Tiêm kích trên hạm: Ngố>< Mẽo + NaTO

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Tiêm kích trên hạm đa năng MiG-29K

MiG-29K (NATO gọi là Fulcrum-D, biến thể huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi MiG-29KUB) là máy bay tiêm kích đa năng triển khai trên tàu sân bay, thế hệ 4++.

MiG-29K (migavia.ru)​
Đây là tiêm kích đầu tiên của Nga có khả năng cất/hạ cánh từ tàu sân bay theo kiểu thông thường, tức là có chạy đà cất cánh và chạy đà hạ cánh.

MiG-29K thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 23.7.1988 và được đưa vào trang bị năm 1993. Năm 1991, máy bay bắt đầu tham gia thử nghiệm quốc gia song không hoàn thành quá trình thử nghiệm. Do kinh phí cho các chương trình quân sự bị cắt giảm mạnh, Nga hủy bỏ việc cải tiến MiG-29K.

2 mẫu chế thử MiG-29K đã thực hiện tổng cộng hơn 420 chuyến bay, trong đó có gần 100 chuyến bay trên tàu sân bay.

Nga trở lại với tiêm kích trên hạm vào giữa thập niên 1990 khi Ấn Độ muốn mua của Nga tàu sân bay Đô đốc Gorshkov. Họ cũng cần các tiêm kích trên hạm cho tàu sân bay này. Nga quyết định phát triển máy bay mới trên cơ sở MiG-29 tại Viện thiết kế mang tên A.I. Mikoyan. Máy bay tiêm kích này có ký hiệu 9-41, song vẫn giữ tên của mẫu máy bay trước đây là MiG-29K.


Năm 1999, Nga bắt đầu ráo riết phát triển tiêm kích trên hạm mới, mặc dù những đường nét đầu tiên của máy bay được hoàn thành từ năm 1996. Cuối thập niên 1990, các công trình sư bắt đầu chế tạo những bộ phận tổng thành đầu tiên cho các máy bay MiG-29K thử nghiệm. Sau khi ký hợp đồng với Ấn Độ, phía Ấn Độ cũng tích cực tham gia định hình diện mạo máy bay mới.

Năm 2002, đã bắt đầu thử nghiệm các hệ thống và bộ phận riêng lẻ của MiG-29K.

MiG-29K hiện nay là biến thể hiện đại hóa sâu của máy bay MiG-29K mẫu 1988 (9-31).

Tiêm kích thử nghiệm MiG-29K/KUB thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 1.2007. Chiếc máy bay sản xuất loạt lần đầu tiên cất cánh vào tháng 3.2008.

Tuy có bề ngoài tương đồng, MiG-29K có trọng lượng lớn hơn 30 % so với MiG-29B của Không quân Ấn Độ. MiG-29K sẽ được trang bị các tên lửa có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở ngoài tầm nhìn thẳng, tên lửa chống hạm có điều khiển, rocket, bom và 1 pháo 30 mm. Dự trữ bay của MiG-29K/KUB tăng hươn gấp đôi, chi phí giờ bay giảm gần 2,5 lần.

Tiêm kích trên hạm MiG-29K (1 chỗ ngồi) và MiG-29KUB (2 chỗ ngồi) là máy bay đa năng thế hệ 4++, có thể làm nhiều nhiệm vụ (giành ưu thế trên không, phòng không cho binh đoàn tàu, tiêu diệt mục tiêu mặt nước, mặt đất) bất kể ngày đêm và trong điều kiện thời tiết phức tạp.

MiG-29K có các tính năng kỹ thuật và khai thác tốt hơn, độ tin cậy cao hơn. Hệ thống avionics của máy bay có cấu trúc mở. Radar trên khoang đa năng, đa chế độ Zhuk-ME cho phép bám đến 10 mục tiêu và tấn công đồng thời 4 mục tiêu trong số đó.

Máy bay có khung thân cải tiến, sử dụng các vật liệu composite (chiếm 15%), có độ bộc lộ radar nhỏ và tải trọng chiến đấu lớn hơn, các thùng nhiên liệu dung tích lớn hơn và hệ thống tiếp dầu trên không, hệ thống gấp cánh cải tiến, hệ thống điều khiển điện từ xa kỹ thuật số kiểu tứ trùng.

MiG-29К được trang bị cơ cấu hãm để hạ cánh trên tàu sân bay và có bộ càng gia cường, cánh gấp và lớp phủ đặc biệt chống tác động ăn mòn của nước biển.

Tính năng kỹ-chiến thuật của MiG-29K

Trọng lượng cất cánh: thông thường/tối đa, kg: 18.550 / 24.500;
Kích thước: Chiều dài x chiều cao x sải cánh, m: 17,3 x 4,4 x 11,99
Tốc độ tối đa: ở độ cao nhỏ/ở độ cao lớn, km/h: 1.400 / 2.200;
Tầm bay: ở độ cao nhỏ/ở độ cao lớn, km: 750 / 1.650;
Số điểm treo vũ khí: 8;

Vũ khí:
6 tên lửa không-đối-không tầm trung RVV-AE;
8 tên lửa tầm ngắn R-73E;
4 tên lửa chống hạm Kh-31A và Kh-35E;
4 tên lửa chống radar Kh-31P;
4 bom có điều khiển KAB-500KR; 1 pháo 30 mm GSh-301
MiG-29K và biến thể máy bay huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi MiG-29KUB đang được sản xuất loạt cho Hải quân Ấn Độ.



  • Nguồn: RIA Novosti.
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
F/A-18 và các biến thể


F/A-18 là tiêm kích trên hạm chủ lực của Hải quân Mỹ, việc nhận biết các biến thể của nó cũng dễ dàng hơn nhờ có các thay đổi lớn về thiết kế khí động học.

http://quocphong.baodatviet.vn/F/A-18 Hornet(Ong bắp cày) là tiêm kích 2 động cơ, được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay, đây là tiêm kích trên hạm chủ lực của Hải quân Mỹ.

F/A-18 đã tham gia vào rất nhiều chiến dịch quân sự của Mỹ và đã chứng minh được năng lực của một trong những tiêm kích trên hạm tốt nhất thế giới.

F/A-18 là sản phẩm của Tập đoàn McDonnell Douglas, được phát triển từ mẫu thử nghiệm YF-17 của Northrop Grumman. Vào năm 1997, tập đoàn này đã sát nhập vào Boeing, nên kể từ đó trở đi, F/A-18 được coi là sản phẩm của Boeing.

Hornet bắt đầu đi vào phục vụ trong Hải quân Mỹ từ năm 1983 nhằm bổ sung và thay thế dần cho phi đội F-14 Tomcat.

Hornet xuất trận lần đầu tiên vào tháng 4/1986, trong nhiệm vụ yểm trợ cho cuộc không kích Libya trong chiến dịch Benghazi. F/A-18 được sản xuất với các biến thể A/B, C/D và gần đây nhất là biến thể nâng cấp sâu rộng E/F Super Hornet.

F/A-18A/B

Đây là biến thể sản xuất loạt đầu tiên của F/A-18, trong đó F/A-18A là biến thể 1 chỗ ngồi, F/A-18B là biến thể 2 chỗ ngồi phục vụ cho nhiệm vụ đào tạo.

Máy bay có điểm dễ nhận biết với 2 rìa cánh bắt đầu từ cánh chính kéo dài cho đến tận buồng lái. Dưới đó, là cửa hút không khí hình ovan nằm 2 bên hông phía dưới cánh chính.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18A đặc trưng với cửa hút không khí hình ovan.​
Biến thể sản xuất đầu tiên này được trang bị radar AN/APG-65, một loại radar xung Doppler, băng tần I cung cấp khả năng giám sát không đối không và đối đất cùng lúc. Radar được thiết kế với công nghệ lock down/shoot down, bộ xử lý có khả năng theo dõi trong khi đang quét. Radar có tầm hoạt động tối đa ở chế độ không đối không là 110km.

F/A-18A/B được trang bị hệ thống fly-by-wire kỹ thuật số, hệ thống điện tử hàng không hiện đại. Buồng lái được trang bị các màn hình hiển thị LCD đa chức năng, màn hình hiển thị HUD hiện đại. Máy bay được trang bị hai động cơ GE F404 cung cấp lực đẩy đốt lần 2 là 79kN/động co.

Hornet là một trong số ít những máy bay có tỷ lệ lực đẩy/trọng lượng lớn hơn 1, cùng với thiết kế khí động học mượt mà giúp cho máy bay có khả năng thao diễn tốt và hoạt động rất hiệu quả trên tàu sân bay.

F/A-18C/D

F/A-18C/D là biến thể hiện đại hóa đầu tiên của F/A-18, trong đó, F/A-18C là biến thể 1 chỗ ngồi, F/A-18D là biến thể 2 chỗ ngồi. Máy bay đi vào phục vụ từ tháng 9/1987.

So với nguyên mẫu, hình dáng bên ngoài của máy bay không có nhiều khác biệt, các thay đổi chủ yếu ở hệ thống điện tử và vũ khí.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18C đang cất cánh từ tàu sân bay.​
Máy bay được trang bị radar AN/APG-73, được xem là radar dành cho tiêm kích hiện đại nhất lúc đó.

Radar mới cung cấp khả năng giám sát không đối không ở cự ly tới 160km, có khả năng lập bản đồ mặt đất độc lập cho phép tấn công mục tiêu mặt đất chính xác trong điều kiện thời tiết bất lợi.

Radar mới cho phép tích hợp tên lửa không đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM và tên lửa không đối đất chiến thuật AGM-65 Maverick.

Máy bay được bổ sung thiết bị tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu gắn ngoài NAVFLIR AN/AAR-50 cùng với các thiết bị nhìn đêm cho phép tấn công chính xác vào ban đêm.

Bất lợi của thiết kế F/A-18C/D là khối lượng lớn, buộc máy bay nhận được ít nhiên liệu hơn, do đó, tầm hoạt động chiến đấu cũng giảm đi đáng kể. Hệ thống điện tử mới tuy hiệu quả hơn nhưng thiếu các thiết bị làm mát cần thiết.

Các biến thể F/A-18A/B/C/D đã được xuất khẩu cho 8 quốc gia ngoài Hải quân Mỹ gồm có Australia, Canada, Phần Lan, Kuwait, Malaysia, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Thái Lan.

F/A-18E/F Super Hornet

Đây là biến thể hiện đại hóa sâu rộng của gia đình F/A-18, trong đó F/A-18E là biến thể 1 chỗ ngồi và F/A-18F là biến thể 2 chỗ ngồi, chính thức đi vào phục vụ từ tháng 12/1998.

Thiết kế của Super Hornet chỉ giống nguyên mẫu 42% với khá nhiều thay đổi về kiểu dáng khí động học, động cơ và hệ thống điện tử.
Biến thể một chổ ngồi F/A-18E phần cửa hút không khí của động cơ đã được sửa đổi so với biến thể trước đó. Điểm khác biệt lớn nhất của Super Hornet so với các biến thể trước đó là cửa hút không hình hình chữ nhật thay cho hình ovan nhằm đáp ứng lượng không khí lớn hơn cho động cơ mới.

Diện tích cánh của Super Hornet lớn hơn 25% so với các biến thể trước đó, thân máy bay được kéo dài thêm 860mm cho nhiên liệu và các thiết bị điện tử mới. Super Hornet có tải trọng vũ khí và tầm hoạt động lớn hơn, động cơ mới mạnh hơn, các hệ thống điện tử mới cung cấp khả năng sống sót cao hơn.

Nhiệm vụ chính của Super Hornet là các phi vụ SEAD/DEAD, yểm trợ cho phi đội F-15 ném bom các mục tiêu mặt đất.

Super Hornet được trang bị các công nghệ điện tử hàng không cực kỳ hiện đại, trong đó nổi bật là radar mạng pha quét điện tử, radar AESA AN/APG-79.

Radar được trang bị bộ vi xử lý “back-end” cung cấp khả năng không đối không, đối đất, đối hải cùng lúc. Công nghệ AESA giúp Super Hornet đối phó hiệu quả với nhiều mối đe dọa khác nhau trong bất kể ngày đêm.

Buồng lái của Super Hornet được trang bị một màn hình cảm ứng đa chức năng hiển thị các thông tin chiến thuật, 2 màn hình LCD đơn sắc hiển thị các thông số về nhiên liệu và động cơ, bản đồ kỹ thuật số, thiết bị nhìn đêm tích hợp.
Biến thể hai chổ ngồi F/A-18F của Không quân Hoàng gia Australia.​
Máy bay được bổ sung thêm hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu gắn ngoài AN/ASQ-228, phạm vi hoạt động 48 km từ độ cao 15,2km, hệ thống chiến tranh điện tử và phòng vệ mềm toàn diện IDECM AN/ALQ-124. Hệ thống IDECM có khả năng tự động nhận biết các mối đe dọa và đưa ra biện pháp đối phó thích hợp.

Super Hornet có 11 điểm treo vũ khí có khả năng sử dụng tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất trong kho của Hải quân Mỹ. Super Hornet được trang bị 2 động cơ GE-F414 với phần mềm điều khiển số. Động cơ mới có công suất tăng thêm 35% so với động cơ GE-F404, tầm hoạt động của máy bay tăng thêm 40% so với biến thể C/D.

Khả năng mang tải trọng nhiên liệu lớn hơn cũng cho phép Super Hornet có thể hoạt động như một máy bay tiếp nhiên liệu trên không mini.

Hiện tại, Super Hornet mới chỉ xuất khẩu cho Không quân Hoàng gia Australia, một số khách hàng khác như Anh và UAE cũng đang xem xét lựa chọn Super Hornet cho các chương trình mua sắm của họ.

E/A-18G Growler

Biến thể tác chiến điện tử chuyên dụng của Hải quân Mỹ được phát triển trên cơ sở của F/A-18 F Super Hornet.

Hình dáng bên ngoài của E/A-18G không có nhiều khác biệt so với F/A-18 F Super Hornet.
Biến thể E/A-18G Growler với các thiết bị tác chiến điện tử chuyên dụng.​
Growler giống Super Hornet tới 90% ở thiết kế khung thân, radar AN/APG-79 và các hệ thống vũ khí. Để nhận biết Growler chủ yếu dựa vào các thiết bị tác chiến điện tử mà nó mang theo.

Trang bị tiêu chuẩn cho E/A-18G Growler gồm có 5 hệ thống gây nhiễu điện tử AN/ALQ-99 cùng với hai tên lửa không đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM, hoặc 2 tên lửa chống radar AGM-88 HARM. E/A-18G Growler cùng với E/A-6B Prowler là những máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng duy nhất trên thế giới.
 

Kingpin

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-832
Ngày cấp bằng
20/7/06
Số km
10,856
Động cơ
686,853 Mã lực
Nơi ở
Hà nội tỉnh Cầu giấy huyện Nghiã đô xã
SU-33
Thực chất, Su-33 là phiên bản nâng cấp của Su-27, một loại máy bay tiêm kích Hải quân phổ biến trước đó của Quân đội Liên Xô.
Khác với Su-27, Su-33 có nhiều cải tiến quan trọng như được thiết kế bổ sung thành loại máy bay 3 lớp cánh, phần thân và khung máy bay được tăng cường chịu lực. Các thông số kỹ thuật chính và được trang bị hệ thống định vị, chỉ thị mục tiêu cải tiến có độ chính xác cao hơn.
Từ đó, Su-33 có khả năng tiêu diệt các máy bay đối ngầm của đối phương trong khu vực triển khai tác chiến của tàu ngầm, tiêu diệt các máy bay trinh sát và máy bay phát hiện rada tầm xa, tiêu diệt các máy bay không người lái phóng từ tàu hoặc phóng từ căn cứ trên bờ. Ngoài ra, Su-33 có khả năng tiến hành trinh sát kỹ thuật trên không và làm nhiệm vụ rải ngư lôi trên biển.

Mặt khác, Su-33 được trang bị hệ thống điều khiển vũ khí và hệ thống rada hiện đại có khả năng tìm kiếm, phát hiện và bám mục tiêu trên không. Su-33 có khả năng phát hiện, bám 10 mục tiêu đồng thời và phóng tên lửa tiêu diệt các mục tiêu đã bám cùng một lúc.

Su-33 còn được trang bị hệ thống định vị quang điện (có các máy đo khoảng cách hồng ngoại và laze) kết hợp với hệ thống chỉ thị mục tiêu hiện đại.
Được biết, Su-33 được đưa vào trang bị cho Không quân Hải quân Nga từ năm 1991, chính thức trang bị hàng loạt từ 31/8/1998 và được NATO gọi là Flanker-D.
Kíp lái chỉ có 1 người. Dài 21,185 m. Sải cánh 14,698 m. Cao 5,72 m. Trọng lượng không tải 19.600 kg. Lượng nhiên liệu tối đa 12.100 lít.
Một số hình ảnh về Su-33:

Su-33 trên boong
Roi boong tàu
Sẵn sàng chiến đấu
Tên lửa không đối không
Su-33 và trực thăng Ka-27 và Ka-29
Su-33 trong hầm tàu
Hạ cánh
Tính năng bay của Su-33: Tốc độ 2.300 km/h (ở độ cao 11 km). Trần bay 17 km. Tầm hoạt động 3.000 km. Quãng đường lấy đà cất cánh 105 m.

Vũ khí: Mang theo tối đa 6.500 kg vũ khí các loại. Trong đó có: 1 pháo 30 mm với 150 quả đạn. Tối đa 14 tên lửa không đối không R-73, R-27R/ER, R-27T/ER. Ngoài ra còn được trang bị các loại tên lửa không điều khiển C-8, C-13 và C-25, các loại bom FAB-500, FAB-250…

Trọng lượng cất cánh tối đa của Su-33 đạt 33.000 kg với tải trọng 65.000 kg. Số lượng tên lửa không đối không tối đa có thể mang theo là 12, nhờ các giá treo bổ sung trên cánh, trong đó có 8 tên lửa R-27E và 4 tên lửa R-73.
 

Kingpin

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-832
Ngày cấp bằng
20/7/06
Số km
10,856
Động cơ
686,853 Mã lực
Nơi ở
Hà nội tỉnh Cầu giấy huyện Nghiã đô xã
Yakovlev Yak-141 Freestyle



Yak-141 Freestyle
CHIẾN ĐẤU CƠ VTOL
Yakovlev (Liên Xô)
______________________________________________________
.
Phi hành đoàn : 01
Dài : 18,36 m
Sải cánh : 10,10 m
Cao : 5,00 m
Trọng lượng không tải : 11.650 kg
Tối đa khi cất cánh : 19.500 kg
Động cơ : 01 động cơ phản lực MNPK Soyuz R-79V-300 với sức đẩy 15.376 kg, có khả năng tái khai hỏa; và 02 động cơ phản lực nâng Rybinsk RKBM RD-41 có sức đẩy 4.185 kg mỗi cái.
Tốc độ : 1.800 km/giờ
Cao độ : 15.500 m
Tầm hoạt động : 3.000 km
Hỏa lực : 01 đại bác 30mm GSh-301 với 120 đạn; 2.600 kg vũ khí gồm : tên lửa AA-10 Alamo, AA-11 Archer, bom, rocket.
Bay lần đầu : 09/3/1987
Số lượng sản xuất : 04 chiếc nguyên mẫu.
Quốc gia sử dụng : Liên Xô-Nga.


.







 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Nhưng theo đánh giá của TG thì các phản lực cơ trên hạm của Ngố không mạnh như các phản lực cơ đa năng khác của họ, còn kém Mẽo hay Nato nhiều.
 

Kingpin

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-832
Ngày cấp bằng
20/7/06
Số km
10,856
Động cơ
686,853 Mã lực
Nơi ở
Hà nội tỉnh Cầu giấy huyện Nghiã đô xã
vấn đề là LX trc đây coi nhẹ việc sở hữu tầu sân bay và cho rằng chỉ cần có ICBM trên Ngầm và tầu tên lửa loại tốt là ổn vì LX không có tư tưởng tấn công
tuy nhiên khi nó vứt con Su-27 lên tầu Kunetzsov và cải tiến lại thì nó cũng là đối thủ đáng gờm của F/a-18 Loại máy bay trên hạm tốt nhất của Mỹ hiện tại
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Nhưng iem thấy tụi Nato lại đánh giá cao thằng Mig 29K hơn là tay cơ bắp Su 33?
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Đặc điểm cất-hạ cánh của tiêm kích Su-33 trên tàu sân bay Kuznetsov

Cự ly chạy đà cất/hạ cánh rút ngắn trên tàu sân bay đặt ra yêu cầu khắt khe đối với máy bay trên hạm và phi công điều khiển chúng.

Dưới đây giới thiệu đặc điểm cất-hạ cánh của tiêm kích Su-33 trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov của Hải quân Nga. Qua đây, ta cũng có thể biết thao tác tương tự của J-15 trên tàu sân bay Thi Lang (cùng loại với tàu Kuznetsov) của Trung Quốc.





  • Nguồn: RIA Novosti, 2010.
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Tìm hiểu về Hàng không mẫu hạm (Aircraft Carrier)


1. GIỚI THIỆU:
Có nhiều loại tàu sân bay (TSB), nhưng về cơ bản chúng hoạt động gần như giống nhau nên trong bài viết này mình sẽ nói về chiếc USS Nimitz, một trong những siêu hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới của Hải quân Hoa Kỳ. Tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân từ 2 lò phản ứng, có khoảng 5.000 thủy thủ đoàn và trên dưới 90 máy bay trên boong, bao gồm cả phản lực và trực thăng. Giá thành của USS Nimitz khoảng 4,5 tỷ USD.

Có thể nói TSB là biểu tượng sức mạnh của quân đội nói chung và hải quân nói riêng, là niềm tự hào của một đất nước. Nó là loại tàu chiến mạnh mẽ nhất trong quân đội, đóng vai trò vừa là tàu chiến, tàu hỗ trợ, đồng thời vừa được xem như một căn cứ quân sự di động nổi trên biển, có thể đi đến gần như bất cứ vùng biển nào, giúp cho quân đội có thể triển khai không lực đến mọi nơi trên thế giới. Về kích thước, chúng là những tàu chiến có kích cỡ đồ sộ nhất hiện nay, cao tương đương một tòa nhà 20 tầng (gần 77 mét), dài bằng với chiều cao của tòa nhà Chrysler Building 77 tầng của Mỹ (gần 333 mét) và nặng hơn 91.000 tấn khi được trang bị đầy đủ (máy bay, bom, đạn dược, tên lửa...). USS Nimitz có sức chứa 90 máy bay và khả năng phóng liên tục 4 máy bay chỉ trong vòng 1 phút (phóng mỗi chiếc mất 25 giây).


Tàu USS Nimitz

Điểm nổi bật dễ thấy nhất của TSB đó là chúng có một boong tàu bằng phẳng và dài. Boong tàu được dùng để đậu máy bay và cũng là đường băng để các máy bay cất và hạ cánh. Vì đường băng trên TSB có chiều dài hạn chế nên người ta phải lắp thêm các hệ thống phóng máy bay bằng hơi nước để giúp chúng dễ cất cánh hơn.

Ngoài việc "nuôi giữ" hàng chục máy bay có chức năng tấn công ra, TSB còn được trang bị nhiều loại súng ống, tên lửa và các trang thiết bị hiện đại đủ để phòng thủ cũng như tiêu diệt các tàu chiến, máy bay khác dám bén mảng đến gần. Kết hợp với các tàu hộ tống, tàu khu trục, tàu ngầm và máy bay trên không, TSB sẽ trở thành trung tâm của một đội hình tác chiến vừa có khả năng chiến đấu cao, phòng thủ tốt lại vừa có thể di chuyển đến khắp các vùng biển với vận tốc tương đương 60 km/h. Cho phép quân đội một nước có thể đưa quân vào các lãnh thổ trong đất liền mà không cần quan tâm nơi đó có căn cứ quân sự của mình hay không, vì thực chất TSB đã là một căn cứ quân sự rồi.

Các thành phần chủ yếu có trên boong tàu:



  • 4 bệ phóng (đường băng): Bệ phóng dùng để đẩy và phóng máy bay từ boong tàu lên không trung trong thời gian ngắn.
  • Trạm điều khiển bệ phóng: Có chức năng tính toán và điều khiển lực đẩy cần thiết để phóng máy bay lên, tùy vào từng loại máy bay mà người ta cần phải tính toán lực đẩy cho phù hợp. Lực đẩy quá yếu hay quá mạnh đều gây ra nguy hiểm cho máy bay lẫn phi công.
  • Thang máy nạp vũ khí: Vận chuyển vũ khí từ dưới kho lên boong tàu để các thủy thủ lắp vào máy bay.
  • Thang máy: Vận chuyển máy bay từ dưới khoang chứa lên boong tàu để chuẩn bị bay.
  • Tháp đảo: Trung tâm điều khiển tàu, trung tâm chỉ huy tác chiến của các chỉ huy và đô đốc.
  • Hàng rào lưới: Dùng để phanh gấp các máy bay hạ cánh trong tình huống khẩn cấp. Các máy bay sẽ bay thẳng vào lưới này để giảm vận tốc cho đến khi dừng lại hoàn toàn.
  • Khối ăng-ten: Chứa các ăng-ten, radar.
  • Cáp giữ máy bay khi hạ cánh: có 4 dây cáp, máy bay khi hạ cánh lên TSB sẽ thả một cái móc ở phía đuôi máy bay ra, cái móc này sẽ móc vào sợi dây cáp để giữ máy bay lại.
  • Đầu chặn ống xả từ động cơ máy bay: Các máy bay phản lực khi khởi động sẽ tạo ra một lực đẩy vô cùng lớn ở phía sau động cơ của nó, người ta đặt các đầu chặn ngay phía đuôi máy bay để hướng lực đẩy đó lên phía trên, để không ảnh hưởng đến các thủy thủ trên tàu.
  • Hệ thống đèn chỉ dẫn hạ cánh: Nằm gần đường băng, bao gồm nhiều đèn tín hiệu có chức năng báo hiệu cho phi công hạ cánh.
  • Mk-15 Phalanx CIWS: Súng máy chống tên lửa, định hướng bằng Radar.
  • Mk-29 Sea Sparrow SAM Launcher: Tên lửa dẫn đường chống máy bay, chống tên lửa.


2. CẤU TRÚC CỦA MỘT TÀU SÂN BAY:
TSB là loại tàu có cấu trúc vô cùng phức tạp bởi nó kiêm nhiệm quá nhiều chức năng. Có thể kể ra một số chức năng như vận chuyển máy bay xuyên đại dương, phóng và hạ cánh máy bay, trung tâm chỉ huy di động cho các nhiệm vụ quân sự, là nơi sinh hoạt, làm việc của hàng ngàn thủy thủ đoàn... do đó, nó cần có những thứ sau đây:


  • Đường băng: dùng cho máy bay cất và hạ cánh.
  • Khoang chứa máy bay: Nằm bên trong thân TSB, chứa các máy bay không sử dụng.
  • "Tháp đảo": Phần công trình nhô lên trên boong tàu, dựng các loại ăng-ten. Nơi các viên chỉ huy điều khiển con tàu và máy bay.
  • Hệ thống phòng ốc cho các thủy thủ sinh hoạt và làm việc.
  • Động cơ điện và hệ thống động cơ đẩy để di chuyển toàn bộ con tàu, tạo ra điện để sử dụng. Nimitz dùng động cơ điện hạt nhân.
  • Một loạt các hệ thống khác tương tự như trong thành phố như hệ thống cống, xử lý rác thải, thư từ, Radio, TV, báo, nhà máy xử lý nước, kho lương thực...
  • Thân tàu.


Thân tàu được làm từ các tấm thép siêu cứng dày đến mấy inch, bảo vệ TSB trước hỏa lực của kẻ địch. Phần dưới của tàu (phần chìm dưới mặt nước biển) được thiết kế thành 2 sàn riêng biệt cách nhau bởi một khe hở. Thiết kế này sẽ tăng thêm sức bảo vệ cho tàu khi gặp phải ngư lôi hay các tai nạn trên biển. Và lỡ như có bị bắn trúng và làm thủng một lỗ trên thân tàu thì thiết kế 2 sàn riêng biệt này sẽ ngăn không cho lỗ thủng to ra.

3. CẤT CÁNH TỪ TÀU SÂN BAY:
Boong của TSB là một trong những nơi có môi trường làm việc nguy hiểm nhất thế giới. Do mật độ cất/hạ cánh trên boong tàu khá lớn và diễn ra trên một không gian chật hẹp nên dù chỉ một sai sót nhỏ, một phút lơ là không cảnh giác là bạn có thể bị hút vào động cơ máy bay hoặc bị thổi bay xuống biển. Ngoài ra, nếu phi công hạ cánh không tốt dẫn đến tai nạn thì những thủy thủ trên boong cũng sẽ dễ gặp nạn.

Một chiếc máy bay muốn cất cánh cần phải có đường băng đủ dài để tăng tốc (ngoại trừ trực thăng), trong điều kiện đường băng khiêm tốn như trên TSB thì người ta phải dùng tới các bệ phóng đặc biệt để giúp nó tăng tốc cực kỳ nhanh mà không cần đến đường bằng dài. Bên cạnh đó, người ta còn có thể cho tàu chạy ngược chiều gió để lợi dụng sức gió tác động lên cánh máy bay giúp nó dễ cất cánh hơn.

Nhìn từ bên ngoài, bệ phóng của TSB khá đơn giản do nó chỉ gồm có một cái chốt nằm chính giữa đường băng. Người ta đưa máy bay vào đường băng, gắn bánh xe của chúng vào cái chốt này và cái chốt sẽ đẩy nó đi với một lực cực lớn, giúp máy bay tăng tốc nhanh hơn bình thường và bay lên dễ dàng. Tuy nhiên, bên dưới bệ phóng đó là cả một hệ thống gồm nhiều piston và xylanh dẫn động, lấy năng lượng từ động cơ hơi nước của tàu để tạo ra lực đẩy. Bên cạnh các đường băng, bạn sẽ thấy có một cái ụ nhỏ được lắp cửa sổ bằng kính giống như đài quan sát, gọi là trạm điều khiển bệ phóng (Catapult Control Station), bên trong trạm này, các thủy thủ sẽ tính toán lực đẩy cần thiết để phóng máy bay, máy bay khác nhau cần lực đẩy khác nhau. Nếu tính toán sai, lực đẩy quá yếu, máy bay sẽ không bay lên được và rớt xuống biển, còn nếu lực đẩy quá mạnh thì có thể gây ra hư hại cho thiết bị và nguy hiểm đến mọi người. Vì vậy mà mọi thứ cần phải được chính xác. Nếu tính toán đúng, một bệ phóng có thể đưa một chiếc máy bay nặng 20 tấn tăng tốc từ 0 - 266 km/h chỉ trong vòng 2 giây.

Và trong khi các thủy thủ đưa máy bay vào bệ phóng thì các thủy thủ khác sẽ cho nâng đầu chặn ống xả máy bay lên, đó là một tấm kim loại lớn gắn ở phía đầu bệ phóng. Bởi khi khởi động, lực đẩy từ các động cơ của máy bay tạo ra là rất lớn, có thể thổi bay những người đứng phía sau nó xuống biển nên người ta phải chặn nó lại bằng tấm thép này. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, thủy thủ đứng dưới trạm điều khiển bệ phóng sẽ bấm nút để bệ phóng hoạt động, đưa máy bay bay lên.

4. HẠ CÁNH XUỐNG TÀU SÂN BAY:
Hạ cánh xuống TSB cũng nguy hiểm không kém gì lúc cất cánh. Vì phi công phải đáp xuống đường băng chỉ dài có 150 mét, máy bay đang bay hết tốc lực và trên boong thì đang có nhiều thủy thủ và các máy bay khác. Nếu hạ cánh trong đêm hay ngày có nhiều sương mù với tầm nhìn bị hạn chế thì mức độ khó khăn và nguy hiểm cũng tăng lên rất nhiều.

Để hạ cánh, khi máy bay hạ độ cao gần bằng với boong tàu, phi công phải thả một cái móc ở phía đuôi máy bay ra. Cái móc này sẽ móc vào 1 trong 4 sợi cáp bằng thép ở phía cuối đường băng. Nếu móc trúng, sợi cáp sẽ giữ cho máy bay dừng hẳn lại và coi như đã hạ cánh thành công. Còn nếu không móc trúng, phi công phải cho máy bay bay lên lại thêm một vòng nữa để hạ cánh lần thứ 2, đây chính là lý do vì sao lúc hạ cánh, phi công không được giảm tốc độ mà phải để máy bay bay hết công suất, để lỡ không móc trúng sợi cáp thì vẫn có thể bay lên lại ngay lập tức.

4 sợi cáp trên không đơn giản chỉ là sợ dây gắn chặt ở 2 đầu mà nó được nối với các ống xylanh thủy lực bên dưới đường băng. Khi máy bay móc trúng sợi cáp, nó sẽ kéo sợi cáp ra, đồng thời hệ thống thủy lực sẽ hấp thu hết nguồn năng lượng của máy bay làm cho nó dừng hẳn lại. Do đó, sợi cáp có thể chặn một máy bay nặng 24,5 tấn đang bay với vận tốc 241 km/h dừng hẳn lại trong vòng 2 giây trên một đường băng dài có 96 mét. Người ta đặt 4 sợi cáp này nằm song song với nhau và mỗi sợi cách nhau 15 mét. Thông thường, phi công sẽ nhắm vào sợi cáp thứ 3 để móc vào vì đây là khoảng cách an toàn và hiệu quả nhất để hạ cánh. Họ không bao giờ chọn dây thứ nhất vì rất dễ đâm sầm vào phần đuôi của tàu.

Việc hạ cánh trên TSB được điều khiển bởi trạm không lưu tương tự như các sân bay trên mặt đất. Các máy bay cần phải "xếp hàng" chờ đến lượt mình được hạ cánh, theo nguyên tắc ai còn ít nhiên liệu thì xuống trước, ai còn nhiều thì xuống sau. Các thủy thủ trên boong sẽ dùng radio để liên lạc với phi công hướng dẫn họ hạ cánh, trong điều kiện thời tiết xấu hay tầm nhìn kém thì họ còn dùng tới đèn báo hiệu để chỉ dẫn cho phi công. Sau khi hạ cánh thành công, người ta sẽ kéo máy bay ra khỏi vùng hạ cánh và cho nó vào bãi đậu chung với những máy bay khác. Tại đây chúng được cố định chắc chắn trên boong để không bị xê dịch mỗi khi tàu di chuyển.

Bên cạnh việc bảo vệ cho phi công và máy bay được an toàn, người ta cũng không quên trang bị những thứ cần thiết để bảo vệ tính mạng của những thủy thủ làm việc trên boong. Thứ nhất là lắp đặt nhiều lưới xung quanh boong tàu để ngăn không cho ai bị rớt xuống biển, hai là trang bị áo phao, đèn báo hiệu phòng trường hợp bị rơi xuống biển và sau cùng là một chiếc mũ bảo hiểm cỡ lớn để bảo vệ đầu và tai khỏi những âm thanh gầm rú của động cơ máy bay.


5. THÁP ĐẢO (ISLAND):
Tháp đảo chính là phần công trình nhô lên trên boong tàu, nơi bạn thấy có nhiều ăng-ten nhất. Đây chính là trung tâm chỉ huy của TSB, nơi điều khiển mọi hoạt động như lái tàu, điều khiển máy bay cất/hạ cánh và cũng là nơi làm việc của các cấp chỉ huy. Tòa tháp cao khoảng 46 mét, phần đáy (tầng trệt) rộng chừng 6 mét còn các tầng trên thì được nới rộng ra hơn.

Trên đỉnh của tháp đảo có rất nhiều ăng-ten dùng để định vị và theo dõi các tàu thuyền/máy bay xung quanh, phát hiện máy bay địch, tên lửa địch, can thiệp và gây nhiễu sóng radar của đối phương, thu nhận tín hiệu vệ tinh cho điện thoại và TV... Tầng bên dưới là trạm không lưu điều khiển máy bay cất/hạ cánh trên boong tàu và trong bán kính 8 km. Tầng dưới nữa là trung tâm chỉ huy, nơi thuyền trưởng trực tiếp ra lệnh điều khiển tàu như hướng di chuyển, tốc độ, định vị... Và tầng dưới nữa chính là trung tâm chỉ huy dành cho cấp Đô đốc, chịu trách nhiệm cho cả hạm đội bao gồm TSB, tàu hộ tống, tàu ngầm, máy bay...

Bên dưới tầng này nữa (tầng trệt) là các trung tâm vận hành đường băng, có nhiệm vụ theo dõi và quản lý tất cả máy bay trên boong lẫn trong khoang chứa máy bay. Trong tầng này, người ta làm việc trên một cái bàn nhựa gọi là "Ouija Board". Chiếc bàn này mô phỏng y hệt như boong tàu thật. Trên đó có các mô hình máy bay tượng trưng cho các máy bay hiện có trên boong, mỗi khi có chiếc nào di chuyển từ điểm A sang điểm B thì họ cũng di chuyển mô hình theo tương tự, hoặc có chiếc nào bị hư cần sửa chữa thì họ lật úp mô hình của nó xuống. Thật bất ngờ khi mà trên con tàu ứng dụng nhiều công nghệ cao và hiện đại như TSB vẫn phải sử dụng cách quản lý bằng tay này.

Bên dưới tầng trệt (dưới boong tàu) là một trạm không lưu khác nữa nhưng có tầm quan sát rộng hơn trạm không lưu trên tháp đảo. Trạm không lưu này sẽ theo dõi toàn bộ máy bay trong cả khu vực xung quanh tàu. Kế bên trạm này còn có trung tâm tác chiến (Combat Direction Center), nơi điều khiển hệ thống chiến đấu của tàu (các ụ súng phòng không, súng máy), có nhiệm vụ xử lý thông tin từ các mối đe dọa thù địch để báo cáo lên cấp chỉ huy.


6. KHOANG CHỨA MÁY BAY:


Với số lượng máy bay lên đến gần trăm chiếc, boong tàu chắc chắn không thể chứa đủ, vì thế người ta đã thiết kế hẳn một khoang chứa nằm bên dưới boong tàu và xem nó như một ga-ra máy bay, dùng để chứa những chiếc máy bay không sử dụng.

Khoang chứa máy bay rộng khoảng 34 mét, cao 8 mét, dài 209 mét, tương đương 2/3 chiều dài của tàu và được chia thành 4 khu vực ngăn cách nhau bởi các tấm cửa kéo, có tác dụng ngăn chặn lửa lây lan khi có cháy. Nó có sức chứa khoảng 60 máy bay cùng rất nhiều động cơ dự phòng, thùng nhiên liệu và một số phụ tùng khác. Phía ngoài của khoang chứa có 4 thang máy thủy lực dùng để đưa máy bay từ dưới khoang lên boong tàu. Mỗi cái có thể đưa cùng lúc 2 máy bay có tải trọng 34 tấn mỗi chiếc lên boong dễ dàng.

Ở phía cuối của khoang chứa còn có khu bảo trì và sửa chữa máy bay gọi là Aircraft Intermediate Maintenance Division. Các thủy thủ ở đây sẽ sửa chữa những máy bay bị hư hỏng, kiểm tra từng loại phụ tùng và thậm chí cho "chạy thử" cả một động cơ phản lực trong khu vực thử động cơ.


7. CUỘC SỐNG TRÊN TÀU SÂN BAY:
Những siêu hàng không mẫu hạm như USS Nimitz được mệnh danh là "thành phố trên biển cả" bởi nó là nơi sinh hoạt, ăn ngủ nghỉ, làm việc và giải trí của khoảng 5000 - 6000 người trong nhiều tháng liền. Tuy làm việc trên biển nhưng có rất nhiều người trong số đó thậm chí không nhìn thấy mặt trời trong nhiều tuần liền, đặc biệt là những cô cậu lính mới. Boong tàu, khoang chứa máy bay và đuôi tàu là những nơi tuyệt vời để ngắm cảnh nhưng vì môi trường làm việc ở đó quá nguy hiểm và chật hẹp nên họ thường không được phép lên đây. Họ cũng không được phép có mặt trên tháp đảo vì nơi đó quá chật chội và chứa nhiều thông tin nhạy cảm.

Bên trong TSB mới là một thành phố thật sự, tuy nhiên nó hơi chật chội nên người ta phải khom người và luồn lách nếu muốn đi từ nơi này sang nơi khác. Ở đây người ta chia ra thành nhiều khu, mỗi khu có khoảng 60 người, ngủ trên những chiếc giường treo được kê khá chật chội. Mỗi người đều có thùng đồ riêng để cất vật dụng cá nhân của mình. Ở mỗi khu còn có 1 phòng tắm chung, phòng sinh hoạt tập thể có TV vệ tinh. Phòng của chỉ huy có cơ sở vật chất tốt hơn nhưng vẫn phải chịu cảnh chật hẹp như thường.

Tuy có khá nhiều việc làm trên TSB nhưng tựu chung lại thì có thể chia thành hai nhóm, một nhóm gồm khoảng 2.500 nam thanh nữ tú, là các phi công lái và bảo trì máy bay. Nhóm còn lại khoảng 3.000 người có nhiệm vụ chung là điều hành con tàu. Những người trong nhóm đầu chỉ quan tâm đến máy bay, còn công việc của nhóm thứ hai thì đa dạng hơn, từ các việc "hạng nhẹ" như rửa chén, nấu ăn cho đến các việc "hạng nặng" như chăm lo vũ khí và bảo trì lò phản ứng hạt nhân. Ngoài ra, TSB còn có rất nhiều nhà bếp, phòng giặt ủi, phòng khám nha khoa, bệnh viện, phòng điện thoại, bưu điện và rất nhiều cửa hàng nhỏ lẻ khác.

8. CÁC "LÍNH THỢ" XANH, ĐỎ, TÍM, VÀNG... TRÊN BOONG:

Trên boong tàu có rất nhiều thủy thủ cùng làm việc với nhau, mỗi thủy thủ đều được phân công nhiệm vụ rõ ràng. Nhìn vào màu áo của mỗi người, ta có thể biết được công việc của họ là gì:

Áo XANH LÁ: Nhân viên bảo trì, bảo dưỡng máy bay, đường băng.
Áo XANH DƯƠNG: Vận hành thang máy, xe kéo.
Áo ĐỎ: Tiếp tế đạn dược, bom, tên lửa cho máy bay.
Áo TÍM: Tiếp nhiên liệu, xăng dầu cho máy bay.
Áo VÀNG: Hướng dẫn cho phi công và máy bay cất cánh.
Áo TRẮNG: Nhân viên hướng dẫn hạ cánh, thanh tra máy bay, nhân viên y tế...

Do đó, mỗi khi có chiếc máy bay nào chuẩn bị cất cánh hay hạ cánh, sẽ có một tốp các cô cậu mặc áo xanh, đỏ, tím, vàng tụm lại xung quanh máy bay. Mỗi người ai làm việc nấy để đảm bảo máy bay luôn ở trong trạng thái hoạt động tốt nhất.


9. HỆ THỐNG VŨ KHÍ/TẤN CÔNG CỦA TÀU SÂN BAY:
Nhắc đến TSB thì người ta hay nghĩ tới sức mạnh khủng khiếp của nó. Vậy sức mạnh của TSB nằm ở đâu? Bao gồm những loại vũ khí gì?

Trước đây mình nghĩ TSB có rất nhiều súng ống, đại bác và tên lửa trên boong, là một pháo đài nổi trên biển. Nhưng thực tế số lượng các ụ súng trên tàu không nhiều, ví dụ như chiếc siêu hàng không mẫu hạm cỡ lớn như USS Nimitz cũng chỉ có 6 ụ súng và chia làm 2 loại, chúng có chức năng phòng thủ là chính nhưng đôi lúc cũng có thể dùng để tấn công, bao gồm:

3 ụ súng máy Mk-15 Phalanx CIWS: Súng máy chống tên lửa, định hướng bằng radar.
Súng máy hiện đại, chức năng: phòng thủ, chống tên lửa diệt hạm. Dùng đạn: 20 mm, tầm bắn hiệu quả: 3,6 km, tốc độ bắn: 4.500 viên/phút (75 viên/giây), hộp tiếp đạn: 1.550 viên, nặng: 6,2 tấn.
3 ụ tên lửa phòng không Mk-29 Sea Sparrow SAM Launcher: Tên lửa dẫn đường chống máy bay, chống tên lửa diệt hạm.
Bao gồm 8 ổ tên lửa có chức năng: phòng không, bắn máy bay, chống tên lửa diệt hạm. Tốc độ tên lửa: 4.250 km/h, tầm hoạt động: 18,5 km. Dẫn đường bằng radar.

Vậy TSB mạnh ở chỗ nào? Xin thưa là sức mạnh của TSB nằm ở chính các máy bay mà nó mang theo. Với số lượng hàng chục chiếc, mỗi chiếc lại được trang bị súng máy và tên lửa có khả năng tấn công trên trời, mặt đất lẫn mặt nước thì ta có thể xem mỗi chiếc máy bay là một ụ súng rất đáng gờm. Đặc biệt, các "ụ súng mọc cánh" này còn có thể ném bom những mục tiêu cách xa TSB đến hàng ngàn Kilomét, vì vậy mà khả năng tấn công của TSB là rất đa dạng, rộng lớn và kinh khủng.

Ví dụ, tàu USS Nimitz có khoảng 90 máy bay, được chia thành 9 tổ đội, bao gồm các loại máy bay sau:


  • F/A-18F Super Hornet: Máy bay tiêm kích chiến đấu đa chức năng, 2 chỗ ngồi. Khả năng tấn công ngày và đêm ở trên không, trên biển lẫn mặt đất. Được trang bị nhiều loại vũ khí dẫn đường và khả năng tiếp nhiên liệu trên không.
  • F-14 Tomcat: Máy bay siêu âm chiến đấu 2 chỗ ngồi. Có khả năng chiến đấu trên không vượt trội và là thành phần chủ chốt trong đội hình bảo vệ TSB.
  • E-2C Hawkeye: Máy bay mang radar cảnh báo sớm trên không. Có chức năng thu thập tình hình quân địch.
  • S-3B Viking: Phi cơ chuyên "làm thịt" các loại tàu ngầm.
  • EA-6B Prowler: Máy bay 2 động cơ có chức năng gây nhiễu radar đối phương và làm tắc nghẽn hệ thống liên lạc của địch.
  • SH-60 SeaHawk: Máy bay trực thăng 2 động cơ. Chuyên dùng để tấn công tàu ngầm và làm nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ.


10. ĐỘI HÌNH PHÒNG THỦ CỦA TÀU SÂN BAY:
Do kích thước siêu lớn của mình mà TSB rất dễ trở thành mồi ngon cho đối phương. Vì vậy để đảm bảo an toàn, người ta thường bố trí nhiều tàu hộ tống cho nó, giúp nó không bị đơn độc trên biển cả. Một đội hình bảo vệ sẽ gồm bảo vệ từ trên không, trên mặt nước và cả dưới mặt nước. Bao gồm các lớp:

Lớp trong cùng, gần TSB nhất: 1 tàu tiếp tế, có chức năng cung cấp nhiên liệu, đạn dược, lương thực cho TSB.
Lớp tiếp theo: 1 tàu tuần dương (Cruiser) mang theo tên lửa dẫn đường.
Lớp tiếp nữa: 2 tàu khu trục (Destroyer) mang theo tên lửa dẫn đường.
Lớp tiếp tiếp nữa, bên dưới: 1 tàu ngầm tấn công nhanh lớp Los Angeles (LA), chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Lớp ngoài cùng, trên cao: Phi đội máy bay F/A-18F Super Hornet, bay cách TSB 460 km.


Đội hình bảo vệ tàu sân bay​

Với đội hình hạm đội trên, các tàu hộ tống và máy bay có thể đảm đương khá tốt vai trò phòng thủ và bảo vệ TSB khỏi sự tấn công của kẻ địch, phòng thủ từ trên không, trên mặt biển và thậm chí cả dưới mặt nước. Nếu như có ai đó có khả năng liên tiếp "tỉa" hết toàn bộ máy bay F/A-18F Super Hornet, tiêu diệt toàn bộ tàu khu trục, tàu tuần dương, né được hết toàn bộ tên lửa và đạn pháo, nhấn chìm được chú tàu ngầm lớp LA kia thì sẽ có cơ hội được diện kiến TSB khổng lồ, trước khi lại phải đối mặt với hàng chục chiếc máy bay tỏa ra từ con tàu vĩ đại đó. Ngoài ra, bản thân TSB còn được trang bị hệ thống phòng thủ chống ngư lôi mang tên AN/SLQ-25 Nixie cho phép nó đánh lạc hướng các quả ngư lôi đang hướng về phía mình.


Phi đội máy bay F/A-18F Super Hornet bảo vệ lớp ngoài cùng



E-2C Hawkeye



3B-Viking


EA-6B Prowler


SH-60 SeaHawk


2 lò phản ứng hạt nhân của tàu sân bay


Thang máy vận chuyển máy bay từ khoang chứa lên boong tàu


Nạp tên lửa vào ụ súng phòng không Mk-29 Sea Sparrow SAM Launcher​
 
Biển số
OF-3680
Ngày cấp bằng
7/3/07
Số km
10,837
Động cơ
663,297 Mã lực
Tuổi
50
Mig 29K là loại mới 9.41 khác hẳn với chú đời đầu 9.13 thì phải, trong khi chú Su3 không có nhiều cải tiến đáng kể ..
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
Iem làm thêm cmt nữa về Mig 29.

MiG-29К 1 chỗ ngồi (NATO gọi là Fulcrum-D) và MiG-29KUB 2 chỗ ngồi (biến thể huấn luyện-chiến đấu) là máy bay tiêm kích đa năng 1 chỗ ngồi, thế hệ 4++, dùng để thực hiện các nhiệm vụ phòng không cho các binh đoàn tàu chiến, giành ưu thế trên không, tiêu diệt các mục tiêu mặt nước, mặt đất bằng vũ khí có điều khiển chính xác cao suốt ngày đêm, trong mọi thời tiết.


MIG-29K (RIAN. Anton Denisov) MiG-29К/KUB được triển khai trên các tàu sân bay có lượng giãn nước từ 28000 tấn trở lên, được lắp cầu bật và cáp hãm đà hạ cánh, cũng như trên các sân bay trên bộ.

Tham gia chương trình MiG-29К/KUB là các hãng công nghiệp hàng không hàng đầu của Nga: ОАО Klimov (phát triển và sản xuất lô động cơ thử nghiệm RD 33МК), ОАО MMP V.V Chernyshev (sản xuất lô động cơ sản xuất loạt RD 33МК), ОАО Korporatsia Fazotron-NIIR (phát triển và sản xuất radar Zhuk-ME), Trung tâm khoa học sản xuất liên bang RPKB (tích hợp hệ thống avionics, phát triển các bộ phận của hệ thống avionics).

Lịch sử phát triển

Trên thực tế, Liên Xô/Nga đã chế tạo 2 loại máy bay tiêm kích hải quân cùng có ký hiệu MiG-29K.

Loại MiG-29K đầu tiên (ký hiệu nhà máy là izdelie 9-31) được OKB A.I. Mikoyan (nay là Trung tâm kỹ thuật OKB A.I. Mikoyan) bắt đầu phát triển máy bay tiêm kích-bom hạng nhẹ trên cơ sở MiG-29 năm 1984 để trang bị cho tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Projekt 1143.5 Tbilisi (nay là tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Đô đốc Kuztnetsov) và sử dụng song song với loại tiêm kích hạng nặng, đắt tiền hơn là Su-27К (Su-33). Đây sẽ là máy bay tiêm kích đầu tiên của Nga có khả năng cất/hạ cánh trên tàu sân bay theo cách thông thường, tức là có chạy đà cất/hạ cánh. Trước đó, Hải quân Liên Xô/Nga không có loại máy bay tương tự lẫn các tàu sân bay có thể chở chúng.

Sau khi Liên Xô sụp đổ và kinh phí cho các chương trình bị cắt giảm mạnh, Nga không tiếp tục hoàn thiện MiG-29К và Su-33 được chế tạo trong những năm 1990-1995 với số lượng 24 chiếc trở thành loại tiêm kích trên hạm thế hệ 4 duy nhất của Nga. Hiện Nga đang sử dụng 12 chiếc loại này.

Mẫu chế thử MiG-29K thực hiện chuyến bay đầu ngày 23.7.1988, bắt đầu được thử nghiệm quốc gia năm 1991, song không hoàn thành và được nhận vào trang bị vào năm 1993. 2 mẫu chế thử MiG-29К (izdelie 9-31) đã thực hiện tổng cộng hơn 420 chuyến bay, trong đó có gần 100 chuyến bay trên tàu.

Giữa thập niên 1990, Nga quay lại dự án này khi Ấn Độ muốn mua của Nga tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Projekt 1143.4 Đô đốc Gorshkov. Sau khi ký hợp đồng hiện đại hoá sân bay Đô đốc Gorshkov và cung cấp máy bay tiêm kích cho tàu này, Nga quyết định phát triển loại MiG-29К mới (ký hiệu izdelie 9-41) trên cơ sở MiG-29 tại Trung tâm kỹ thuật OKB A.I. Mikoyan vì Su-33 không phù hợp với tàu sân bay này. Máy bay tiêm kích mới có ký hiệu nhà máy là izdelie 9-41, song vẫn có tên gọi cũ là MiG-29К. MiG-29К mới là biến thể cải tiến sâu của MiG-29К mẫu 1988 (9-31).

MiG-29K mới chỉ giống với MiG-29К ban đầu ở nguồn gốc, hình dáng bên ngoài và một vài bộ phận cấu trúc và lần đầu tiên cất cánh năm 2007. Đồng thời Nga cũng bắt đầu thử nghiệm mẫu 2 chỗ ngồi MiG-29KUB. Nga tích cực phát triển MiG-29K vào năm 1999 mặc dù diện mạo của máy bay được hoàn thành từ năm 1996. Cuối thập niên 1990, Nga bắt đầu chế tạo các tổng thành đầu tiên của các MiG-29К thử nghiệm. Sau khi ký thoả thuận về việc xác định diện mạo máy bay mới, phía Ấn Độ cũng tham gia tích cực. Năm 2002 bắt đầu thử nghiệm các hệ thống và bộ phận riêng lẻ của MiG-29K. MiG-29KUB lần đầu tiên cất cánh vào tháng 1.2007. Mẫu sản xuất loạt cất cánh lần đầu tháng 3.2008.

Đặc điểm

Khác với mẫu cơ sở, MiG-29К có cánh gấp để thuận tiện triển khai trên tàu sân bay, móc hãm đà dùng để móc vào cáp khi hạ cánh, cấu trúc bộ càng và phần sau của thân được gia cường. Khung sườn chủ yếu làm bằng hợp kim nhôm-liti 01420. Máy bay có lưới để ngăn vật lạ rơi vào kênh dẫn khí của bộ hút khí để bảo vệ động cơ. Để lấy thêm khí khi cất/hạ cánh, vách dưới bộ càng chính có khoan lỗ.

Máy bay có 2 biến thể: máy bay tiêm kích trên hạm đa năng 1 chỗ ngồi MiG-29К (9-41) và máy bay tiêm kích huấn luyện-chiến đấu trên hạm đa năng 2 chỗ ngồi MiG-29KUB (9-47). 2 biến thể được tiêu chuẩn hoá hơn 90%, về trang thiết bị và vũ khí giống nhau gần như 100%. Những khác biệt cơ bản của MiG-29К so với MiG-29KUB là ở chỗ không có vị trí công tác cho phi công phía sau mà thay vào đó là thùng nhiên liệu bổ sung. Hai biến thể sử dụng cùng loại vòm kính buồng lái.

So với MiG-29, máy bay mới có các chi tiết, tổ máy tin cậy hơn, động cơ tiết kiệm hơn, tầm bay xa hơn và tải trọng chiến đấu lớn hơn. MiG-29К có khung sườn hoàn thiện hơn với tỷ lệ vật liệu composite gần 15%, có cánh gập với cơ cấu cơ khí cải tiến, độ bộc lộ thấp và hệ thống nhiên liệu có dung tích lớn hơn. Máy bay sử dụng hệ thống điều khiển điện từ xa kỹ thuật số tứ trùng, hệ thống tiếp dầu trên không. MiG-29К có thể tiếp dầu cho các máy bay khác khi được trang bị hệ thống tiếp dầu PAZ-1МК. Máy bay được trang bị 2 động cơ RD-33МК với buồng đốt không khói và hệ thống điều khiển điện tử kiểu FADEC có cấu trúc module. Động cơ có độ tin cậy cao và tuổi thọ dài hơn.

MiG-29K (RIAN. Aleksei Danichev)​
Thiết bị avionics của MiG-29К/KUB được thiết kế theo nguyên tắc cấu trúc mở theo tiêu chuẩn MIL-STD-1553B. Máy bay được lắp radar đa năng đa chế độ xung-doppler Zhuk-ME với an ten mạng khe. So với radar thế hệ trước, Zhuk-ME có góc quan sát rộng hơn theo phương vị, tầm phát hiện cao hơn gấp đôi, trọng lượng nhỏ hơn và độ tin cậy cao hơn. Zhuk-ME cho phép bám đến 10 mục tiêu bay và đồng thời dẫn tên lửa tấn công 4 mục tiêu trong số đó.

MiG-29К/KUB được trang bị trạm định vị quang học đa kênh hiện đại và hệ thống chỉ thị mục tiêu cho các đầu tự dẫn thụ động của các tên lửa chống radar. Dự kiến sẽ lắp cho máy bay các thùng chứa khí tài ngắm bắn hồng ngoại và laser để chiếu xạ mục tiêu mặt đất. Cấu trúc mở của thiết bị avionics cho phép lắp đặt cho máy bay các trang thiết bị và vũ khí mới của Nga và nước ngoài.

MiG-29К/KUB được trang bị hệ thống tự động kiểm soát và đăng ký Karat, hệ thống ghi video, hệ thống nạp nhiệm vụ bay tự động hoá vào hệ thống avionics, cũng như hệ thống tự hoạt phát điện để kiểm tra thiết bị trên mặt đất mà không phải bật các động cơ chính.

Về vũ khí, máy bay được trang bị 1 pháo lắp trong 30 mm GSh-301 và có 8 điểm treo vũ khí để lắp tên lửa có điều khiển không-đối-không, không-đối-diện, bom có điều khiển, rocket, bom không điều khiển hiện có và tương lai. MiG-29К được trang bị 8 loại tên lửa không-đối-không, trong đó có các tên lửa tiêu diệt mục tiêu ở ngoài tầm nhìn, 25 vũ khí không-đối-diện.

Tính năng kỹ-chiến thuật

Kích thước: chiều dài x sải cánh x chiều cao, m: 17,3 x 11,99 x 4,4.

Trọng lượng cất cánh: bình thường / tối đa, kg: 18550 / 24500.

Tốc độ: độ cao nhỏ / độ cao lớn, km/h: 1400 / 2200.

Tầm bay thực tế: độ cao nhỏ / độ cao lớn, km: 750 / 1650.

Tầm bay có các thùng dầu phụ, km: 2000

Tầm bay có 3 thùng dầu phụ và 1 lần tiếp dầu trên không, km: 5500

Trần bay thực tế, km: 17,5

Vũ khí

Số điểm treo vũ khí: 8.

Tên lửa không-đối-không có điều khiển:
- tầm trung: 6 RVV-AE,
- tầm ngắn: 8 R-73E.

Tên lửa không-đối-diện có điều khiển:
- chống hạm: 4 Kh-31A, Kh-35E
- chống radar: 4 Kh-31P.

Bom có điều khiển: 4 KAB-500Kr.

Pháo lắp trong: 1 GSh-301 30 m.


Tình hình sản xuất, trang bị

MiG-29K và MiG-29KUB đang được sản xuất loạt theo đơn đặt hàng của Hải quân Ấn Độ. Vào năm 2004, cùng với hợp đồng sửa chữa, nâng cấp tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov (sẽ được đặt tên là INS Vikramaditya trong biên chế Hải quân Ấn Độ), Nga cũng ký hợp đồng bán lô đầu gồm 16 MiG-29K/KUB (12 MiG-29K và 4 MiG-29KUB) để trang bị cho tàu này.

Quyết định cuối cùng về hợp đồng bị trì hoãn liên tục cho đến khi hoàn thành các thử nghiệm cất/hạ cánh trong điều kiện thực tế trên biển. Sau khi hoàn tất hiện đại hoá, tàu sân bay Đô đốc Gorshkov có thể mang theo không dưới 34 MiG-29К.

MiG-29K (armstass.su)​
Ngày 19.2.2010, lô 16 chiếc MiG-29К đầu tiên sẽ bước vào hoạt động, trong đó 6 chiếc đã đến căn cứ hải quân ở Goa và được biên chế vào phi đội "Những con báo đen" số 303, 3 chiếc nữa sắp được chuyển giao.

Ngoài ra, Ấn Độ có thể mua thêm MiG-29K/KUB để trang bị cho tàu sân bay do Ấn Độ tự đóng. Tháng 3.2010, trong thời gian Thủ tướng Nga V. Putin thăm Ấn Độ, Nga và Ấn Độ sẽ ký kết hợp đồng trị giá 1,2 tỷ USD cung cấp thêm 29 chiếc MiG-29K/KUB (25 MiG-29K và 4 MiG-29KUB) cho Ấn Độ. Quân đội Ấn Độ quyết định mua lô thứ hai MiG-29K sau khi máy bay này được thử nghiệm thành công vào cuối năm 2009 tại biển Barents trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov.

Với Hải quân Nga, MiG-29K hiện là phương án duy nhất thay thế Su-33 hiện đã lạc hậu trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov và các tàu sân bay tương lai của Nga khi Su-33 bị loại khỏi trang bị cho đến khi đưa vào trang bị biến thể trên hạm của máy bay tiêm kích thế hệ 5 T-50 (dự kiến chế tạo trước năm 2020).

Bộ Quốc phòng Nga đang dự định mua 26 MiG-29К/KUB để trang bị cho tàu sân bay duy nhất Đô đốc Kuznetsov của Nga thay thế cho Su-33. Tuy thua kém Su-33 về tầm bay và tải trọng vũ khí, MiG-29K vượt trội về trang thiết bị avionics và vũ khí nhờ có thể mang nhiều loại tên lửa không-đối-diện và bom có điều khiển.

  • Nguồn: RIAN, Lenta, Izvestia.
 

fanfan

Xe buýt
Biển số
OF-43193
Ngày cấp bằng
13/8/09
Số km
929
Động cơ
474,090 Mã lực
5 tiêm kích đa năng đình đám của tàu sân bay



Các chiến đấu cơ được trang bị cho tàu sân bay hay tàu chiến đều sử dụng tàu sân bay và tàu chiến như là một đường băng, chúng được sử dụng để tấn công các mục tiêu trên không, trên biển, dưới nước và mặt đất, hoặc thực hiện các nhiệm vụ cảnh báo sớm, do thám, tuần tra, hộ tống, thả mìn, rà phá bom mìn và hạ cánh thẳng đứng. Đây là lực lượng quan trọng để giành và giữ quyền kiểm soát, quyền làm chủ biển trên chiến trường biển.


1. Máy bay tấn công Super Hornet F/A-18E/F

F/A-18E/F là máy bay chủ lực hiện nay của tàu chiến hải quân Mỹ, là biểu tượng của sức mạnh hải quân Mỹ. Ở đâu có tàu sân bay Mỹ, ở đó không thể thiếu bóng dáng Super Hornet. Nó chủ yếu được sử dụng cho phòng không hạm đội, và có thể được sử dụng cho tấn công đối đất.

Máy bay chiến đấu Super Hornet F/A-18E/F của quân đội Mỹ.
F/A-18E/F được trang bị cho tàu sân bay dựa trên nền tảng F/A-18C. Trong đó, F/A-18E là loại 1 chỗ ngồi, còn F/A-18F là loại 2 chỗ ngồi.

So với F/A-18C/D, loại máy bay này tiếp tục kế thừa được ưu điểm là độ tin cậy và khả năng bảo vệ tốt, khả năng bay tốt và phóng vũ khí có độ chính xác cao, đồng thời đã được nâng cấp về nhiều mặt gồm: thiết kế ngoại hình theo hướng tăng cường khả năng tàng hình; trang bị radar APG-79 với khả năng định vị được xe đang di chuyển hay đứng im với phạm vi tầm bắn của vũ khí điển hình, độ chính xác đạt 0,1 - 0,3 m; hành trình và tải trọng được tăng đáng kể; khả năng tấn công chính xác vào ban đêm và khả năng tác chiến thông tin tốt hơn.

Các chủng loại vũ khí được lắp đặt trên Super Hornet F/A-18E/F.
Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 6/2002.
- Tính năng: Dài 18,31 m, cao 4,88 m, sải cánh (chứa tên lửa) 13,62 m, (gập cánh) 9,32 m, diện tích cánh 46,45 m². Trọng lượng rỗng 13.387 kg, nhiên liệu tối đa ở bên trong 6.531 kg, nhiên liệu tối đa bên ngoài 4.436 kg, khả năng tải trọng tối đa bên ngoài là 8.051 kg, trọng lượng cất cánh (nhiệm vụ tấn công) là 29.937 kg. Tốc độ bay tối đa M1.8 +, tốc độ tối đa (lực đẩy trung bình) là M1.0 +, trần bay 15.240 m, thời gian tuần tra trên không (mang 6 quả tên lửa cự ly trung bình, 3 thùng dầu phụ 1.818 lít, cách tàu sân bay 278 km) là 2 giờ 15 phút.

- Hệ thống vũ khí: 2×AIM-9 Sidewinder ở 2 đầu cánh; AIM-120 AMRAAM; AIM-7 Sparrow; AGM-84 Harpoon; AGM-88 HARM; AGM-65 Maverick; Bom AGM-154 Joint Standoff Weapon; Bom thông minh JDAM; loạt bom mục đích thông thường Mk80; CBU.

2. Máy bay chiến đấu Rafale M

Rafale là máy bay chiến đấu đa năng do công ty Dassault, Pháp nghiên cứu chế tạo cho hải quân, không quân Pháp. Loại máy bay này có 2 động cơ, cánh tam giác, có tính linh hoạt cao. Máy bay chiến đấu 1 chỗ ngỗi Rafale M thiết kế cho hải quân đã đưa vào trang bị cho tàu sân bay từ năm 1998.

Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi Rafale M của hải quân Pháp.
Rafale có thể hoàn thành các nhiệm vụ như tấn công đối đất, chiếm ưu thế trên không vào cả ban đêm và trong mọi điều kiện thời tiết. Nó có tính cơ động và nhanh nhạy cao, có thể cất cánh và hạ cánh trong cự ly ngắn, có khả năng tác chiến vượt tầm nhìn và khả năng tàng hình nhất định. Tính năng chung của nó đan xen giữa máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thế hệ thứ tư.

So với Rafale C, Rafale D, Rafale E, thì Rafale M đã có một số cải tiến về thân máy bay để thích ứng khi cất cánh, hạ cánh trên tàu sân bay. Mỗi chiếc Rafale có giá rất đắt, hiện chưa xuất khẩu. Ralafe đã tham gia không kích Libya vừa qua.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: năm 1998.
- Tính năng: Dài 15,3 m, cao 5,34 m, sải cánh 10,9 m, diện tích cánh 46 m², trọng lượng rỗng 9.060 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 21.500 kg, tốc độ tối đa 2.0 Mach, bán kính tác chiến 1.093 km.

- Hệ thống vũ khí: Được trang bị một pháo 30 mm GiatM, tốc độ phóng 2.500 phát/phút; tổng cộng có 13 giá treo ở bên ngoài (loại của không quân là 14), tải trọng (đạn dược) bình thường là 6.000 kg, tải trọng tối đa 8.000 kg; khi thực hiện nhiệm vụ đánh chặn có thể mang theo 8 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ; khi tấn công đối đất có thể mang theo 16 quả bom, 2 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ 1.300 lít.

3. Máy bay chiến đấu Su-33

Su-33 là máy bay tác chiến chủ lực của tàu sân bay Nga, đồng thời là máy bay chiến đấu hạng nặng duy nhất được trang bị cho tàu chiến trên thế giới hiện nay, có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ như giành quyền kiểm soát trên không, phòng ngự hạm đội, chi viện trên không và do thám.

Máy bay chiến đấu Su-33 đang bay với tốc độ cao.
Năm 1975, trên nền tảng Su-27, Cục Thiết kế Sukhoi của Liên Xô đã bắt đầu nghiên cứu phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến, mô hình ban đầu được đánh số là T10K. Tháng 8/1987 thực hiện chuyến bay đầu tiên, khi đó gọi là Su-27K, tháng 11/1989 lần đầu tiên được thử nghiệm trên tàu sân bay mang tên Tbilisi (tức Kuznetsov sau này), không lâu sau đổi tên thành Su-33, NATO gọi là Flanker-D. Tháng 4/1993 được trang bị cho Hải quân Nga, tháng 8/1998 chính thức được đưa vào biên chế tác chiến, hiện có 24 chiếc được trang bị cho tàu sân bay Kuznetsov của Nga.

Máy bay Su-33 trên tàu sân bay của hải quân Nga.
Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 4/1993.
- Tính năng: Sải cánh 14,7 m (gấp cánh 7,4 m), dài 21,185 m, cao 5,9 m, trọng lượng rỗng 17 tấn, tải trọng mang theo bên ngoài tối đa 6,5 tấn, trọng lượng cất cánh bình thường 29,94 tấn, tốc độ lớn nhất (cao 11.000 m so với mặt đất) 2.300 km/giờ, tốc độ tối thiểu là 240 km/giờ, tầm bay thực tế là 3.000 km, khoảng cách cất cánh (dốc 14 độ) 120 m, trọng lực G tối đa 8G.

- Hệ thống vũ khí: 1 khẩu pháo 30 mm GSh-301 (150 viên đạn); tên lửa không đối không tầm trung R-27; tên lửa không đối không tầm gần R-73; tên lửa chống hạm siêu âm cỡ lớn Kh-41 mới, vận tốc cất cánh tối đa đạt 250 km.

4. Máy bay chiến đấu MiG-29K

MiG-29K là một loại máy bay “xấu số”. Ngay từ năm 1984, chính quyền Liên Xô đã chính thức phê duyệt phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến MiG-29K trên nền tảng của máy bay chiến đấu MiG-29; năm 1989, MiG-29K đã thử nghiệm cất cánh và hạ cánh thành công trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov; đến giữa năm 1992, hai máy bay nguyên mẫu MiG-29K đã hoàn thành 420 lần cất cánh và 80 lần hạ cánh, đặt nền tảng vững chắc trang bị máy bay này cho tàu sân bay.

Máy bay chiến đấu MiG-29K
Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ, do sự chi tiêu quân sự thiếu hụt nghiêm trọng, quân đội Nga không thể đồng thời phát triển và đặt mua hai máy bay MiG-29K và Su-33. Cuối cùng, lãnh đạo quân đội Nga đành phải từ bỏ MiG-29K có bán kính tác chiến và tải trọng nhỏ hơn, quyết định sử dụng Su-33.

Năm 1996, để đáp ứng nhu cầu máy bay của hải quân Ấn Độ, nước có có thể mua tàu sân bay Đô đốc Gorshkov, công ty MiG của Nga đã đề xuất cải tiến MiG-29K nguyên mẫu thành MiG-29K mới cùng với phương án xuất khẩu loại máy bay này 2 chỗ ngồi. Năm 2009, Ấn-Nga đã ký kết một gói thỏa thuận, xuất khẩu máy bay MiG-29K cho Ấn Độ, số phận của loại máy bay này có bước ngoặt.

Đồng thời, trong nội bộ Hải quân Nga ngày càng có nhiều tiếng nói mong muốn thay thế Su-33 của tàu sân bay Kuznetsov bằng MiG-29K mới với giá thành thấp hơn, tính năng tác chiến tổng hợp mạnh hơn, diện tích chiếm dụng ít hơn. Có thể dự kiến, MiG-29K sẽ trở thành lực lượng quan trọng của không quân Hải quân Nga trong tương lai.

Máy bay MiG-29UBK của không quân Ấn Độ tiến hành thử nghiệm tiếp dầu trên không.
Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: năm 2010, phục vụ trong Hải quân Ấn Độ.
- Tính năng: Trọng lượng tối đa 22,4 tấn, động cơ là RD-33, lực đẩy là 8.300 kg, tốc độ tối đa là 2.200 km, trần bay hiệu quả là 17.500 m, phạm vi hoạt động là 1850 km; nếu chỉ mang theo 3 thùng dầu phụ, phạm vi của nó có thể đạt 3000 km; tải trọng (đạn dược) là 4,5 tấn.

- Hệ thống vũ khí: 8 loại tên lửa không đối không, gồm R-60MK và R-73E tầm gần, R-77RVV-AE tầm xa và R-27ER/ET tầm trung; về mặt chống hạm, trang bị tên lửa chống radar đầu dò thụ động Kh-31, tên lửa Kh-35 và tên lửa chống radar; về mặt tấn công đối đất, trang bị 25 loại vũ khí, gồm bom dẫn đường chính xác KA B-500KR, Kh-25ML/25MP, Kh-29T, Kh-31G/31A và Kh-35U; ngoài ra còn trang bị bom không dẫn đường, tên lửa, pháo 30 mm GS H-301, luôn sẵn sàng tác chiến với 150 viên đạn.

5. Máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler

EA-18G được công ty Boeing phát triển trên nền tảng Super Hornet F/A-18F hai chỗ ngồi, độ cong cao giúp nó có thể thực hiện rất tốt nhiệm vụ tấn công điện tử (AEA) trên sàn tàu sân bay hoặc trên mặt đất. EA-18G "Growler" có thể mang theo tên lửa không đối đất chống radar, có thể cất cánh, hạ cánh trong cự ly cực ngắn, đồng thời có khả năng gây nhiễu thiết bị điện tử và radar của đối phương. Nó sẽ thay thế EA-6B “Prowler” hiện nay của hải quân Mỹ (trang bị từ năm 1971).

Máy bay tấn công EA-18G Growler do công ty Boeing sản xuất.
"Growler" sử dụng hệ thống radar quét điện tử tiên tiến AESA, hệ thống thông tin đã được cải tiến, hệ thống hỏa lực mạnh hơn (EA-18G có 10 điểm treo vũ khí, còn EA-6B chỉ có 5 điểm treo vũ khí). Ngoài ra, EA-18G có tốc độ bay, khả năng tồn tại trên chiến trường cũng lớn hơn EA-6B.

EA-18G "Growler" có khả năng tấn công điện từ rất mạnh. Dựa vào máy thu chiến thuật ALQ-218V (2) và máy làm nhiễu điện tử chiến thuật mới ALQ-99 do công ty Northrop Grumman thiết kế, EA-18G có thể thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ áp chế của hệ thống radar tên lửa đất đối không.

Khác với trước đây, EA-18G có thể thông qua phân tích tần suất phóng tự động theo dõi tư liệu của đối tượng gây nhiễu, áp dụng “phương pháp trắc lượng can thiệp đường cơ sở dài” tiến hành định vị chính xác hơn đối với nguồn bức xạ để thực hiện “gây nhiễu theo kiểu bám sát-ngắm trúng”. Biện pháp này đã tập trung rất lớn năng lượng gây nhiễu, lần đầu đã thực hiện “tấn công chính xác” lĩnh vực phổ điện từ.

Với việc sử dụng công nghệ trên, EA-18G có thể gây nhiễu hiệu quả radar và các thiết bị điện tử khác ngoài 160 km, vượt khỏi phạm vi tấn công của bất kỳ hỏa lực phòng không nào hiện có. Không chỉ như vậy, máy thu chiến thuật ALQ-218 (2) được lắp đặt ở đầu cánh còn là hệ thống duy nhất trên thế giới có thể gây nhiễu hệ thống thông tin của đối phương trong khi bản thân nó vẫn có khả năng nghe lén điện tử.

So sánh EA-18G Growler và F/A-18F Super Hornet:

Loại máy bay EA-18G F/A-18F
Trọng tải máy bay (không tải)15.011 kg (£ 33094)14.288 kg (£ 31500)
Trọng lượng cất cánh lớn nhất29.937 kg (£ 66000)29.932 kg (£ 66000)
Dung lượng nhiên liệu bên trong6.323 kg (£ 13940) 6.780 kg (£ 14950)
Tốc độ bay tối đa > 1.6 mach > 1.6 mach
Sức đẩy của động cơ£ 44000 £ 44000
Số lượng ăng-ten 44 nhóm (mỗi nhóm có nhiều ăng-ten) 24 nhóm (mỗi nhóm có nhiều ăng-ten)
Nhân viên tổ máy 22

(Theo Mil)
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:
Thông tin thớt
Đang tải
Top