Simson (chứ không phải “Simpson” như nhiều người thường viết nhầm) - là công ty rất nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất xe gắn máy và xe ga.
Những chiếc xe đua và xe thường thời kỳ đầu
BMW100, sản phẩm đầu tay của Simson.
AWO-Simson425, nguồn cảm hứng qua nhiều thế hệ.
Được thành lập tại thành phố Suhl bởi Lob và Moses, Simson ban đầu như là một nhà máy chế tạo vũ khí. Simson bắt đầu sản xuất xe máy vào năm 1934 với nhãn hiệu BSW (viết tắt của Berlin-Suhler Waffen, nghĩa là nhà máy vũ khí Berlin-Suhler). Một trong những model do hãng này sản xuất là kiểu xe hai thì cổ BSW 100. Trong suốt thời kỳ Đức quốc xã, gia đình Simson vốn có nguồn gốc là người Do Thái bị ngược đãi và buộc phải dời bỏ đất nước còn nhà máy bị Hitler biến thành trung tâm sản xuất vũ khí. Sau khi chủ nghĩa phát xít bị lật đổ, Simson là một trong những nhà máy đầu tiên của Đức được tiếp quản bởi Xô Viết. Do đó, rất nhiều ô tô và mô tô trong DDR có nguồn gốc từ những mẫu xe tiền chiến do các hãng của Đông Đức sản xuất như Trabant, Wartburg, MZ và cả Simson. Phiên bản đầu tiên của Simson là AWO-Simson 425 – một chiếc BMW xi-lanh đơn tiền chiến đi kèm động cơ 4 thì 250cc (đặt nằm dọc) và hộp số 4 cấp.
Tiếp theo là phiên bản Sport sở hữu hệ thống giảm xóc cải tiến (cần quay sau) cùng diện mạo hoàn toàn mới với công suất 15 mã lực và tốc độ tối đa 110km/giờ. Hiện nay 425 vẫn khá phổ biến tại khu vực Đông Đức cũ. Đôi khi phiên bản này còn được sử dụng như là nền tảng để chế ra những chiếc xe kỳ quái.
Simson Sport
Simson Sport mang diện mạo mới mẻ.
Sau này, nhiều chiếc xe đua cũng lấy cảm hứng từ model AWO-Simson 425. Điển hình là model năm 1951 và 1954 có công suất 26-28 mã lực trong khi model năm 1955 với trục khuỷu tương tự “hai vị tiền bối” chỉ khác ở trục cam nắp đôi lại tạo ra công suất 30 mã lực ở vòng tua máy 9200 vòng/phút.
Model năm 1951 dựa trên mẫu AWO-Simson 425.
Model năm 1954.
Model năm 1955 cải tiến.
Từ năm 1952 - 1953, hãng Simson cho ra đời một chiếc xe đua 4 thì mới toanh mang tên RS 250 được trang bị động cơ xi-lanh đơn, trục cam nắp đôi do hộp số 6 cấp truyền động. Động cơ này được đặt tên “The Seven” theo hình dáng của đường dẫn động trục cam có khả năng tạo ra công suất 33 mã lực. Khung xe đi kèm chạc Earles và bộ giảm sốc kép.
Đến năm 1956, một model xe đua khác mang kiểu dáng rất đẹp mắt lại lại trình làng. Model này gồm động cơ 2 xi-lanh dung tích 250cc công suất 35 mã lực ở vòng tua máy 10.200 vòng/phút, hệ dẫn động theo chuỗi DOHC vàbộ khung gần giống của RS 250. Tuy nhiên, theo lệnh của chính quyền Xô Viết, việc sản xuất xe đua phải ngừng lại. Dù sao đi nữa, những sản phẩm xe đua này đã đủ chứng tỏ hãng Simson không chỉ dừng lại ở việc sản xuất những model hai thì.
Cùng thời kỳ đó, hãng Simson bắt đầu nỗ lực hết sức trong cuộc cạnh tranh cho dòng xe Enduro. Ví dụ điển hình của “cuộc chiến” này là GS 350 được độ từ model 425 với dung tích động cơ tăng lên 350cc và công suất 20 mã lực. Sản phẩm cải tiến cuối cùng của model Simson 4 thì là E-350 chế tạo năm 1960 nhưng chưa bao giờ được sản xuất hàng loạt. Đây thực sự là một điều đáng tiếc bởi E-350 mang kiểu dáng rất thanh lịch và hiện đại. Hơn thế nữa, E-350 còn là chiếc xe đầu tiên được trang bị đèn xi-nhan. Sau thời gian này, hãng Simson chuyển hẳn sang sản xuất những dòng xe rẻ và nhỏ hơn như Schwalbe công suất 2,1 mã lực và vận tốc 50 km/giờ, xe gắn máy SR-2E công suất 1,5 mã lực và S3-Star. Tất cả những model này đều được sản xuất trong khoảng giữa thập kỷ ’50 và ’60. Trong số đó, có khoảng trên 1 triệu chiếc Schwalbe xuất hiện trên thị trường.
Simson Schwalbe
Simson SR-2E
S3-Star
Còn lại những model khác đều được sản xuất từ những năm ’70 trở đi. Đáng chú ý là S-51 – chiếc xe gắn máy duy nhất còn thịnh hành tại Đông Đức cho đến khi chủ nghĩa phát xít tan rã. Chiếc xe này cũng dùng động cơ 70cc gắn cố định với duy nhất hộp số 3 hoặc 4 cấp và khung xe làm bằng một ống thép. Phiên bản enduro của S-51 (động cơ 70 hoặc 80cc) nổi bật hơn với khung xe gắn thêm ống chịu lực, hộp số 5 cấp và công suất 7,5 mã lực.
S-51 thịnh hàn nhất tại Đông Đức.
Những chiếc enduro đua vốn chỉ được sản xuất với số lượng có hạn mang nhiều đặc điểm rất khác biệt so với model thông thường. Một vài mẫu enduro trong những năm ’60-’70 được thiết kế rất độc đáo với hộp số 8 cấp có nguồn gốc từ hộp số 4 cấp thông thường kèm theo một bộ giảm tốc. Điển hình là GS 75 sản xuất năm 1976. Chiếc “xế nổ” này không chỉ là xe enduro mà còn được sử dụng làm xe đua.
GS 75 năm 1976
Từ những năm ’80, xe enduro của hãng Simson được cải tiến hoàn toàn khác. Ví dụ như chiếc GS 80 ra đời năm 1981 sở hữu động cơ làm mát bằng chất lỏng hiện đại, hộp số 6 cấp và công suất 23 mã lực. Ngoài GS 80 còn có GS 80 WKH năm 1987 hộp số 7 cấp và phiên bản năm 1990 – quán quân của giải Vô địch Thế giới và từng giành nhiều chiến thắng khi đua với enduro của TM Italia.
GS-80 ra đời năm 1981.
Phiên bản năm 1990 - "Tay đua cự phách"
Khoảng thời gian này hãng Simson đã sản xuất ra rất nhiều “tay đua kiệt xuất” như model năm 1975 động cơ 50cc độ từ chiếc xe ga Schwalbe, hộp số 6 cấp cải tiến, hệ thống làm mát bằng chất lòng, van nạp quay, công suất tối đa 16,5 mã lực. Thêm vào đó còn có mẫu xe độ từ S-51 động cơ 80cc, khung nhôm liền, bộ ba phanh đĩa và bộ giảm sốc đơn. Những “đứa con cưng” của hãng Simson trong suốt thời kỳ này tương đối rẻ và có kết cấu đơn giản. Simson SR-1 có thể chứng minh được khẳng định đó. SR-1 mang kiểu dáng gần giống những chiếc xe ga đời đầu của Italia, động cơ độ từ xe gắn máy của Simson, cần số tay và khung xe làm bằng phoi thép. Đến đầu thập kỷ ’90, do cuộc khủng hoảng hậu cộng sản những chiến thắng vinh quang bấy lâu của hãng Simson không còn đất sống.
SR-1 mang phong cách Ý.
Những model hiện nay
Sau sự sụp đổ của Đức quốc xã, hãng Simson lâm vào khủng hoảng trầm trọng do dây chuyền sản xuất lỗi thời và sản phẩm lạc hậu. Một vài mẫu xe mới cũng được tung ra như Simson AT 50 theo phong cách “Châu Phi”, Sperber 50 phanh đĩa và giảm sốc đơn, Star 50 độ từ SR-1. Bên cạnh đó, hãng Simson còn sản xuất một vài dòng xe 125cc khá thú vị cho thị trường Pháp và Đức. Một trong số đó có Schikra 125 đi kèm khung hình ống, động cơ xi-lanh đơn 4 thì làm mát bằng không khí tạo ra công suất 15 mã lực và Schwalbe được trang bị bánh xe đường kính lớn, động cơ hiện đại với hộp số tự động. Tuy nhiên quá trình sản xuất những dòng xe mới tiếp tục đình trệ trong khi model cũ chỉ được cải tiến một chút về kiểu dáng (ví dụ như S-53 phiên bản thường và enduro).
Simson 125 RS
Hiện nay, hãng Simson chỉ còn là một phần lịch sử của DDR. Mặc dù đã rất cố gắng hiện đại hóa nhưng nhà máy vẫn phải đóng cửa năm 2002 còn dây chuyền sản xuất động cơ được chuyển đến Nga. Có một điều thực sự đặc biệt là các sản phẩm của hãng Simson tuy rẻ và không có đặc điểm nào nổi bật nhưng lại rất hữu dụng đối với người dân Đức.
Theo Autosoviet
Những chiếc xe đua và xe thường thời kỳ đầu
BMW100, sản phẩm đầu tay của Simson.
AWO-Simson425, nguồn cảm hứng qua nhiều thế hệ.
Được thành lập tại thành phố Suhl bởi Lob và Moses, Simson ban đầu như là một nhà máy chế tạo vũ khí. Simson bắt đầu sản xuất xe máy vào năm 1934 với nhãn hiệu BSW (viết tắt của Berlin-Suhler Waffen, nghĩa là nhà máy vũ khí Berlin-Suhler). Một trong những model do hãng này sản xuất là kiểu xe hai thì cổ BSW 100. Trong suốt thời kỳ Đức quốc xã, gia đình Simson vốn có nguồn gốc là người Do Thái bị ngược đãi và buộc phải dời bỏ đất nước còn nhà máy bị Hitler biến thành trung tâm sản xuất vũ khí. Sau khi chủ nghĩa phát xít bị lật đổ, Simson là một trong những nhà máy đầu tiên của Đức được tiếp quản bởi Xô Viết. Do đó, rất nhiều ô tô và mô tô trong DDR có nguồn gốc từ những mẫu xe tiền chiến do các hãng của Đông Đức sản xuất như Trabant, Wartburg, MZ và cả Simson. Phiên bản đầu tiên của Simson là AWO-Simson 425 – một chiếc BMW xi-lanh đơn tiền chiến đi kèm động cơ 4 thì 250cc (đặt nằm dọc) và hộp số 4 cấp.
Tiếp theo là phiên bản Sport sở hữu hệ thống giảm xóc cải tiến (cần quay sau) cùng diện mạo hoàn toàn mới với công suất 15 mã lực và tốc độ tối đa 110km/giờ. Hiện nay 425 vẫn khá phổ biến tại khu vực Đông Đức cũ. Đôi khi phiên bản này còn được sử dụng như là nền tảng để chế ra những chiếc xe kỳ quái.
Simson Sport
Simson Sport mang diện mạo mới mẻ.
Sau này, nhiều chiếc xe đua cũng lấy cảm hứng từ model AWO-Simson 425. Điển hình là model năm 1951 và 1954 có công suất 26-28 mã lực trong khi model năm 1955 với trục khuỷu tương tự “hai vị tiền bối” chỉ khác ở trục cam nắp đôi lại tạo ra công suất 30 mã lực ở vòng tua máy 9200 vòng/phút.
Model năm 1951 dựa trên mẫu AWO-Simson 425.
Model năm 1954.
Model năm 1955 cải tiến.
Từ năm 1952 - 1953, hãng Simson cho ra đời một chiếc xe đua 4 thì mới toanh mang tên RS 250 được trang bị động cơ xi-lanh đơn, trục cam nắp đôi do hộp số 6 cấp truyền động. Động cơ này được đặt tên “The Seven” theo hình dáng của đường dẫn động trục cam có khả năng tạo ra công suất 33 mã lực. Khung xe đi kèm chạc Earles và bộ giảm sốc kép.
Đến năm 1956, một model xe đua khác mang kiểu dáng rất đẹp mắt lại lại trình làng. Model này gồm động cơ 2 xi-lanh dung tích 250cc công suất 35 mã lực ở vòng tua máy 10.200 vòng/phút, hệ dẫn động theo chuỗi DOHC vàbộ khung gần giống của RS 250. Tuy nhiên, theo lệnh của chính quyền Xô Viết, việc sản xuất xe đua phải ngừng lại. Dù sao đi nữa, những sản phẩm xe đua này đã đủ chứng tỏ hãng Simson không chỉ dừng lại ở việc sản xuất những model hai thì.
Cùng thời kỳ đó, hãng Simson bắt đầu nỗ lực hết sức trong cuộc cạnh tranh cho dòng xe Enduro. Ví dụ điển hình của “cuộc chiến” này là GS 350 được độ từ model 425 với dung tích động cơ tăng lên 350cc và công suất 20 mã lực. Sản phẩm cải tiến cuối cùng của model Simson 4 thì là E-350 chế tạo năm 1960 nhưng chưa bao giờ được sản xuất hàng loạt. Đây thực sự là một điều đáng tiếc bởi E-350 mang kiểu dáng rất thanh lịch và hiện đại. Hơn thế nữa, E-350 còn là chiếc xe đầu tiên được trang bị đèn xi-nhan. Sau thời gian này, hãng Simson chuyển hẳn sang sản xuất những dòng xe rẻ và nhỏ hơn như Schwalbe công suất 2,1 mã lực và vận tốc 50 km/giờ, xe gắn máy SR-2E công suất 1,5 mã lực và S3-Star. Tất cả những model này đều được sản xuất trong khoảng giữa thập kỷ ’50 và ’60. Trong số đó, có khoảng trên 1 triệu chiếc Schwalbe xuất hiện trên thị trường.
Simson Schwalbe
Simson SR-2E
S3-Star
Còn lại những model khác đều được sản xuất từ những năm ’70 trở đi. Đáng chú ý là S-51 – chiếc xe gắn máy duy nhất còn thịnh hành tại Đông Đức cho đến khi chủ nghĩa phát xít tan rã. Chiếc xe này cũng dùng động cơ 70cc gắn cố định với duy nhất hộp số 3 hoặc 4 cấp và khung xe làm bằng một ống thép. Phiên bản enduro của S-51 (động cơ 70 hoặc 80cc) nổi bật hơn với khung xe gắn thêm ống chịu lực, hộp số 5 cấp và công suất 7,5 mã lực.
S-51 thịnh hàn nhất tại Đông Đức.
Những chiếc enduro đua vốn chỉ được sản xuất với số lượng có hạn mang nhiều đặc điểm rất khác biệt so với model thông thường. Một vài mẫu enduro trong những năm ’60-’70 được thiết kế rất độc đáo với hộp số 8 cấp có nguồn gốc từ hộp số 4 cấp thông thường kèm theo một bộ giảm tốc. Điển hình là GS 75 sản xuất năm 1976. Chiếc “xế nổ” này không chỉ là xe enduro mà còn được sử dụng làm xe đua.
GS 75 năm 1976
Từ những năm ’80, xe enduro của hãng Simson được cải tiến hoàn toàn khác. Ví dụ như chiếc GS 80 ra đời năm 1981 sở hữu động cơ làm mát bằng chất lỏng hiện đại, hộp số 6 cấp và công suất 23 mã lực. Ngoài GS 80 còn có GS 80 WKH năm 1987 hộp số 7 cấp và phiên bản năm 1990 – quán quân của giải Vô địch Thế giới và từng giành nhiều chiến thắng khi đua với enduro của TM Italia.
GS-80 ra đời năm 1981.
Phiên bản năm 1990 - "Tay đua cự phách"
Khoảng thời gian này hãng Simson đã sản xuất ra rất nhiều “tay đua kiệt xuất” như model năm 1975 động cơ 50cc độ từ chiếc xe ga Schwalbe, hộp số 6 cấp cải tiến, hệ thống làm mát bằng chất lòng, van nạp quay, công suất tối đa 16,5 mã lực. Thêm vào đó còn có mẫu xe độ từ S-51 động cơ 80cc, khung nhôm liền, bộ ba phanh đĩa và bộ giảm sốc đơn. Những “đứa con cưng” của hãng Simson trong suốt thời kỳ này tương đối rẻ và có kết cấu đơn giản. Simson SR-1 có thể chứng minh được khẳng định đó. SR-1 mang kiểu dáng gần giống những chiếc xe ga đời đầu của Italia, động cơ độ từ xe gắn máy của Simson, cần số tay và khung xe làm bằng phoi thép. Đến đầu thập kỷ ’90, do cuộc khủng hoảng hậu cộng sản những chiến thắng vinh quang bấy lâu của hãng Simson không còn đất sống.
SR-1 mang phong cách Ý.
Những model hiện nay
Sau sự sụp đổ của Đức quốc xã, hãng Simson lâm vào khủng hoảng trầm trọng do dây chuyền sản xuất lỗi thời và sản phẩm lạc hậu. Một vài mẫu xe mới cũng được tung ra như Simson AT 50 theo phong cách “Châu Phi”, Sperber 50 phanh đĩa và giảm sốc đơn, Star 50 độ từ SR-1. Bên cạnh đó, hãng Simson còn sản xuất một vài dòng xe 125cc khá thú vị cho thị trường Pháp và Đức. Một trong số đó có Schikra 125 đi kèm khung hình ống, động cơ xi-lanh đơn 4 thì làm mát bằng không khí tạo ra công suất 15 mã lực và Schwalbe được trang bị bánh xe đường kính lớn, động cơ hiện đại với hộp số tự động. Tuy nhiên quá trình sản xuất những dòng xe mới tiếp tục đình trệ trong khi model cũ chỉ được cải tiến một chút về kiểu dáng (ví dụ như S-53 phiên bản thường và enduro).
Simson 125 RS
Hiện nay, hãng Simson chỉ còn là một phần lịch sử của DDR. Mặc dù đã rất cố gắng hiện đại hóa nhưng nhà máy vẫn phải đóng cửa năm 2002 còn dây chuyền sản xuất động cơ được chuyển đến Nga. Có một điều thực sự đặc biệt là các sản phẩm của hãng Simson tuy rẻ và không có đặc điểm nào nổi bật nhưng lại rất hữu dụng đối với người dân Đức.
Theo Autosoviet