minh diễn ra trên hai cấp độ. Ở tầm vi mô, các nhóm nằm ở gần hai bên ranh giới giữa các nền văn minh đấu tranh lẫn nhau, thường là một cách bạo lực, để kiểm soát lãnh thổ của mình và kiểm soát lẫn nhau. Ở cấp độ vĩ mô, các quốc gia ở các nền văn minh khác nhau đấu tranh để giành quyền lực quân sự và kinh tế tương đối, đồng thời còn đấu tranh để kiểm soát các tổ chức quốc tế và các bên thứ ba, và cạnh tranh nhau để thúc đẩy các giá trị tôn giáo và chính trị cụ thể của mình.
 

thuyphongthanh

Xe lăn
Biển số
OF-190452
Ngày cấp bằng
19/4/13
Số km
12,490
Động cơ
438,430 Mã lực
Em đề nghị Min ,Mod thêm mục điểm báo và giới thiệu sách trong quán nhé.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top