Sách trắng quốc phòng Việt Nam 2009

KhuongDuy

Xe điện
Biển số
OF-49857
Ngày cấp bằng
31/10/09
Số km
2,368
Động cơ
480,130 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà em không có
Cụ nào máu đọc thì nhớ mắc màn

Nguồn : http://admm.org.vn:6789/TempFiles/d256eaff-ef81-41cf-85ca-3ebe6158f31a.pdf

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ QUỐC PHÒNG


QUỐC PHÒNG VIỆT NAM



HÀ NỘI 12-2009​



LỜI MỞ ĐẦU
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Năm 2009 kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách, cùng dân tộc đánh thắng nhiều cuộc chiến tranh xâm lược lớn, góp phần quan trọng trong cách mạng dân chủ nhân dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Dưới sự lãnh đạo của ************* Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã và đang đạt được những thành tựu to lớn có . nghĩa lịch sử. Vượt lên mọi khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới , thiên tai và những yếu kém nội tại của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã hội của đất nước vẫn ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó đã tạo nên thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước, Quân đội nhân dân phải tăng cường hơn nữa công tác đối ngoại quốc phòng; mở rộng và củng cố quan hệ, hợp tác với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác... đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả, ổn định, bền vững, tin cậy lẫn nhau, góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.

Với mục đích nêu trên, Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng về Quốc phòng Việt Nam lần thứ 3. Đây là tài liệu nêu rõ những quan điểm cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam, cơ chế lãnh đạo và quản lý quốc phòng; cơ cấu Bộ Quốc phòng; tổ chức và phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện. Sách trắng về Quốc phòng cũng đề cập đến chính sách hợp tác quốc phòng, thể hiện mong muốn tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân các nước nhằm đẩy mạnh hợp tác vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Đại tướng Phùng Quang Thanh
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

PHẦN THỨ NHẤT


TÌNH HÌNH AN NINH


CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG

1. TÌNH HÌNH AN NINH

1.1. Thế giới và khu vực
Tình hình an ninh thế giới và khu vực những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp, song hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy ít có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang giữa các quốc gia hay trong một quốc gia do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và các quyền lợi quốc gia khác có chiều hướng gia tăng, tác động mạnh tới hòa bình, an ninh của các dân tộc.

Tình hình thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng, khó lường. Sự phân bố lại sức mạnh kinh tế v à quân sự trên phạm vi toàn cầu đang làm cho cục diện chính trị thế giới biến đổi sâu sắc với xu thế đa cực ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nhiều cường quốc và các trung tâm quyền lực mới nổi lên, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực với nhau d iễn ra quyết liệt và có chiều hướng gia tăng.

Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang đi vào chiều sâu làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, buộc các nước phải tăng cường hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung. Tuy nhiên, do những khác biệt về lợi ích nên trong một số vấn đề cụ thể, sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Suy thoái kinh tế thế giới bắt đầu từ khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các quốc gia. Các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực ngày càng trở nên quan trọng đối với thế giới. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống có tính toàn cầu khác đã trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia. Giải quyết những vấn đề nêu trên là công việc của cả cộng đồng quốc tế vì không một quốc gia hay khu vực riêng rẽ nào có thể một mình giải quyết được.

Ảnh hưởng của các vấn đề quốc phòng - an ninh trong quan hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cách mạng mới trong quân sự đang làm chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự của các nước thay đổi lớn. Sự cạnh tranh sức mạnh quân sự đang dẫn tới nguy cơ chạy đua vũ trang trên thế giới, nhất là chạy đua sức mạnh trên biển và trên vũ trụ. Nhiều nước lớn điều chỉnh chiến lược quân sự, tăng ngân sách quốc phòng, đẩy nhanh hiện đại hoá quân đội, phát triển vũ khí trang bị và công nghệ quân sự tiên tiến. Sự phát triển này không chỉ tác động đến quan hệ giữa các nước lớn mà còn tác động đến quốc phòng của tất cả các nước. Khoảng cách về sức mạnh quân sự của các cường quốc với sức mạnh quân sự của các quốc gia còn lại trên thế giới ngày càng xa. Tại một số khu vực, việc tăng cường sức mạnh quân sự làm cho tình hình trở nên phức tạp. Cơ chế kiểm soát vũ khí và cấm phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt đang gặp phải những thách thức lớn.
Châu Á - Thái Bình Dương với các nền kinh tế phát triển năng động đang trở thành khu vực có vị trí ngày càng quan trọng trên thế giới, thu hút sự quan tâm và cạnh tranh ảnh hưởng của các cường quốc. Các cơ chế hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực đang phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với quốc phòng - an ninh. Nhiều điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột vũ trang và chiến tranh vẫn chưa được giải quyết. Tình trạng tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên trên đất liền cũng như trên biển có chiều hướng gia tăng. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng đang phải đối mặt với tác động ngày càng tăng của nhiều thách thức an ninh phi truyền thống.

Tình hình an ninh khu vực Đông Nam Á cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng và xung đột. Suy thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh mẽ đến kinh tế khu vực, làm trầm trọng thêm tình hình bất ổn nội bộ của một số nước. Tranh chấp lãnh thổ trên biển và trên đất liền diễn biến phức tạp, trong đó tranh chấp chủ quyền và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông có chiều hướng gia tăng. Đông Nam Á là khu vực chịu tác động nặng nề của nhiều thảm hoạ thiên nhiên như bão, lụt, sóng thần... Khủng bố, cướp biển tuy đã bị kiềm chế nhưng vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh khu vực, là mối quan tâm chung của các quốc gia Đông Nam Á và nhiều quốc gia khác. Biến đổi khí hậu, thảm hoạ thiên nhiên, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia tác động ngày càng lớn đến an ninh của các quốc gia trong khu vực.

Các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang tăng cường hợp tác và hội nhập để biến Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Hiến chương ASEAN đã có hiệu lực, mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác khu vực. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá - Xã hội vào năm 2015. Quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác ngoài khu vực vì hòa bình, ổn định và phát triển được tăng cường. Hoạt động theo các nguyên tắc "tự nguyện", "đồng thuận", "không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau", ASEAN tiếp tục đóng vai trò chủ đạo đối với các vấn đề an ninh ở Đông Nam Á, trong quá trình vận động và phát triển của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và các cơ chế an ninh khu vực khác. Liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, các nước ASEAN tiếp tục cam kết tuân thủ và thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và đang nỗ lực hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC) , nhằm đạt được giải pháp lâu dài cho vấn đề phức tạp này trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.

1.2. Việt Nam
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đ ã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quốc phòng - an ninh được giữ vững. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong cải thiện môi trường an ninh của đất nước. Việt Nam đã tích cực đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia trên bộ, trên biển.

Lần đầu tiên trong lịch sử, biên giới trên đất liền của Việt Nam đã cơ bản được phân định rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam và các nước láng giềng xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Đây là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam và các bên có liên quan trong vi ệc giải quyết vấn đề hệ trọng và nhạy cảm này. Việt Nam cũng tích cực giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Ranh giới biển giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ đã được phân định. Một số vấn đề nảy sinh tại các khu vực chồng lấn tr ên biển giữa Việt Nam với các nước khác đã và đang được giải quyết.

Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với tất cả các nước đang được củng cố và ngày càng phát triển.

Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về an ninh đa dạng và phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn do chưa đủ mạnh lại chịu tác động lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù quốc phòng - an ninh của đất nước vẫn được giữ vững nhưng nhiều nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội từ bên ngoài và ở bên trong vẫn còn tồn tại, chưa được khắc phục triệt để. Các quyền tự do dân chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề nhân quyền đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động bạo loạn, ly khai tại một số khu vực của đất nước. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông có những diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến hoạt động của nhân dân và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Những vấn đề an ninh phi truyền thống như buôn bán và vận chuyển trái phép vũ khí, ma tuý, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức, khủng bố, nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi trư ờng, biến đổi khí hậu, bệnh dịch... cũng là những mối quan tâm an ninh thường xuyên của Việt Nam.


2. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG

2.1. Những vấn đề cơ bản trong chính sách quốc phòng
Việt Nam luôn coi việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước, là mục tiêu xuyên suốt của chính sách quốc phòng Việt Nam. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình. Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang. Là một dân tộc phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.

Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước 1982 về luật biển của Liên hợp quốc. Trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề này, Việt Nam chủ trương các bên phải tự kiềm chế, nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC), tiến tới đạt được giải pháp công bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp này để Biển Đông luôn luôn là vùng biển hoà bình, hữu nghị và phát triển.

Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị do ************* Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng quân sự và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia khác của đất nước trong tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều thay đổi, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân dựa trên truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của toàn dân tộc, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, kế thừa và phát huy các giá trị của khoa học quân sự Việt Nam qua các thời kỳ, xây dựng nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh hiện đại.Tích cực, chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là một trong các nhiệm vụ trọng yếu của quốc phòng Việt Nam trong thời bình nhằm thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà không cần phải tiến hành chiến tranh. Việt Nam chủ trương thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá - xã hội và quân sự nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh. Quán triệt phương châm phòng thủ toàn diện, chủ động, bảo vệ Tổ quốc từ xa, quốc phòng Việt Nam sử dụng các biện pháp tổng hợp nhằm giữ vững ổn định bên trong, ngăn ngừa các nguy cơ can thiệp từ bên ngoài.

Quốc phòng Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng v à Nhà nước Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với nhân dân và chính phủ các nước, tạo cơ sở mở rộng hợp tác, giải quyết các mâu thuẫn nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xung đột, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện chính sách quố c phòng độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc ph òng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác. Đồng thời, Việt Nam chú trọng phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi. Việt Nam coi trọng hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống đồng thời phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước có chung mục tiêu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước để giải quyết các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại đồng thời hoan nghênh các sáng kiến và các hoạt động phục vụ hoà bình, hợp tác của tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị hay lịch sử quan hệ với Việt Nam.

Việt Nam kiên quyết lên án và chống lại hành động khủng bố dưới mọi hình thức đồng thời phản đối các hoạt động lợi dụng chống khủng bố để can thiệp v ào công việc nội bộ của các nước. Cùng với nỗ lực thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và đối phó với các hoạt động khủng bố, Việt Nam ủng hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế và mở rộng hợp tác nhằm ngăn ngừa các hoạt động khủng bố và các hoạt động hỗ trợ khủng bố dưới mọi hình thức. Việt Nam cho rằng các biện pháp chống khủng bố và hợp tác quốc tế chống khủng bố phải được tiến hành trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam đã ký 8 trong tổng số 12 công ước của Liên hợp quốc về chống khủng bố, đang xem xét tham gia các công ước còn lại.

Việt Nam ủng hộ giải quyết các điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột khác trong khu vực thông qua đối thoại, thương lượng hoà bình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực.

2.2. Đối ngoại và hợp tác quốc phòng
Là một đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế theo phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.

Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hoà bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới.

Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, an ninh của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh của thế giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc tế.

Quân đội nhân dân Việt Nam chủ tr ương mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Việt Nam đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới mọi hình thức như trao đổi các đoàn quân sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế... nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin và ngăn ngừa xung đột.

Việt Nam mong muốn mở rộng quan hệ quốc phòng song phương với tất cả các quốc gia. Các lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước là trao đổi các đoàn quân sự, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; hợp tác huấn luyện, đ ào tạo, giải quyết các vấn đề nhân đạo… Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam.

Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc ph òng với các nước ASEAN trong khuôn khổ ch ương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN và phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm.
Việt Nam chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các nước có liên quan, giúp cho các bên hiểu rõ quan điểm của nhau, tạo ra cơ hội giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Việt Nam đã tiến hành đối thoại quốc phòng - an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ… Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước cũng được coi trọng. Việt Nam đã đón 46 đoàn gồm 81 lượt tàu, hơn 18000 lượt sĩ quan và thuỷ thủ hải quân các nước tới thăm các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008, lần đầu tiên, Việt Nam đã cử đoàn tàu hải quân đi thăm hữu nghị nước ngoài.

Do điều kiện địa lý, lịch sử và quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu, nhiều vấn đề quốc phòng, an ninh của Việt Nam ngày càng liên quan chặt chẽ với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, đi đôi với hoạt động trao đổi các đoàn quân sự, hợp tác về huấn luyện, đào tạo... với tất cả các nước, Việt Nam ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề quốc phòng - an ninh song phương. Việt Nam đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc; đang tiến hành phân giới cắm mốc tại nhiều khu vực bi ên giới quan trọng và đã thỏa thuận hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2012 với Căm-pu-chia; đã hoàn thành phân định và đang tăng dày mốc biên giới với Lào; đang tăng cường phối hợp tuần tra kiểm soát khu vực biên giới trên đất liền giữa bộ đội biên phòng Việt Nam với lực lượng biên phòng và an ninh các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các Điều ước quốc tế về biên giới, các thoả thuận hợp tác biên phòng nhằm phòng chống các loại tội phạm như buôn lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ v à trẻ em, ma tuý... góp phần xây dựng biên giới hoà bình và hữu nghị. Việt Nam đã cố gắng giải quyết các vấn đề bi ên giới trên biển, mở rộng hợp tác với các nước khác để bảo đảm an ninh biển. Hải quân Việt Nam đã lập đường dây nóng và tiến hành
tuần tra chung với hải quân một số nước như Căm-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp bảo vệ an ninh trên các vùng chồng lấn và khu vực giáp ranh trên biển.

Thiết lập và duy trì quan hệ giữa Tổng cục Tình báo quốc phòng Việt Nam và các cơ quan tình báo quân sự các nước là kênh trao đổi thông tin quan trọng về các vấn đề quốc phòng - an ninh.

Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác đa phương trên lĩnh vực giữ gìn an ninh của các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)...

Là thành viên chính thức của Liên hợp quốc từ năm 1977, Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình đồng thời tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các vấn đề an ninh quốc tế. Trong thời gian l à Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Li ên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) Việt Nam đã tham khảo ý kiến của các nước không liên kết, phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên Hội đồng bảo an để đưa ra các quyết định về các vấn đề an ninh quốc tế phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.Việt Nam đánh giá cao vai trò và coi hoạt động giữ gìn hoà bình là một chức năng quan trọng của Liên hợp quốc. Để hoàn thành tốt chức năng này, các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia; bảo đảm tính vô tư, không thiên vị và chỉ được triển khai khi được các bên liên quan đồng ý. Việt Nam đang hoàn tất quá trình chuẩn bị để có thể tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đang tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước khác, chuẩn bị nhân sự có đủ tr ình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp quốc tế để có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc với hiệu quả cao nhất.

Xuất phát từ chủ trương ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hòa bình, an ninh và giải trừ quân bị, Việt Nam tích cực tham gia vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng như giải quyết hậu quả xung đột vũ trang và chiến tranh. Việt Nam đã cùng các nước Đông Nam Á khác ký Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Việt Nam kêu gọi các nước sở hữu vũ khí hạt nhân tham gia Nghị định thư của Hiệp ước này để Đông Nam Á mãi mãi là khu vực không có vũ khí hạt nhân. Phù hợp với chủ trương nhất quán là ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về giải trừ quân bị, Việt Nam hoan nghênh những sáng kiến nhằm ngăn chặn việc phát triển, sản xuất, tàng trữ, và sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Đồng thời, Việt Nam cho rằng các quốc gia có quyền nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ hạt nhân, hoá học và sinh học vì mục đích hoà bình theo các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam đã tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh nhiều công ước, hiệp định, nghị định thư về cấm phổ biến các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt và các công ước quốc tế về giải trừ quân bị khác. Việt Nam cũng đang nghiêm chỉnh xem xét các điều ước, công ước quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi tham gia.

Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Để nâng cao hiệu quả hợp tác trên lĩnh vực này, Việt Nam chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác cả song phương và đa phương như trao đổi thông tin, kinh nghiệm, lập c ơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước để phòng ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đang chuẩn bị về nhân sự và trang bị kỹ thuật để có thể tham gia các hoạt động diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông, trước hết là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.

Việt Nam chú trọng tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN dựa trên các cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Các cơ chế này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc “đồng thuận”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, “không biến Cộng đồng ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”... và các nguyên tắc cơ bản khác của Hiến chương ASEAN. Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham gia Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và các hội nghị quan chức quốc phòng khác, ủng hộ các sáng kiến tăng cường hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN nhằm giải quyết các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm. Trên tinh thần đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác đa phương với các nước ASEAN trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh như tham dự các hội nghị quốc phòng các nước ASEAN ở tất cả các cấp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng quốc phòng, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, chống khủng bố, tham gia các hoạt động nhân đạo trong phòng chống thiên tai, cử quan sát viên tới dự các cuộc diễn tập quân sự của các nước trong khu vực... Năm 2010, với tư cách là chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các n ước thành viên khác tổ chức thành công các hội nghị và hoạt động nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng giữa các nước trong Hiệp hội. Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng ủng hộ và tham gia tích cực vào nỗ lực mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng - an ninh với các đối tác bên ngoài ASEAN nhằm góp phần duy trì hoà bình, ổn định ở khu vực và trên toàn thế giới.
 

KhuongDuy

Xe điện
Biển số
OF-49857
Ngày cấp bằng
31/10/09
Số km
2,368
Động cơ
480,130 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà em không có
PHẦN THỨ HAI

XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG

Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, bao gồm tổng thể các hoạt động về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hoá, khoa học… của nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.

Nền quốc phòng toàn dân là sự cụ thể hoá chính sách quốc phòng của Việt Nam, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, hoạt động của các ngành, các cấp và của toàn dân theo một ý định, chiến lược thống nhất, nhằm tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc. Mục đích của nền quốc phòng toàn dân là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia tr ên mọi lĩnh vực, bảo vệ chế độ, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp đổi mới đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan gây bạo loạn, xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược, giữ vững môi trường hoà bình ổn định để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đồng thời sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược. Mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới là nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh quốc phòng của đất nước, ngăn ngừa và sẵn sàng đánh thắng các loại hình chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi hoàn cảnh. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng và cơ chế lãnh đạo, quản lý quốc phòng.

1. XÂY DỰNG TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG
Tiềm lực quốc phòng bao gồm: tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ và tiềm lực quân sự.

1.1. Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần
Tiềm lực chính trị - tinh thần là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất con người, trong truyền thống lịch sử - văn hoá dân tộc và trong hệ thống chính trị. Đây là khả năng tiềm tàng về chính trị tinh thần có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tiềm lực này biểu hiện ở nhận thức, ý chí, niềm tin, tâm lý, tình cảm của nhân dân và lực lượng vũ trang trước nhiệm vụ quốc phòng của đất nước.

Tiềm lực chính trị - tinh thần của quốc phòng Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình xây dựng lâu dài dưới sự lãnh đạo của ************* Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự tiếp nối truyền thống dựng nước, giữ nước của cả dân tộc trong hàng nghìn năm lịch sử.

Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần trước hết là xây dựng lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chế độ, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân là yếu tố có tính quyết định trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần. Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần đòi hỏi phải tiến hành giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành. Việt Nam đã xây dựng được hệ thống giáo trình giáo dục quốc phòng cho tất cả các đối tượng. Tiềm lực chính trị - tinh thần được xây dựng trong quá trình củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, trong thực hiện nghiêm chỉnh chính sách tự do tôn giáo và bình đẳng giữa các dân tộc của Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Là một quốc gia có 54 dân tộc anh em, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc. Các dân tộc Việt Nam có quyền bình đẳng trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, xoá đói giảm nghèo để từng bước giảm bớt, tiến tới xoá bỏ chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền. Tiềm lực chính trị - tinh thần cũng được xây dựng thông qua thực hiện dân chủ rộng rãi theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, triệt để đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1.2. Xây dựng tiềm lực kinh tế
Tiềm lực kinh tế là khả năng tiềm tàng về kinh tế (bao gồm cả kinh tế quân sự) có thể huy động để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng hoặc tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác, thể hiện ở khối lượng, năng xuất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất xã hội, ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, nguồn dự trữ tài nguyên, chất lượng, trình độ lực lượng lao động… Trong lĩnh vực quốc phòng, tiềm lực kinh tế được biểu hiện ở các mặt chủ yếu như khối lượng nhân lực, vật lực, tài lực của nền kinh tế có thể động viên cho việc xử lý các tình huống trong cả thời bình và thời chiến. Tiềm lực kinh tế còn thể hiện ở tính cơ động và sức sống của nền kinh tế, khả năng bảo đảm an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và thử thách ác liệt của chiến tranh.

Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc ph òng toàn dân của đất nước được thực hiện thông qua kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc; phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) theo quy hoạch, kế hoạch đã xác định; xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế tại các hướng chiến lược trọng điểm.

Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam liên tục đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước tăng đáng kể, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo h ướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết cấu hạ tầng phát triển. Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới và đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang được cải thiện; trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động của các thành phần kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể. Việt Nam đang nỗ lực hết sức mình để đạt được mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nhờ sự phát triển kinh tế những năm qua, việc xây dựng tiềm lực kinh tế cho nền quốc phòng toàn dân đã đạt những kết quả quan trọng. Việt Nam đã có lượng dự trữ hậu cần đáp ứng yêu cầu đối phó với mọi tình huống khẩn cấp; hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hoàn chỉnh và hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động quốc phòng. Mặc dù nền kinh tế còn có nhiều khó khăn trong quá trình phát triển, lại chịu tác động của suy thoái kinh tế to àn cầu nhưng Nhà nước Việt Nam đã dành một phần cần thiết ngân sách quốc gia cho các nhu cầu quốc phòng nói chung và đảm bảo trang bị, vũ khí cho lực lượng vũ trang nói riêng.
Bảng 1: Ngân sách quốc phòng Việt Nam
Đơn vị tính: Tỷ đồng

Năm 2005/Năm 2006/Năm 2007/Năm 2008
GDP: 839.211 / 973.791 /1.143.442/ 1.490.000
Ngân sách quốc phòng: 16.278 / 20.577 /28.922 /27.024
Tỷ trọng theo GDP: 1,872% /2,194% /2,529% /1,813%

Ngân sách nêu trên chủ yếu để bảo đảm mức sống của đội ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ v à công nhân viên quốc phòng, bảo đảm hoạt động của công nghiệp quốc phòng, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Xây dựng tiềm lực kinh tế phục vụ quốc phòng còn là đầu tư thích đáng cho công nghiệp quốc phòng. Nền công nghiệp quốc phòng phải thực sự là bộ phận công nghiệp quốc gia do Bộ Quốc phòng quản lý. Công cuộc đổi mới nâng cao năng lực công nghiệp quốc phòng được tiến hành theo hướng lưỡng dụng hoá, bảo đảm sửa chữa, sản xuất, cải tiến, nâng cấp vũ khí, trang bị theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển mới của lực lượng vũ trang nhân dân trên các vùng chiến lược; chú trọng phát huy năng lực quốc phòng của các địa phương.

1.3. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ
Tiềm lực khoa học và công nghệ là khả năng tiềm tàng về khoa học và công nghệ (cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ...) có thể huy động nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của xã hội và xử lý các tình huống quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Tiềm lực khoa học và công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm lực quốc phòng. Tiềm lực đó được biểu hiện ở trình độ và khả năng phát triển khoa học; số lượng và chất lượng các nhà khoa học; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng khoa học và công nghệ vào lĩnh vực quốc phòng. Tiềm lực khoa học và công nghệ tác động trực tiếp đến sự phát triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, công tác chỉ huy và quản lý bộ đội…

Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của nền quốc phòng toàn dân gắn bó chặt chẽ với sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước. Nhà nước Việt Nam coi đầu tư phát triển khoa học - công nghệ là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm nền tảng vững chắc cho tiềm lực khoa học và công nghệ của nền quốc phòng toàn dân... Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu - phát triển khoa học - công nghệ đồng thời có chính sách phát triển và ưu đãi đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ. Nhà nước cũng đã đề ra các biện pháp gắn khoa học - công nghệ với sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền tác giả, từng bước tạo lập thị trường công nghệ; mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu những công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tuy còn những khó khăn hạn chế, nhưng tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước đang từng bước được tăng cường, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh của Việt Nam.
Trong những năm qua, khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật quân sự Việt Nam được quan tâm phát triển, tập trung nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và chiến thuật để đối phó có hiệu quả với chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Việt Nam chú trọng kế thừa và phát huy nghệ thuật chiến tranh nhân dân cả trong nghệ thuật tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật... đáp ứng các điều kiện chiến tranh hiện đại, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của con người và vũ khí trong chống chiến tranh xâm lược. Khoa học - kỹ thuật quân sự Việt Nam phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu trước mắt về trang bị vũ khí của lực lượng vũ trang nhân dân đồng thời từng bước nghiên cứu phát triển các giải pháp công nghệ, các loại khí t ài mới đáp ứng yêu cầu chiến tranh trong tương lai. Nhà nước Việt Nam đang hoàn thiện cơ chế thu hút, sử dụng nhân tài, phát huy mọi tiềm lực khoa học cả trong và ngoài nước cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

1.4. Xây dựng tiềm lực quân sự
Tiềm lực quân sự là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong cả thời bình và thời chiến. Tiềm lực quân sự là nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên nền tảng của tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học và công nghệ. Tiềm lực quân sự không chỉ thể hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang mà còn biểu hiện ở nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự.

Nhà nước Việt Nam xây dựng tiềm lực quân sự theo kế hoạch chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Năng lực chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang thể hiện ở tổ chức, biên chế, trang bị, cơ sở bảo đảm hậu cần, nghệ thuật quân sự và khoa học - kỹ thuật thường xuyên được quan tâm duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển, đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc .

Tiềm lực quân sự bao gồm cả hai yếu tố cơ bản là con người và vũ khí, trang bị trong đó con người là yếu tố quyết định. Việt Nam có tiềm lực quân sự mạnh một phần nhờ nguồn nhân lực trẻ dồi dào. Nhà nước Việt Nam quan tâm xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XII đã xác định rõ tiêu chuẩn chung của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội; có trình độ chính trị, khoa học quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Luật cũng đã điều chỉnh kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan nhằm tiết kiệm nhân lực trong đào tạo, sử dụng, phát huy những kiến thức, kinh nghiệm của sĩ quan, nhất l à sĩ quan chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học có trình độ cao mà vẫn giữ được tính đặc thù của lao động quân sự. Luật cũng điều chỉnh chính sách đối với sĩ quan, xác định quân đội là “ngành lao động đặc biệt” làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI đã giảm thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự từ 24 tháng xuống 18 tháng. Quy định này tạo khả năng tăng số lượt thanh niên tham gia quân đội. Các thanh niên sau khi phục vụ quân đội sẽ là lực lượng dự bị hùng hậu, sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần.
Tiềm lực quân sự còn thể hiện ở khả năng động viên công nghiệp, nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ công cộng khác để đáp ứng yêu cầu quốc phòng. Xây dựng tiềm lực quân sự được gắn chặt với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá tư tưởng... là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Nhà nước Việt Nam chủ trương gắn việc xây dựng tiềm lực quân sự với việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, coi đó là yêu cầu tất yếu trong xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm khả năng huy động tạo thành sức mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

2. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG QUỐC PHÒNG
Nền quốc phòng Việt Nam dựa vào sức mạnh toàn diện của các nguồn lực nên lực lượng quốc phòng bao gồm lực lượng của toàn dân với lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.

Xây dựng lực lượng quốc phòng trước hết phải xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, trong đó trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp. Hệ thống chính trị là hạt nhân của lực lượng quốc phòng, có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Trong hệ thống chính trị, việc xây dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng có ý nghĩa rất quan trọng để tập hợp, vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, trực tiếp đấu tranh bảo vệ địa phương, cơ quan đơn vị mình, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Việc xây dựng lực lượng quốc phòng phải được thể chế hoá bằng hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng nhằm huy động mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng lực lượng quốc phòng. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng b ước hiện đại thực sự giữ vai trò nòng cốt của lực lượng quốc phòng. Dân quân tự vệ được tổ chức phù hợp với các thành phần kinh tế, vừa rộng khắp vừa có trọng điểm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong cả thời bình và thời chiến.

3. XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG
Thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi mưu toan và hoạt động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân nếu chiến tranh xảy ra.
Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn với quy hoạch của quốc gia và từng địa phương theo hướng kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh. Cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí hệ thống các côn g trình kinh tế, kỹ thuật có quan hệ rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải được kết hợp ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng bảo đảm thế liên hoàn, vững chắc, kết hợp thế trận tại chỗ với thế cơ động, thế trận rộng khắp với xây dựng thế trận có trọng điểm, tập trung cho hướng, khu vực, mục tiêu chủ yếu, địa bàn chiến lược. Nhà nước có chính sách phân bố lại lao động, xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển đảo, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với tăng cường lực lượng, tiềm lực và thế trận quốc phòng ở các khu vực xung yếu.

Trên cơ sở điều chỉnh thế bố trí chiến lược của nền kinh tế trên phạm vi cả nước, Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng các tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, bảo đảm trong thời bình có khả năng tự lực giải quyết những tình huống khẩn cấp ở địa phương mình; khi xảy ra chiến tranh thì chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và đẩy quân địch vào thế bị động, sa lầy, tạo thời cơ và phối hợp chặt chẽ với các binh đoàn chủ lực tiêu diệt địch. Việc xây dựng cơ sở thôn, bản, xã, phường, các vùng biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng yếu vững mạnh toàn diện được đặc biệt coi trọng.

Cùng với xây dựng khu vực phòng thủ, thế bố trí của các lực lượng vũ trang điều chỉnh trên từng hướng chiến lược và trên phạm vi cả nước, hình thành thế trận vững chắc và có tính cơ động cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi xử lý các tình huống. Các lực lượng bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương được bố trí hợp lý, kết hợp chặt chẽ với xây dựng hệ thống phòng thủ tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, hiểm hóc của thế trận quân sự trên các khu vực trọng điểm, bảo đảm khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang cả trên bộ, trên không, trên biển, đảo.

Hậu phương chiến lược, căn cứ hậu phương chiến lược, căn cứ hậu cần kỹ thuật của từng vùng, từng hướng được xây dựng nhằm bảo đảm hoạt động cho nhân dân và lực lượng vũ trang trong điều kiện chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao... trong đó khả năng độc lập, tự lực được quan tâm đúng mức. Thế trận quốc phòng được thực hiện thông qua triển khai các kế hoạch chiến lược như kế hoạch chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến; kế hoạch bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị; bảo vệ vùng trời; bảo vệ biên giới quốc gia.
Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng trong mối liên hệ chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân của Việt Nam tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, phát huy được sức mạnh của các lực lượng, kết hợp được các hình thức hoạt động vũ trang và phi vũ trang, tạo được khả năng cơ động linh hoạt, khả năng độc lập và phối hợp tác chiến. Đây là nội dung quan trọng của xây dựng thế trận quốc phòng, thể hiện trong xây dựng các khu vực phòng thủ. Dựa trên đặc thù của mỗi khu vực phòng thủ, việc bố trí, triển khai lực lượng được tính toán bảo đảm tính hiệu quả cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh ở địa phương, tạo sự hiệp đồng chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh trên mỗi vùng chiến lược và trên phạm vi cả nước.

4. LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ QUỐC PHÒNG

4.1. Vai trò lãnh đạo của ************* Việt Nam đối với Quân đội nhân dân và nền quốc phòng
************* Việt Nam đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến chiến lược bảo vệ Tổ quốc, thông qua các tổ chức Đảng giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong các hoạt động quốc phòng. ************* Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân nhằm xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở.

Hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội gồm có Đảng uỷ Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân uỷ Trung ương) và Đảng bộ quân sự các cấp. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ************* Việt Nam là Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đảng uỷ Quân sự Trung ương còn có Phó Bí thư và các Uỷ viên do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương ************* Việt Nam công tác trong quân đội và một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương ************* Việt Nam công tác ngoài quân đội. Các cấp uỷ đảng từ cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương đến cấp cơ sở do các đại hội đảng cùng cấp bầu. Đảng uỷ Quân sự Trung ương nghiên cứu đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; kế hoạch phòng thủ đất nước; phương hướng và biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cơ chế lãnh đạo của đảng với Quân đội nhân dân. Đảng uỷ Quân sự Trung ương có trách nhiệm phối hợp và hướng dẫn các cấp uỷ trực thuộc Trung ương thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về quân sự, quốc phòng. Đảng uỷ Quân sự Trung ương trực tiếp lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh. Thông qua các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đảng uỷ Quân sự Trung ương thực hiện chế độ quyết định tập thể đối với vấn đề lớn như chủ trương, chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các biện pháp xây dựng quân đội, quyết định các vấn đề về công tác cán bộ trong quân đội. Đảng uỷ Quân sự Trung ương chỉ đạo Tổng cục Chính trị và thông qua Tổng cục Chính trị chỉ đạo các Đảng bộ và hệ thống chính uỷ, chính trị vi ên, cơ quan chính trị các cấp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ khả năng ho àn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Hệ thống cơ quan chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm có Tổng cục Chính trị và các cục, phòng và ban chính trị ở các đơn vị. Tổng cục Chính trị chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và trực tiếp, thường xuyên là của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Căn cứ nghị quyết, chỉ thị của Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đề xuất với Đảng uỷ Quân sự Trung ương các chủ trương, biện pháp, kế hoạch tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cấp trong toàn quân thực hiện. Các cơ quan chính trị trong quân đội tiến hành giáo dục bồi dưỡng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chỉ đạo hướng dẫn xây dựng các đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh; hướng dẫn các đơn vị đấu tranh với các luận điệu chiến tranh tâm lý; phối hợp với các cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể địa phương tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

Chính uỷ, chính trị viên là cán bộ chủ trì về chính trị ở các cấp. Từ cấp đại đội đến cấp tiểu đo àn và tương đương có chính trị viên. Từ cấp trung đoàn đến cấp quân khu và tương đương có chính uỷ. Chính uỷ, chính trị viên chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp uỷ cấp mình về toàn bộ các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị; có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức tiến hành các nội dung công tác đảng, công tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ đồng thời tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác của đơn vị.

4.2. Quản lý nhà nước về quốc phòng
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về quốc phòng gồm ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng; ký kết các điều ước quốc tế về hợp tác quốc phòng, xây dựng quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc.

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành các đạo luật liên quan đến chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang... Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với to àn bộ hoạt động quốc phòng của Nhà nước. Trong thời gian từ năm 2005 đến nay, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật liên quan đến quốc phòng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quốc phòng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật An ninh Quốc gia, Luật Công an nhân dân , Luật Biên giới quốc gia... Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua nhiều pháp lệnh về quốc phòng như Pháp lệnh Cảnh sát biển, Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Tình báo, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, Pháp lệnh Động viên quốc phòng, Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng...

Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân. Chủ tịch nước công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; công bố và ban hành các đạo luật, pháp lệnh về quốc phòng khác; quyết định phong hàm cấp thượng tướng, đại tướng cho sĩ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân.

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành các nghị định, nghị quyết để cụ thể hoá việc thực hiện các luật, pháp lệnh về quốc phòng. Chính phủ cũng ban hành các chính sách về củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội, lập quy hoạch, kế hoạch động vi ên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc. Theo phân cấp, các bộ ngành tiến hành giáo dục quốc phòng, hợp tác quốc tế trong một số lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất cho lực lượng vũ trang và thực hiện các chính sách hậu phương quân đội, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng... Từ năm 2004 đến nay, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quốc phòng. Chính phủ đã thể chế hóa trách nhiệm của các ngành các cấp và các tầng lớp nhân dân trong công tác xây dựng các tỉnh (thành phố) thành các khu vực phòng thủ vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh làm cơ sở vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân. Thủ tướng Chính phủ quyết định phong hàm cấp thiếu tướng, trung tướng cho sĩ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc ph òng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ tr ưởng Bộ Quốc phòng vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ. Bộ Quốc phòng có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục và các đơn vị trực thuộc khác. Bộ Quốc phòng quyết định phong hàm cấp tá, cấp úy cho sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bộ Tổng tham mưu là cơ quan chỉ huy, điều hành Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ và thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng. Bộ Tổng tham mưu tổ chức, chỉ đạo sự phát triển của quân đội và dân quân tự vệ đồng thời chỉ huy các hoạt động quân sự. Bộ Tổng tham mưu có Tổng Tham mưu trưởng, các Phó Tổng tham mưu trưởng, các cục chức năng về tác chiến, huấn luyện, quân lực, dân quân tự vệ, nhà trường quân đội... Tổng Tham mưu trưởng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng là người thay thế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điều hành các hoạt động của Bộ Quốc phòng khi Bộ trưởng vắng mặt. Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu xây dựng chiến lược quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch phòng thủ đất nước, chủ trì phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, các c ơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện các quy định pháp luật về quốc phòng, kiểm tra đôn đốc các đơn vị quân đội chấp hành pháp luật của Nhà nước, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tổng cục Chính trị là cơ quan chỉ đạo và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội . Tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm, các cục chức năng chịu trách nhiệm về công tác cán bộ, tuy ên huấn, tổ chức đảng, công tác dân vận, an ninh quân đội... Tổng cục Chính trị là cơ quan quản lý hành chính đối với hệ thống toà án quân sự, viện kiểm sát quân sự các cấp.

Các cơ quan chức năng cấp tổng cục của Bộ Quốc phòng gồm Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Tổng cục Tình báo quốc phòng. Các tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm (riêng Tổng cục Tình báo quốc phòng có Tổng cục trưởng và các Phó Tổng cục trưởng); Chính uỷ và Phó Chính uỷ; cơ quan Tham mưu, cục Chính trị, các cơ quan và đơn vị trực thuộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.

Tổng cục Hậu cần là cơ quan đầu ngành về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam; có chức năng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm vật chất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm quân y, bảo đảm vận tải... cho Quân đội. Tổ chức hiện nay gồm: Văn phòng Tổng cục Hậu cần, Bộ Tham mưu Hậu cần, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, các cục chuyên ngành (Quân nhu, Quân y, Doanh trại, Xăng dầu, Vận tải...) và một số cơ quan, cơ sở, đơn vị trực thuộc khác.

Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan đầu ngành kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam có chức năng tham mưu, bảo đảm kỹ thuật cho quân đội, có các cục chức năng chịu trách nhiệm về bảo đảm kỹ thuật cho các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng. Tổng cục còn có các cơ quan, đơn vị, học viện, trường kỹ thuật chuyên ngành, các nhà máy, xí nghiệp sửa chữa vũ khí và các đơn vị trực thuộc khác.
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng chịu trách nhiệm sản xuất vũ khí, trang bị quân dụng cho quân đội và dân quân tự vệ. có các cục chức năng, các nhà máy sản xuất vũ khí, khí tài, các trường dạy nghề, các đơn vị trực thuộc.

Tổng cục Tình báo quốc phòng là cơ quan tình báo chuyên trách chiến lược của Đảng, Nhà nước Việt Nam; cơ quan tình báo chuyên trách quân sự của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng. Tổng cục Tình báo Quốc phòng là lực lượng trực tiếp thực hiện công tác tình báo ở cấp chiến lược; là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về tổ chức lực lượng và hoạt động tình báo, đồng thời là cơ quan đầu ngành trực tiếp chỉ đạo nghiệp vụ tình báo đối với hệ thống quân báo – trinh sát toàn quân.

Cục Cảnh sát biển trực thuộc Bộ Quốc ph òng là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn, bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Nhà nước Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Việt Nam có 4 vùng Cảnh sát biển. Cảnh sát biển được trang bị các loại tàu, thuyền đáp ứng các yêu cầu quản lý việc chấp hành pháp luật liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán ở các khu vực biển Việt Nam. Mọi hoạt động của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam do Bộ Quốc phòng trực tiếp tổ chức, quản lý và điều hành.

Cục Cứu hộ, Cứu nạn thuộc Bộ Quốc phòng làm nhiệm vụ của cơ quan thường trực của Uỷ ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn, chịu trách nhiệm điều phối các lực lượng cả trong và ngoài quân đội trong công tác cứu hộ, cứu nạn, giảm nhẹ thiên tai và khắc phục hậu quả các thảm hoạ.

Cục Đối ngoại trực thuộc Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý nhà nước về đối ngoại quốc phòng của quân đội, thực hiện chức năng tham mưu cho Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về chủ trương, phương hướng và biện pháp công tác đối ngoại quân sự; hướng dẫn và quản lý các hoạt động đối ngoại quốc phòng; lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động đối ngoại quân sự trong các lĩnh vực được phân công; là đại diện của Bộ Quốc phòng trong quan hệ với Tuỳ viên quốc phòng các nước, các đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế v à khu vực tại Việt Nam.

Tham mưu, giúp việc cho Bộ Quốc phòng có Văn phòng Bộ Quốc phòng đồng thời là Văn phòng Đảng ủy Quân sự Trung ương và các cơ quan chức năng khác.

4.3. Phương hướng tăng cường lãnh đạo, quản lý về quốc phòng
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng là nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cơ cấu tổ chức Đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng được xây dựng thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến các địa phương, nhất là cấp quân khu và cơ sở. Các nội dung lãnh đạo của Đảng về quốc phòng tiếp tục được bổ sung. Cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, từng ngành, từng địa phương trong các hoạt động liên quan đến quốc phòng, đặc biệt khi xử lý các tình huống phức tạp được quy định ngày càng rõ ràng và hoàn thiện.

Cải cách hành chính nhằm làm cho bộ máy nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng hoạt động ngày càng hiệu quả là công tác có tầm quan trọng đặc biệt. Mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước về quốc phòng thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả với 3 nội dung chủ yếu là cải cách thể chế của nền hành chính; chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

Cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước về quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được điều chỉnh trên cơ sở xác định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách quốc phòng ở các bộ, ngành. Nhiệm vụ quốc phòng của các cơ quan, ban, ngành các cấp được thể chế hoá bằng pháp luật nhằm phát huy cao nhất quyền lực quản lý nhà nước về quốc phòng. Sự phân cấp quản lý nhà nước về quốc phòng giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá.
Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính về quốc phòng là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong bảo vệ Tổ quốc, trong thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi trên lĩnh vực quốc phòng. Các thủ tục hành chính trên lĩnh vực quản lý nhà nước về quốc phòng tiếp tục được cải cách đồng thời với xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng trong sạch, có năng lực.

Cán bộ chuyên trách tại các cơ quan chức năng được tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức thực hiện xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Quy chế quan hệ, phối hợp, hiệp đồng giữa các ban, ngành, các cấp hoạt động liên quan đến quốc phòng cần được xây dựng, hoàn thiện để phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống chính sách trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân được nghiên cứu bổ sung, ban hành điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của tình hìnhmới để mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhiệm vụ quốc phòng.
 

KhuongDuy

Xe điện
Biển số
OF-49857
Ngày cấp bằng
31/10/09
Số km
2,368
Động cơ
480,130 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà em không có
PHẦN THỨ BA

XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


DÂN QUÂN TỰ VỆ

1. TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VÀ DÂN QUÂN TỰ VỆ

Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ là các thành phần chủ yếu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đồng thời tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

1.1. Quân đội nhân dân
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”.

Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm v à nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam s au này. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn, từ khi đất nước giành được độc lập đến tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi t ên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 05 năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc đị a của thực dân Pháp.

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.

Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam lại cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủng do Pônpốt cầm đầu ở Căm-pu-chia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Căm-pu-chia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pôn -pốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Căm-pu-chia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Căm-pu-chia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pôn -pốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.
Bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh biên chế, tổ chức, cắt giảm gần hai phần ba quân số . Các thế hệ sĩ quan, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, một đội quân sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn s àng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Thực hiện chức năng là một đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận. Nhiều đ ơn vị quân đội đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa; tham gia công tác c ứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt, bão. Quân đội cũng tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho các tầng lớp nhân dân , phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo cho 100.000 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Là một đội quân sản xuất, các đơn vị trong toàn quân đã tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn sản phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện đáng kể đời sống bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng các yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội đã tham gia nhiều dự án công trình trọng điểm của quốc gia như đường Hồ Chí Minh, đường dây 500 KV Bắc - Nam, dịch vụ dầu khí và nhiều công trình thuỷ điện lớn như Sông Đà, Drây H"ling.

Hiện có 98 doanh nghiệp quân đội đang tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế như dịch vụ bay, dịch vụ cảng biển, viễn thông, công nghiệp đóng t àu... Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp này ngày một tăng.

Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450 000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người.
Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.

1.1.1. Lục quân
Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị; sự chỉ đạo chuyên ngành của các tổng cục và cơ quan chức năng khác. Khi mới thành lập, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có lục quân với bộ binh là chính. Sau 65 năm xây dựng, Lục quân đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức v à lực lượng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Lục quân có 07 quân khu (1, 2, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 06 binh chủng gồm Pháo binh, Tăng - Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Hoá học, Đặc công; 04 quân đoàn (1, 2, 3, 4). Các quân khu, quân đoàn, binh ch ủng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược và theo địa bàn. Quân khu có các sư đoàn và trung đoàn chủ lực trực thuộc. Quân khu chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Quân đoàn là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, được bố trí để bảo vệ các địa b àn chiến lược trọng yếu của quốc gia, Quân đoàn có các sư đoàn và các đơn vị trực thuộc. Các binh chủng tham gia tác chiến hợp đồng quân binh chủng theo phân công đồng th ời thực hiện chức năng bảo đảm kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật theo các chuyên ngành cho toàn quân. Các binh chủng có các đơn vị chiến đấu trực thuộc, các trường sĩ quan và trường kỹ thuật theo chuyên ngành. Lục quân Việt Nam được trang bị theo hướng hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến trong các điều kiện địa hình, thời tiết, khí hậu, phù hợp với nghệ thuật chiến tranh nhân dân hiện đại. Trải qua thử thách trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Lục quân đã từng bước trưởng thành, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và tạo nên truyền thống vẻ vang. Tất cả các quân đoàn, hầu hết các binh chủng và nhiều đơn vị của Lục quân đã được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

1.1.2. Quân chủng Phòng không - Không quân
Quân chủng Phòng không - Không quân đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân. Quân chủng là lực lượng nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân đồng thời tham gia bảo vệ các v ùng biển đảo của Tổ quốc. Lực lượng Phòng không - Không quân có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ hoặc tham gia tác chiến trong đội hình quân binh chủng hợp thành. Quân chủng làm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng lực lượng phòng không lục quân và không quân thuộc các quân chủng, binh chủng, ngành khác. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu v à sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.
Quân chủng Phòng không - Không quân được tổ chức thành Bộ tư lệnh Quân chủng, các đơn vị chiến đấu; khối bảo đảm; khối nhà trường và các đơn vị kinh tế. Bộ Tư lệnh quân chủng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Quân chủng có các sư đoàn không quân, sư đoàn phòng không và một số đơn vị không quân trực thuộc là các đơn vị chiến đấu chủ yếu. Quân chủng Phòng không - Không quân từng bước được trang bị các loại máy bay, tên lửa, pháo phòng không và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác trong đó có máy bay tiêm kích đa năng, tên lửa phòng không tầm xa, rađa thế hệ mới… Quân chủng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đồng thời quản lý vùng trời của Tổ quốc và tham gia tìm kiếm cứu nạn, giảm nhẹ thiên tai.

Trong cuộc chiến tranh giải phóng, lực lượng phòng không - không quân đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ ra miền Bắc, bảo vệ giao thông vận tải chi viện cho miền Nam, góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc v à giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Do những thành tích trong chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ khác, cả lực l ượng không quân và phòng không đều được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

1.1.3. Quân chủng Hải quân
Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hải quân nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển.

Bộ tư lệnh Hải quân chỉ huy toàn bộ lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. Bộ Tư lệnh có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần. Hải quân nhân dân Việt Nam có 5 vùng Hải quân (1, 2, 3, 4, 5) và các đơn vị trực thuộc.

Lực lượng chủ yếu của Hải quân nhân dân Việt Nam là các đơn vị tàu mặt nước, pháo - tên lửa bờ biển; hải quân đánh bộ; đặc công hải quân và các đơn vị phòng thủ đảo. Hải quân nhân dân Việt Nam đ ã được tăng cường lực lượng và phương tiện để làm tốt nhiệm vụ tìm kiếm và cứu nạn. Trong tương lai, Hải quân nhân dân Việt Nam được tăng cường trang bị vũ khí hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu để có đủ khả năng hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.

Hải quân nhân dân Việt Nam có truyền thống rất vẻ vang, lập công lớn trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ nhất là thành tích chống phong toả đường biển và các nhiệm vụ được giao trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Quân chủng Hải quân được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.
1.1.4. Bộ đội Biên phòng
Bộ đội biên phòng là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, có vị trí như một quân chủng thực hiện chức năng quản lý bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển và các cửa khẩu theo quy định của pháp luật và là lực lượng trong các khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới. Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các ngành, lực lượng hữu quan trên địa bàn và chính quyền địa phương trong quản lý, bảo vệ đường biên quốc gia, mốc giới; duy trì thực hiện các hiệp định, quy chế biên giới và pháp luật về biên giới; phát hiện và đấu tranh với các hoạt động vi phạm và chống phá của các loại tội phạm, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự ở khu vực bi ên giới; thực hiện nhiệm vụ đối ngoại biên phòng, quan hệ với các cơ quan hữu quan các nước láng giềng để giải quyết các vấn đề về quan hệ biên giới nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, góp phần tạo môi trường ổn định, phát triển và phục vụ đắc lực cho chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế.

Bộ đội Biên phòng được tổ chức, chỉ huy thống nhất từ Bộ Tư lệnh đến các đơn vị cơ sở gồm có Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh (thành phố), Hải đoàn Biên phòng và các đồn biên phòng, hải đội biên phòng. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng , công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần, Cục Phòng chống ma tuý và các đơn vị trực thuộc. Bộ đội biên phòng được xây dựng ngày càng vững mạnh, giỏi về nghiệp vụ bi ên phòng, dân vận, nắm vững pháp luật của Việt Nam cũng nh ư pháp luật và các thông lệ quốc tế, được trang bị các phương tiện nghiệp vụ biên phòng cùng vũ khí chiến đấu ngày càng hiện đại để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Được thành lập ngày 03 tháng 3 năm 1959, sau 50 năm xây dựng, trưởng thành và không ngừng phấn đấu, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ biên phòng đã lập nên nhiều chiến công và thành tích vẻ vang. Toàn lực lượng Bộ đội Biên phòng đã được tặng huân chương Sao Vàng và hai lần được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

1.1.5. Bộ đội địa phương
Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến chủ yếu trên địa bàn địa phương, cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân tại địa ph ương, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố) trực thuộc trung ương và Ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Bộ đội địa phương gắn bó chặt chẽ với khu vực phòng thủ, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ chung của quân khu và của cả nước, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm từng khu vực trong chiến tranh nhân dân địa phương kết hợp với chiến tranh nhân dân của cả nước.

Biên chế và thế bố trí của bộ đội địa phương tuỳ thuộc quy mô và tầm quan trọng của các tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Tuỳ theo qui mô tổ chức, điều kiện địa hình, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của từng địa phương, các đơn vị bộ đội địa phương được trang bị vũ khí với số lượng, kiểu loại phù hợp với yêu cầu tác chiến. Bộ đội địa phương có các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật, các đơn vị phòng không, pháo binh, trinh sát, đặc công, công binh và các đơn vị bảo đảm khác.

Ngày nay, việc tổ chức học tập, huấn luyện cho các đơn vị bộ đội địa phương được tiến hành thường xuyên, nhằm nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng phối hợp, hiệp đồng với lực lượng dân quân tự vệ trong chiến đấu, bảo vệ nhân dân và chính quyền địa phương. Lực lượng bộ đội địa phương còn kết hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân tự vệ để giữ gìn trật tự an ninh trong địa bàn, giúp huấn luyện dân quân tự vệ và góp phần hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện lực lượng dự bị động viên.
.1.6. Lực lượng dự bị động viên
Lực lượng dự bị động viên là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, sẵn sàng tham gia lực lượng thường trực khi có yêu cầu. Lực lượng dự bị động viên bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đ ã được lựa chọn và sắp xếp trong kế hoạch sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội. Lực l ượng dự bị động viên được tổ chức theo biên chế thống nhất của quân đội với thành phần tương ứng với lực lượng thường trực của các quân chủng, binh chủng thuộc lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.

Hàng năm, Chính phủ giao chỉ tiêu huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên cho các bộ, ngành và địa phương. Bộ Quốc phòng hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra đôn đốc các địa phương, đơn vị trong việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên theo đúng quy định của pháp luật; trực tiếp chỉ đạo việc sắp xếp huấn luyện các đơn vị dự bị động viên. Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với các đơn vị thuộc lực lượng thường trực của Quân đội, tổ chức sắp xếp quân nhân dự bị v à phương tiện kỹ thuật vào đơn vị dự bị theo chỉ tiêu động viên được Chính phủ giao.

Quân nhân dự bị được tạo nguồn từ quân nhân hết hạn phục vụ tại ngũ hoặc đào tạo từ các ngành dân sự theo quy định của pháp luật. Hàng năm các đơn vị dự bị động viên được tập trung kiểm tra sẵn s àng động viên, huấn luyện, diễn tập theo chương trình huấn luyện thống nhất. Quân nhân dự bị được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy đơn vị dự bị động viên và được hưởng phụ cấp theo quy định.

Đến nay, lực lượng dự bị động viên đã trở thành lực lượng quan trọng góp phần xây dựng nền quốc ph òng toàn dân, củng cố sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.

1.1.7. Các học viện, nhà trường và viện nghiên cứu chủ yếu
Quân đội nhân dân Việt Nam có hệ thống học viện và nhà trường hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên kỹ thuật ở mọi cấp cho quân đội, đào tạo cao học và nghiên cứu sinh tiến sỹ quân sự, đào tạo kỹ sư, nhân viên kỹ thuật phục vụ dân sự, đồng thời là những cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật nói chung và khoa học, kỹ thuật quân sự nói riêng. Hiện nay, Việt Nam có 21 học viện, trường đại học và 1 trường cao đẳng quân sự đào tạo sĩ quan cho tất cả các ngành, cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng. Về mặt tổ chức, có 6 Học viện lớn và 3 trường sỹ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng. Các học viện, nhà trường còn lại thuộc quyền quản lý của các tổng cục, quân chủng, binh chủng. Các học viện và trường đại học quân sự được phân cấp theo chức trách, nhiệm vụ đào tạo sĩ quan. Học viện Quốc phòng là cơ sở duy nhất đào tạo sĩ quan cấp chiến lược. Các học viện còn lại đào tạo sĩ quan cấp chiến dịch, chiến thuật. Các trường sĩ quan đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội.

Học viện Quốc phòng là học viện lớn của Nhà nước, Chính phủ giao cho Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Học viện là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước gồm: đào tạo sỹ quan cấp chiến dịch, chiến lược cho quân đội; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ban ngành, đoàn thể ở trung ương và địa phương; đào tạo cao học và nghiên cứu sinh quân sự; hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân sự, dân sự về quốc phòng với một số nước.

Bộ Quốc phòng còn trực tiếp quản lý hai học viện đào tạo sĩ quan chính trị, quân sự trung, cao cấp là Học viện Chính trị và Học viện Lục quân. Học viện Chính trị có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chính trị có trình độ trung, cao cấp về chính trị, là học viện được Bộ Quốc phòng giao quản lý Viện khoa học xã hội và Nhân văn quân sự. Học viện Lục quân trực thuộc Bộ Quốc phòng là học viện quân sự, đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn, sư đoàn lục quân.
Trực thuộc Bộ Quốc phòng còn có các viện nghiên cứu về khoa học - nghệ thuật - kỹ thuật quân sự như Viện Chiến lược Quân sự, Viện Khoa học và Công nghệ quân sự, Viện Lịch sử Quân sự, Viện Quan hệ quốc tế về Quốc phòng...

Viện Chiến lược Quân sự có chức năng tư vấn cho lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam những vấn đề liên quan đến đường lối, chính sách quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang; nghiên cứu, phân tích, dự báo các nguy cơ đối với an ninh - quốc phòng của Việt Nam; các vấn đề tư tưởng, đường lối, học thuyết quân sự; nghệ thuật quân sự, ph ương thức tiến hành chiến tranh; các vấn đề kinh tế - quốc phòng, đề xuất phương hướng tổ chức, xây dựng các lực lượng vũ trang, hệ thống lãnh đạo, chỉ huy và các biện pháp bảo vệ Tổ quốc.

Viện Khoa học và Công nghệ quân sự là cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự; nghiên cứu phát triển các trang thiết bị vũ khí của quân đội đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh hiện đại đồng thời nghiên cứu khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ dân sinh.

Viện Lịch sử Quân sự là cơ quan nghiên cứu lịch sử đầu ngành của quân đội, có nhiệm vụ nghi ên cứu lịch sử quân sự Việt Nam và thế giới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như trong tương lai.

Viện Quan hệ quốc tế về Quốc phòng là cơ quan nghiên cứu các vấn đề quan hệ quốc phòng của các nước đồng thời là cơ quan có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức các hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của Bộ Quốc phòng.

1.1.8. Các đơn vị Kinh tế - Quốc phòng chủ yếu
Các đơn vị kinh tế của quân đội là lực lượng đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng. Các công ty, xí nghiệp trong đó có nhiều tổng công ty lớn, các đoàn Kinh tế - Quốc phòng của quân đội đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời có mặt ở những khu vực khó khăn nhất để phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tạo thế trận quốc phòng vững chắc tại các địa bàn trọng yếu của Tổ quốc.

Quân đội có hơn 20 đoàn Kinh tế - Quốc phòng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm quốc phòng an ninh ở biên giới, hải đảo. Các đoàn Kinh tế - Quốc phòng tham gia bố trí lại dân cư theo quy hoạch sản xuất và mục tiêu lâu dài của quốc phòng - an ninh, hình thành các cụm làng xã tại các khu vực biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ của các đoàn Kinh tế - Quốc phòng là xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như: đường, điện, thủy lợi, nước sạch, trường học, trạm xá, chợ...; thực hiện các biện pháp khuyến khích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tạo yếu tố bước đầu cho phát triển kinh tế h àng hoá; thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các khu vực được phân công.

Ở nơi có điều kiện sản xuất lớn mà nhân dân không đủ khả năng tự đầu tư sản xuất hàng hoá (như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc) quân đội trực t iếp tổ chức sản xuất để thu hút đồng bào dân tộc và nhân dân nơi khác đến lập nghiệp và tham gia vào tổ chức kinh tế của Nhà nước.

Đi đôi với nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, các đoàn Kinh tế - Quốc phòng cũng góp phần đáng kể cải thiện đời sống văn hoá tinh thần ở các vùng đất xa xôi của Tổ quốc. Các đoàn Kinh tế - Quốc phòng đã vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát triển hệ thống phát thanh truyền hình, văn hoá, y tế ở các thôn bản; mở trường học cho con em đồng bào các dân tộc, tham gia chương trình phổ cập tiểu học và xoá mù chữ; nâng cao điều kiện chăm sóc y tế, chữa bệnh cho nhân dân; bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số. Các đoàn Kinh tế - Quốc phòng cũng đã góp phần bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho địa phương, tạo điều kiện để kinh tế - xã hội trên địa bàn phát triển vững chắc.
Từ khi được thành lập đến nay, các đoàn Kinh tế - Quốc phòng đã thực hiện di dân, xây dựng hàng trăm cụm bản, làng mới; đỡ đầu, tổ chức định canh, định cư cho hàng chục nghìn hộ dân, tạo việc làm cho lao động là đồng bào dân tộc thiểu số. Các đoàn Kinh tế - Quốc phòng đã giúp dân khai hoang, cải tạo đồng ruộng trồng lúa n ước, góp phần thay đổi tập quán canh tác, nếp sống sinh hoạt lạc hậu, xây dựng, củng cố được thế trận quốc phòng - an ninh trên các địa bàn trọng điểm.

1.2. Dân quân tự vệ
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một thành phần của Lực lượng Vũ trang nhân dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của ************* Việt Nam, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của ủy ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương, có trách nhiệm bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cấp xã, cơ quan, tổ chức.

Trong thời bình, Dân quân tự vệ là lực lượng nòng cốt có nhiệm vụ vừa lao động sản xuất, vừa đóng vai trò xung kích trong bảo vệ sản xuất, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các sự cố nghiêm trọng khác, đồng thời phối hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện góp phần xây dựng khu vực phòng thủ địa phương ngày càng vững chắc. Ở biên giới, biển, đảo, Dân quân tự vệ phối hợp với Bộ đội Biên phòng giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh biên giới của Tổ quốc. Trong thời chiến, Dân quân tự vệ là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh gi ặc, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phối hợp với các lực lượng khác bảo vệ địa phương, đơn vị theo kế hoạch tác chiến của khu vực phòng thủ. Dân quân tự vệ có trách nhiệm thực hiện phòng thủ dân sự trong thời bình và thời chiến theo qui định của pháp luật.

Lực lượng Dân quân được tổ chức ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Lực lượng Tự vệ được tổ chức ở các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (gọi chung là cơ quan, tổ chức). Dân quân tự vệ có lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi. Lực lượng nòng cốt gồm dân quân tự vệ bộ binh, phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin, phòng hoá, y tế, Dân quân tự vệ biển; Dân quân tự vệ cơ động, tại chỗ và thường trực được tổ chức thành các trung đội, đại đội hoặc tiểu đoàn, được trang bị vũ khí thích hợp.

Dân quân tự vệ được giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự theo chương trình do Bộ Quốc phòng quy định. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và chỉ huy cơ quan quân sự các cấp chỉ huy lực lượng Dân quân tự vệ theo quy định của Luật Quốc phòng. Hoạt động của Dân quân tự vệ theo kế hoạch của người chỉ huy quân sự cấp xã và ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ, chính quyền cơ sở.

Ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất ra “Nghị quyết về đội tự vệ” được coi là ngày thành lập Dân quân tự vệ Việt Nam. Trong 74 năm qua, lịch sử phát triển của Dân quân tự vệ đ ã gắn liền với sự nghiệp giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm 1935 đến năm 1945, các đội tự vệ ở cả nông thôn và thành thị ra đời, làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa. Tháng 8 năm 1945, lực lượng Dân quân tự vệ đã cùng toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành độc lập. Sau ngày 02 tháng 9 năm 1945, Dân quân tự vệ trở thành lực lượng vũ trang của Nhà nước Việt Nam độc lập, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, được tổ chức rộng khắp ở các làng xã, đường phố trong cả nước, thực sự là công cụ bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp , lực lượng Dân quân tự vệ phát triển rộng khắp trong cả nước, đã từng bước được thống nhất về tổ chức, do các x ã đội, huyện đội, tỉnh đội chỉ đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng các cấp. Mặc dù chỉ được trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ, tự tạo lại phải đương đầu với quân đội viễn chinh được trang bị hiện đại, lực lượng Dân quân tự vệ đã cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, kiên cường bám đất, bám dân, tiêu hao quân địch, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội chống địch c àn quét, bao vây. Dân quân tự vệ đã bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện kiềm chế, căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện và góp phần cùng bộ đội chủ lực tiến hành thắng lợi nhiều chiến dịch lớn, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng Dân quân tự vệ miền Bắc có trên 700 phân đội, được trang bị nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại hình thành mạng lưới bắn máy bay địch bay thấp , đã bắn rơi nhiều máy bay địch. Dân quân tự vệ đã độc lập bắn rơi 10% tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc, bắt sống nhiều phi công Mỹ, tiêu diệt hàng chục toán biệt kích, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch. Lực lượng Dân quân tự vệ còn làm tốt công tác phòng không nhân dân ở cơ sở, xây dựng nhiều công trình phòng tránh, khắc phục hậu quả đánh phá của địch, tiến hành rà bom mìn, thủy lôi, chống phong toả bằng đường biển... Đã có 183 triệu lượt người được huy động tham gia đảm bảo giao thông, phục vụ chiến đấu, phòng tránh sơ tán khắc phục hậu quả do địch gây ra, chi viện sức người sức của có hiệu quả cho chiến trường miền Nam.

Lực lượng dân quân du kích ở miền Nam đã anh dũng đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức tác chiến phong phú, sáng tạo trên khắp 3 vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, thực hiện bám trụ kiên cường, tạo thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là cách đánh độc đáo, sáng tạo của chiến tranh du kích Việt Nam buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Trong cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975, lực lượng Dân quân tự vệ cùng bộ đội chủ lực và toàn dân miền Nam tiến công và nổi dậy đồng loạt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, lực lượng Dân quân tự vệ đã làm nòng cốt cho nhân dân ở cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực rà phá bóc gỡ bom mìn địch, giải phóng hàng triệu ha đất canh tác để khôi phục sản xuất. Lực lượng Dân quân tự vệ đã được huy động tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; trực tiếp chiến đấu, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu góp phần quan trọng v ào thắng lợi của các cuộc chiến tranh biên giới.

Ngày nay, lực lượng Dân quân tự vệ được phát triển cả về chất lượng, số lượng, biên chế trang bị. Tổ chức, biên chế tinh gọn hơn nhưng chất lượng tổng hợp của Dân quân tự vệ được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ mới.

Trải qua 74 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm; lao động, học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo v à đã lập nhiều chiến công to lớn; có 366 tập thể và 275 cá nhân thuộc lực lượng Dân quân tự vệ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.

Dân quân tự vệ Việt Nam xứng đáng với lời khen ngợi của Hồ chủ tịch: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”.


2. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VÀ DÂN QUÂN TỰ VỆ

2.1. Xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam chủ trương duy trì Quân đội nhân dân đủ mạnh, quân số hợp lý, huấn luyện đạt chất l ượng cao, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.

2.1.1. Xây dựng về chính trị - tinh thần
Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị - tinh thần là nguyên tắc trong xây dựng quân đội, là cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, thể hiện quan điểm coi yếu tố con ng ười là quyết định thắng, bại trên chiến trường. Xây dựng về chính trị - tinh thần nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của quân đội. Sức mạnh chiến đấu về chính trị - tư tưởng của lực lượng vũ trang Việt Nam còn được thể hiện ở ý chí phấn đấu v ươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật quân sự hiện đại, thể hiện tinh thần dám đánh v à biết thắng.

Việt Nam chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị bảo đảm cho quân đội phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết đánh giặc giữ nước của cha ông và truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải được giáo dục, rèn luyện để có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi nhiệm vụ được giao, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh nhất là trước các luận điệu phá hoại tư tưởng của kẻ địch và các tác động tiêu cực của xã hội; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với chế độ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích quốc gia, góp phần giữ gìn hoà bình khu vực và thế giới. Tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị và các tổ chức quần chúng trong quân đội được xây dựng vững mạnh toàn diện.

Việt Nam chống lại mọi mưu toan “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Lực lượng Vũ trang nhân dân của các thế lực thù địch nhằm tách Lực lượng Vũ trang nhân dân khỏi sự lãnh đạo của ************* Việt Nam.

2.1.2. Tổ chức, biên chế và xây dựng nguồn nhân lực
Trong thời bình, Việt Nam chủ trương tiếp tục giảm quân số thường trực, xây dựng lực lượng dự bị động viên phù hợp đáp ứng các yêu cầu khi có tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh. Lực lượng thường trực của quân đội được giữ ở mức độ hợp lý, tinh gọn, bảo đảm sức chiến đấu. Thực hiện giảm các đầu mối, từng bước chuyển giao một số hoạt động bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức dân sự, cơ cấu lại biên chế lực lượng vũ trang theo hướng ưu tiên cho các đơn vị chiến đấu, các đơn vị đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật là những định hướng cơ bản về tổ chức và biên chế lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ cán bộ, Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; do vậy, xây dựng đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lực lượng vũ trang nhân dân là công tác trọng tâm, có ý nghĩa chiến lược. Mục tiêu giáo dục đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân là đáp ứng các yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sĩ quan và cán bộ chuyên môn kỹ thuật của quân đội phải có bản lĩnh chính trị và ý chí chiến đấu cao, có năng lực chỉ huy bộ đội và tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Họ phải là những con người được giáo dục và rèn luyện toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong, năng lực v à trình độ học vấn. Hệ thống học viện , nhà trường của Quân đội có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật các chuyên ngành khoa học - kỹ thuật quân sự phải được tổ chức theo hướng chuyên sâu, mở rộng liên kết với nhau và với các cơ sở đào tạo của các bộ, ngành khác nâng cao hiệu quả đào tạo, tạo nguồn nhân tài dồi dào được đào tạo chuyên ngành theo yêu cầu của lực lượng vũ trang. Mặt khác, các học viện, nhà trường trong quân đội phải chuẩn bị vốn kiến thức cần thiết về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, pháp luật, kỹ thuật, công nghệ, quản lý... cho đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật để họ dễ dàng hoà nhập vào đời sống dân sự khi không còn phục vụ tại ngũ. Nhà nước thực hiện các chính sách đúng đắn về đào tạo có tác dụng động vi ên khuyến khích, thu hút nhiều thanh niên ưu tú vào các trường đào tạo sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tạo nguồn bổ sung nhân t ài cho lực lượng vũ trang.

2.1.3. Huấn luyện
Trong thời bình, đi đôi với xây dựng về mặt chính trị - tinh thần, huấn luyện quân sự là công việc tất yếu để tăng cường sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Quân đội nhân dân Việt Nam coi trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, phát huy tính năng, hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị hiện có bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời coi trọng việc nâng cao kiến thức về công nghệ quân sự hiện đại; đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện cho phù hợp với qui mô tổ chức, trang bị và điều kiện thực tế của từng thứ quân, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

Đổi mới toàn diện công tác huấn luyện. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện: "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, sát yêu cầu, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động của từng lực lượng, từng đơn vị; phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong huấn luyện phải coi trọng huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ các cấp; diễn tập tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai; chống khủng bố..., bảo đảm cho các đơn vị xử lý tốt các tình huống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Để nâng cao chất lượng tổng hợp, tăng cường sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội, các nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, huấn luyện, đào tạo tiếp tục được đổi mới, phù hợp với điều kiện tác chiến hiện đại. Chú trọng đào tạo liên thông, liên kết trong nước và hội nhập quốc tế. Coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chỉ huy toàn năng, nhân tài quân sự và nhân viên chuyên môn kỹ thuật giỏi. Huấn luyện sát với yêu cầu chiến đấu, kết hợp cách đánh mới với cách đánh truyền thống, tiếp thu có lựa chọn kinh nghiệm của các nước, kết hợp cách đánh du kích với cách đánh chính quy...
2.1.4. Vũ khí, trang bị kỹ thuật, hậu cần
Vũ khí, trang bị kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại. Là một quốc gia đang phát triển, trình độ khoa học, công nghệ còn thấp song Nhà nước Việt Nam chú trọng bảo đảm cho quân đội những loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cần thiết để bảo vệ đất nước. Để bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, ngoài giữ gìn, bảo quản tốt, cải tiến có chọn lọc những vũ khí, trang bị hiện có, Việt Nam đầu tư thích đáng để tự sản xuất một số phương tiện, vũ khí phù hợp với khả năng công nghệ của mình đồng thời mua sắm một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng các yêu cầu tăng cường sức mạnh chiến đấu cho các lực lượng vũ trang nhân dân.

Công nghiệp quốc phòng Việt Nam là bộ phận cấu thành của nền công nghiệp quốc dân, được phát triển theo hướng tự lực là chính, đồng thời hợp tác với công nghiệp quốc phòng các nước bè bạn để tiếp thu công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao trình độ khoa học - công nghệ. Để nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ quân sự và sản xuất của các cơ sở công nghiệp quốc phòng Việt Nam ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu sửa chữa, cải tiến, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, công nghiệp quốc phòng phát triển dựa trên sự liên kết chặt chẽ với các ngành công nghiệp khác, huy động tiềm lực của tất cả thành phần kinh tế trong một chiến lược thống nhất.

Trang bị hậu cần có vai trò trọng yếu trong tác chiến. Việc phát triển trang bị hậu cần được tiến hành theo hướng nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng các mặt hàng phục vụ bộ đội chiến đấu trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Trang bị hậu cần được đầu tư thích đáng để mua sắm, sản xuất, nghiên cứu chế tạo đáp ứng nhu cầu thường xuyên của Quân đội và các tình huống chiến tranh. Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ sản xuất trang bị hậu cần được đẩy mạnh đồng thời với việc tăng c ường bảo quản, quản lý, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả các loại trang bị hậu cần hiện có.

2.1.5. Xây dựng, phát triển nền khoa học quân sự
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giả i phóng, chiến tranh giữ nước trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã để lại nhiều kinh nghiệm, nhiều b ài học được xây dựng thành lý luận quân sự độc đáo của Việt Nam. Các b ài học và kinh nghiệm đó đã được đúc kết thành hệ thống tri thức nhằm tìm ra sức mạnh giữ nước. Một trong những cơ sở tạo nên nguồn sức mạnh đó là tinh thần cố kết dân tộc của Việt Nam. Tinh thần đó được biểu hiện đầy đủ ở lòng yêu nước, ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Khoa học quân sự Việt Nam luôn nhấn mạnh b ài học to lớn và sâu sắc đó. Nhờ vậy, những khả năng của to àn dân, của cả dân tộc đã được khai thác và phát huy đến mức tối đa qua hàng nghìn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.

Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, khoa học quân sự Việt Nam được bổ sung lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời bình. Khoa học quân sự Việt Nam được xây dựng từ cơ sở thực tiễn và lý luận quân sự Việt Nam, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của khoa học quân sự thế giới và áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến những nhân tố mới do tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực quân sự.

Đi đôi với sự phát triển khoa học quân sự, ngành kỹ thuật quân sự cũng đang phát huy truyền thống “chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường” trong nghiên cứu - phát triển và ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong huấn luyện và đào tạo cán bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Hệ thống chỉ huy đã đáp ứng yêu cầu chỉ huy quân đội và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Ngày nay những thành tựu khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt về các phương tiện thông tin - liên lạc phục vụ chỉ huy, kiểm soát, tình báo và tiến hành "chiến tranh thông tin”. Những thách thức lớn của dạng chiến tranh này đòi hỏi hệ thống chỉ huy của Quân đội Nhân dân Việt Nam phải được hiện đại hoá để có thể đáp ứng đ ược yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai. Cải tiến, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin - liên lạc có vai trò quan trọng trong xây dựng sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và của sức mạnh quốc phòng toàn dân.

2.1.6. Mở rộng hợp tác quốc tế về quốc phòng
Mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một định hướng quan trọng trong xây dựng quân đội trong thời gian tới.

Hợp tác huấn luyện, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm và học thuật với các nước khác là lĩnh vực ưu tiên trong công tác đối ngoại quốc phòng của Việt Nam. Việt Nam chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, nhất là trên lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, quân y và các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật quân sự khác. Ngoài việc cử cán bộ đi học, đào tạo ở nước ngoài, một số nhà trường quân đội cũng mở rộng đào tạo cho các nước khác. Từ năm 2007, Học viện Quốc phòng Việt Nam đã mở khoá đào tạo cho các sĩ quan cao cấp nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ giữa các học viện, viện nghiên cứu quốc phòng của Việt Nam với các đối tác nước ngoài, cử sĩ quan tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế... tạo điều kiện trao đổi cởi mở về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới mà các bên quan tâm đồng thời mở ra các cơ hội hợp tác nâng cao chất lượng nghiên cứu các vấn đề mới trong khoa học và nghệ thuật quân sự.

Việt Nam quan tâm hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng để đáp ứng các nhu cầu trang bị, vũ khí của lực lượng vũ trang, nâng cao năng lực của công nghiệp quốc phòng trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về kiểm soát vũ khí. Công nghiệp quốc phòng Việt Nam ưu tiên hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; sản xuất, sửa chữa trang thiết bị quân sự và vũ khí; đào tạo nhân lực...

Để bảo đảm cho quân đội có các loại vũ khí hiện đại cần thiết đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong khi khả năng công nghiệp quốc phòng trong nước chưa thể đáp ứng được, Việt Nam tiếp tục mua vũ khí, trang thiết bị quân sự từ các nước bạn hàng truyền thống, đồng thời quan tâm mở rộng thương mại quốc phòng với các nước khác, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm kỹ thuật cũng như trang thiết bị quân sự và vũ khí cho các lực lượng vũ trang.
2.2. Xây dựng Dân quân tự vệ
Lực lượng dân quân, tự vệ được xây dựng theo hướng "vững mạnh, rộng khắp", có chất lượng tổng hợp cao, trước hết là chất lượng chính trị; có lực lượng cơ động thường trực và lực lượng rộng rãi với số lượng và tỷ lệ phù hợp, có cơ cấu tổ chức hợp lý. Chất lượng huấn luyện, chất lượng đào tạo chỉ huy trưởng quân sự xã (phường, thị trấn) được nâng cao hơn nữa. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương đối với Dân quân tự vệ được tăng cường, bảo đảm cho lực lượng này đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ và là lực lượng chủ yếu, quan trọng bảo vệ cấp ủy, chính quyền, nhân dân ở địa phương, cơ sở.

Quán triệt các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng trong t ình hình mới, Dân quân tự vệ được rà soát, củng cố nâng cao chất lượng, trước hết là chất lượng chính trị. Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ mới trong chiến tranh hiện đại, tổ chức lực lượng Dân quân tự vệ được nghiên cứu xây dựng phù hợp.

Mô hình tổ chức Dân quân tự vệ được đổi mới, phù hợp với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp nhưng có trọng điểm, kết hợp trang bị thô sơ với tương đối hiện đại và hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Công tác huấn luyện Dân quân tự vệ đang được đổi mới cả về nội dung và phương pháp, chú trọng tập huấn, bồi dưỡng cán bộ. Các hội thi, hội thao, diễn tập được tổ chức thường xuyên để nâng cao năng lực công tác, chỉ huy và hoạt động, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ. Việc huấn luyện phối hợp tác chiến giữa Dân quân tự vệ với bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực được coi trọng. Dân quân tự vệ được huấn luyện để thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ trật tự an ninh xã hội ở địa phương.

Nhà nước có chính sách đãi ngộ thích đáng với cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ, tạo điều kiện cả vật chất và tinh thần để lực lượng Dân quân tự vệ hoạt động ngày càng có hiệu quả, thiết thực, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 

KhuongDuy

Xe điện
Biển số
OF-49857
Ngày cấp bằng
31/10/09
Số km
2,368
Động cơ
480,130 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà em không có
KẾT LUẬN

Sách Trắng về Quốc phòng Việt Nam cung cấp cho bạn đọc tổng quan về những vấn đề cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam trong đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ là những vấn đề then chốt. Các vấn đề được nêu trong Sách Trắng về Quốc phòng Việt Nam nhằm góp phần tăng cường hiểu biết và xây dựng lòng tin giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Sách trắng cũng là tài liệu quan trọng để nâng cao hiểu biết về quốc ph òng của đất nước cho công dân Việt Nam, góp phần l àm cho mọi công dân, cơ quan, đơn vị và tổ chức xã hội hiểu rõ hơn quyền lợi và trách nhiệm của mình trong tham gia công cuộc củng cố quốc phòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thời cơ và thách thức đan xen, Việt Nam chủ trương duy trì và phát triển quốc phòng đủ mạnh, kiên trì chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việt Nam xây dựng quân đội “của dân, do dân, vì dân”, có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các tranh chấp lãnh thổ và các tranh chấp khác bằng các biện pháp hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và thịnh vượng.

Việc xuất bản Sách trắng về Quốc phòng Việt Nam năm 2009 thể hiện mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, b ình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội./.
 

khoaimon010

Xe buýt
Biển số
OF-24820
Ngày cấp bằng
26/11/08
Số km
825
Động cơ
498,899 Mã lực
Nơi ở
Cửa trời
Hoan hô bác Khương Duy, bác đã vất vả để kiếm tài liệu quá. Tuy rằng tài liệu không mới, nhưng được đầy đủ dư này là tốt lắm. Thank!
 

KhuongDuy

Xe điện
Biển số
OF-49857
Ngày cấp bằng
31/10/09
Số km
2,368
Động cơ
480,130 Mã lực
Nơi ở
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà em không có
Hoan hô bác Khương Duy, bác đã vất vả để kiếm tài liệu quá. Tuy rằng tài liệu không mới, nhưng được đầy đủ dư này là tốt lắm. Thank!
Vâng . Cám ơn bác. Bác cố gắng đọc hết trong buổi sáng giúp em nhé:-"
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,154 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ui, cảm ơn cụ quá, em tìm cái này trên Gúc gồ cả tháng nay mà k có, cảm ơn cụ, cảm ơn cụ ....
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top