- Biển số
- OF-620731
- Ngày cấp bằng
- 5/3/19
- Số km
- 16
- Động cơ
- 117,918 Mã lực
- Tuổi
- 36
BẢN ĐỒ QUYỀN LỰC
*******
Lão đại Hoàng Kim Vinh (Huang Jinrong) , ông trùm Thanh Bang hội Thượng Hải sinh tại Tô Châu năm 1867. Biệt danh Hoàng “mặt rỗ” (Pockmarked Huang) đeo đẳng từ khi ông ta vẫn là một cậu nhóc 5 tuổi, sau một trận đậu mùa thập tử nhất sinh vào năm 1872. Một năm sau, đó, gia đình Hoàng dọn về Thượng Hải. Hoàng theo cha, ông Hoàng Bỉnh Tuyền vào chùa công quả, vừa kiếm cơm, vừa tìm cơ hội học hành, giao du và tích lũy kinh nghiệm giang hồ.
Mãi đến năm 1890, Hoàng Kim Vinh mới được nhận làm một chân bổ khoái (cảnh sát giữ trật tự) và 2 năm sau, 1892, thì được phong bổ khoái cấp 3, coi sóc công việc cảnh sát trong một khu vực nhỏ tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Đến đó, cả quyền lực lẫn tiền bạc, Hoàng Kim Vinh đều phất lên rất nhanh. Hoàng giàu đến mức vào năm 1899 đã có thể xây hẳn một nhà hát đặt tên là Thiên Cung để làm quà tặng đẹp lòng Lộ Lan Xuân, người yêu mê hát xướng, một đào hát lừng danh, người mà sau đó một năm Hoàng sẽ cưới làm thiếp. Dãy nhà phụ của quần thể nhà hát Thiên Cung được Hoàng Kim Vinh cho bố trí lại thành dãy nhà nghỉ - nhà hàng Thiên Thống, động cung cấp gái hạng sang thuộc hàng lớn nhất thành Thượng Hải lúc bấy giờ. Đó cũng là nơi ông trùm Cảnh sát khu tô giới Pháp Thượng Hải dung dưỡng cả trăm tên tội phạm băng đảng để làm tay sai bảo kê cho các cơ sở kinh doanh và những cú áp phe thuốc phiện của mình.
Năm 1911, Hoàng tiến vượt bậc, không phải trong ngành cảnh sát, mà trong quyền lực băng đảng xã hội đen, chính thức trở thành một đầu lĩnh đời chữ Thông của Thanh Bang Hội đang oai trấn quyền lực khắp Thượng Hải và nhiều tỉnh, thành phía Đông và Đông Nam trung Quốc. Vừa là trùm giang hồ, lại vừa được trao quyền cảnh sát, quyền lực sinh sát của Hoàng Kim Vinh ở Thượng Hải có thể coi là vô đối. Khác một chút là quá trình tích lũy. Với người đời, năng lực là quyền lực. Với Hoàng “mặt rỗ” thì ngược lại. Chớ ai dại dột hoài nghi điều đó.
Chính quyền tô giới tất nhiên cũng không dại, không hoài nghi năng lực của Hoàng Kim Vinh. Năm 1917, ông trùm Thanh Bang hội được chính quyền tô giới thưởng huy chương vì có công “bảo đảm trật tự” và bổ vào chức vụ Đốc sát trưởng, đứng đầu ngành Cảnh sát của toàn Thượng Hải. Sau khi đưa cả Cảnh sát lẫn xã hội đen giúp Tưởng Giới Thạch – học trò, đại đệ tử cũ trong Thanh Bang hội – tạo nên biến cố 12-4-1927 đẫm máu đàn áp phong trào công nhân Thượng Hải, Hoàng Kim Vinh được học trò giang hồ cũ trả công, gắn cho lon Thiếu tướng, giao thêm chức vụ Tổng thám (giống như Thủ trưởng cơ quan điều tra) toàn thành. Quyền lực thật sự cả trong tối ngoài sáng, Hoàng Kim Vinh không hề kém cạnh ai, chỉ chấp nhận chia ba, vị thế thứ nhì trong tam đầu chế Thượng Hải, theo thứ tự là Đỗ Nguyệt Sênh – Hoàng Kim Vinh – Trương Tiêu Lâm. Khổ thay, Đỗ Nguyệt Sênh cũng từng là đệ tử, được Hoàng Kim Vinh thâu nạp vào Bác Cổ bang (một băng nhỏ của Thanh Bang, chuyên dùng búa), sau đó ngoi lên, thành đệ tử chân truyền và được Hoàng Kim Vinh khai ấn sơn môn, cho gia nhập hàng quyền lực đời chữ Ngộ của bang hội.
Mùa đông năm 1937, đang hồi cực thịnh, không muốn từ bỏ những nguồn lợi khổng lồ đang thâu tóm được, Hoàng đã từ chối đi theo khi Tưởng Giới Thạch rút về Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên lập Chính phủ Quốc dân kháng Nhật. Ở lại Thượng Hải, mọi chức vụ, quyền uy cũ được giữ nguyên, trong khi kẻ đứng đầu tam đầu chế giang hồ là Đỗ Nguyệt Sênh đã đi theo Tưởng, Hoàng Kim Vinh trở nên không đối thủ. Hoàng đã dùng uy thế ép người, mua rẻ 500 mẫu đất tại Thương Châu. Biết là rẻ, nhưng không bán cho Hoàng cũng không xong, thậm chí còn có nguy cơ bị quân Nhật vào mượn tiếng “trưng dụng” cướp trắng. Hoàng đắc ý, vừa vớ món hời, vừa có dịp tỏ uy, dùng quyền lực ra tay tế độ trong thời loạn lạc.
Nhưng rất bất ngờ, thương vụ sắp ngã ngũ, đột nhiên người bán đổi ý. Điều tra, Hoàng Kim Vinh phát hiện đám đất này được bán cho ông chủ Ngu Hiệp Khanh với giá 5 triệu đồng nguyên, cao hơn 25% giá Hoàng Kim Vinh đã thỏa thuận (4 triệu nguyên). Chưa đầy một năm sau, giá đất tăng ào ào. Ngu Hiệp Khanh đem bán hết toàn bộ 500 mẫu đất, thu về 9 triệu nguyên, lãi ròng 80%.
Mất món lợi quá lớn, Hoàng Kim Vinh không cam tâm. Nhưng dù đang thời xênh xang áo mão, công khai đối đầu với người đàn ông bé nhỏ, ăn mặc giản đơn kia, Hoàng cũng không thể. Đúng hơn là vừa không dại, vừa không dám. Ngu Hiệp Khanh từng oai trấn giang một thời, là cổ đông quan trọng, hoặc là ông chủ thật sự của nhà băng Kim Thành, nhãn hiệu vàng Kim Thành cùng vô số cơ sở kinh tài lớn khác, ai nghe tên cũng phải cúi đầu. Năm 1920, Ngu Hiệp Khanh là Chủ tịch Hiệp hội Công thương Thượng Hải. Trên cương vị đó, ông đã đứng ra vận động thành lập và giữ luôn chức Chủ tịch Thị trường chứng khoán Thượng Hải, nắm toàn bộ kinh tài của thành phố lớn nhất Trung Hoa. Một mẩu da trên người Ngu Hiệp Khanh lỡ xước, e là toàn bộ giới tài phiệt Thượng Hải và toàn Trung Hoa sẽ lên cơn bốc hỏa. Bất kỳ ai lỡ tay hay lỡ lời, kẻ đó cũng sẽ phải hứng chịu đòn thù thảm khốc của tất cả ông trùm trên toàn Thượng Hải cùng ra tay.
Chưa hết, Ngu Hiệp Khanh với Tưởng Giới Thạch có tình đồng hương Ninh Ba. Chính Tưởng Giới Thạch đã được Ngu Hiệp Khanh tiến dẫn, đến bái quan môn Hoàng Kim Vinh xin nhận làm đệ tử Thanh Bang, xếp thế hệ chữ Ngộ (Hoàng Kim Vinh thuộc thế hệ chữ Thông, trong bảng sắp 4 dòng bắt đầu từ thời mạt Thanh là Đại - Thông - Ngộ - Học). Từ năm 1911, Tưởng cũng đã bái nhận Ngu Hiệp Khanh làm nghĩa phụ. Khi Tưởng thay Tôn Trung Sơn lãnh đạo Quốc Dân Đảng rồi đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, hàng năm, quan viên cao cấp cả trong chính phủ lẫn đầu lĩnh ngoài giang hồ ở Thượng Hải, trước khi đến lễ Tết Tưởng Thống chế, bao giờ cũng đến thăm hỏi, vấn an Ngu Hiệp Khanh trước! Không ghi trong hiến pháp Dân Quốc hay dán sắc lệnh lên thành Thượng Hải, song lệ đó là bất biến!
Biết uy vũ trùm trời của Ngu Hiệp Khanh nên khi làm lễ Khai sơn môn, ấn định phả hệ giang hồ Thanh Bang cho Tưởng, Hoàng Kim Vinh đã không những không nhận tiền “đặt chỗ” (một thủ tục bắt buộc, số tiền thường rất lớn) mà còn tặng Tưởng thêm 9000 đồng Nguyên (số đẹp), gọi là để chúc phúc hanh thông. Sau sự biến 12- 4 - 1927, Hoàng Kim Vinh đã thửa lễ, đến gặp Tưởng…bái trả, xóa lời nguyền phả hệ, trả quan hệ thầy trò để trở thành đồng đạo giang hồ. Hoàng Kim Vinh làm thế để phòng xa, giữ thể diện cho Tưởng, cùng Đỗ Nguyệt Sênh đồng nhận về cái lon Thiếu tướng nhỏ nhoi, hữu danh vô thực, tránh phải tự chuốc lấy tai vạ. Dĩ nhiên, trong uy thế giang hồ, hành động đó của Hoàng Kim Vinh cũng không khác gì đã thừa nhận xem Ngu Hiệp Khanh thuộc hàng thúc phụ.
Biết, nhưng giận quá hóa ngu, Hoàng Kim Vinh vẫn quyết định "tá đao sát nhân", làm một quả “phất phiến đông phong” (vẩy quạt gió đông) phạt Ngu Hiệp Khanh cho bõ tức. Dù sao lúc này cả Tưởng Giới Thạch lẫn Đỗ Nguyệt Sênh đều đang tạm lui về Trùng Khánh, mối nguy bị trừng phạt chưa hiện hữu ngay trước mặt.
Hoàng Kim Vinh sai thủ hạ thân tín tên là Từ A Ninh tìm Thẩm Bát, một tay rất giỏi trong nghề ám sát, thủ tiêu, bắt cóc tống tiền, thủ hạ của Tư lệnh phòng thủ Ninh Ba Vương Kỳ Nam thương lượng nhưng không để lộ cho Vương Kỳ Nam biết, thuê Thẩm bắt cóc tống tiền Ngu Hiệp Khanh. Điều này không quá khó. Ngu Hiệp Khanh luôn tin rằng cả đất Thượng Hải không có ai dám nghĩ đến chuyện dám làm ông ta rụng một cọng lông. Ra đường, Ngu Hiệp Khanh không hề mang theo bất kỳ vệ sĩ nào. Thỉnh thoảng, Ngu xếnh xáng còn tự mình lái xe, thích đâu ghé đấy không theo quy luật nào cả.
Một ngày giữa tháng 11-1938, Ngu Hiệp Khanh rời trụ sở Ngân hàng Kim Thành. Trời hửng, tuyết không rơi, hứng lên, Ngu xếnh xáng bèn cho tài xế về, còn ông thì rảo bộ loanh quanh một lúc cho đỡ chồn chân, tận hưởng khí trời. Thẩm Bát và hai tên đàn em theo dõi đã nhiều ngày, chỉ chờ có thế, đã dí súng vào lưng “mời” Ngu tiên sinh lên xe của chúng đang nổ máy sẵn. Lên xe, Ngu Hiệp Khanh phản ứng. Ông lập tức bị tên tài xế quay lại nện một báng súng ngắn vào đầu. Bất chấp kẻ thất thế là ai, ông bị trói, bị đánh, bất tỉnh. Xe lập tức nổ máy phóng vút đi.
Tuy đã già nhưng bản lĩnh giang hồ của Ngu Hiệp Khanh vẫn còn khá nhanh nhạy và cứng cỏi. Tỉnh dậy, thấy xe của ba tên vô lại đã dừng tại một khu vắng vẻ, Ngu Hiệp Khanh bèn chủ động ngọt lạt: “Đâu cần phải mạnh tay với lão già này như thế. Có khó khăn gì, anh em cứ nói. Ngu mỗ đây có trót đắc tội điều gì cũng xin xí xóa, mời anh em về khách sạn làm một chầu tẩy trần và có dịp hàn huyên. Nghe giọng, chắc chúng ta đều đồng hương Ninh Ba cả!”.
Nghe con mồi khéo léo nhắc chữ “đồng hương”, Thẩm Bát dịu giọng: “Mưa gió tơi bời, kiếm sống khó quá. Phiền tiên sinh giúp chúng tôi một ít. Chừng này thôi” - Vừa nói Thẩm Bát vừa giơ 4 ngón tay.
Ngu Hiệp Khanh nén đau, cười nhẹ: “Bốn vạn à?”
Thẩm Bát trở lại giọng cô hồn, huỵch toẹt: “Bắt cóc một đại phú như Ngu tiên sinh mà chỉ đòi có 4 vạn thì chẳng bõ giắt răng. Tiên sinh cứ...mạnh dạn nhân mười lên cho!”
Ngu Hiệp Khanh lại cười, lắc đầu: “Chỉ thế thôi sao? Cởi trói, theo ta về nhà lấy tiền. Ngu mỗ xin biếu anh em mỗi người ba mươi vạn. Đừng ngại. Kẻ hèn này cũng từng hoành đao tam quan lục cảng, thấu hiểu lý lẽ giang hồ. Lừa anh em vô bẫy vì non trăm vạn bạc, để tiếng bỉ côn sất phu, Ngu mỗ tuyệt đối không nghĩ đến”.
Thẩm Bát cảnh giác: “Thật không dám phiền, tiên sinh cứ ngồi nghỉ, chỉ cần viết cho người nhà mấy chữ, người anh em của tôi sẽ tự tìm đến nhà xin.”
Ngu Hiệp Khanh lấy ngay giọng bề trên, hai tay đang bị trói cũng cố vỗ vỗ, lắc lắc người cho chùm chìa khóa bên thắt lưng kêu lạch xạch, cười lạt: “Khóa nhà, khóa tủ…ta mang theo đây cả. Vàng, ngân phiếu thì nhiều, nhưng tiền mặt thì chắc không đủ. Anh em lấy bao nhiêu cũng được, nhưng để anh em phải cầm ngân phiếu, có khác gì ta làm khó đẩy anh em vào chỗ chết vì dễ lộ, tiêu làm sao được? Chi bằng cả bốn chúng ta đến khách sạn của bạn ta, uống chén rượu nhạt, ta sẽ lấy tiền mặt của người bạn gửi cho anh em. Đi cả 4 người, chắc anh em không lo bị gạt chứ?”.
Im lặng từ đầu buổi, gã lái xe bất ngờ lên tiếng: “Tụi tôi có bề gì, toàn bộ biệt thự Tam Bắc với cả 3 đời tông tộc của tiên sinh chắc cũng không giữ được một mảnh nguyên. Xin tiên sinh cứ cho địa chỉ.”
Đến nơi, tiệc bày trên tầng 3. Ngu Hiệp Khanh nói với chủ khách sạn: “Phiền bằng hữu Lục Liên Khuê cho mượn 90 vạn để Ngu mỗ giúp anh em đồng hương đang có chuyện cần”.
Cố ý nhắc tên chủ nhà, Ngu Hiệp Khanh đã giáng cho ba kẻ bắt cóc tống tiền một đòn chí mạng. Lục Liên Khuê đang là Trưởng phòng Tuần bổ khu 13, Tô giới Pháp, khét danh giang hồ như một đao phủ chưa từng run tay. Lục Trưởng thám coi như đã rõ mặt ba tên uống mật gấu. Giờ thì tính mạng chúng đã nằm gọn trong tay của Ngu xếnh xáng và chỉ cần ông ta ho một tiếng.
Nhưng Ngu Hiệp Khanh không ho, vẫn cười nói tự nhiên, cố ý không biết đến chuyện ba khẩu súng ngắn đạn đã lên nòng đang chĩa vào ông ở dưới gầm bàn, vẫn liên tục tiếp rượu, thức ăn cho ba thích khách. Tiền được chủ khách sạn đưa lên không thiếu một đồng. Ba thích khách phân vân, ra khỏi bàn tiệc bằng cách nào đây? Ngu Hiệp Khanh lại mở cho lối thoát: “Đồng hương vất vả ghé thăm, tiếc là không có thời gian ghé tệ xá của ta hàn huyên vài bữa, thật ngại quá. Thôi, uống xong chén rượu, cho phép mỗ tiễn anh em ra cảng Thập Lục”.
Đến cảng, Ngu Hiệp Khanh lại mua ba vé tàu thủy hạng nhất tặng. Trong khi chờ tàu, nạn nhân lại mời cả ba tên vào quán trà Vạn Thanh nổi tiếng, vốn là của ông chủ Hoàng Kim Vinh mở, giao cho em ruột Hoàng Trung Thư quản lý. Ngồi thưởng thức trà Long Tỉnh, Ngu Hiệp Khanh tỏ ra thân tình bằng giọng bề trên: “Là bằng hữu, không biết thì thôi. Đã biết thì không cần cố chấp, sau này cần gì cứ điện thoại, viết thư hay ghé tệ xá, Ngu mỗ tuyệt đối không chối từ, không cần động dao động súng gây kinh động. Chiếc xe cần gửi ở đâu, anh em cứ cho biết, bản mổ sẽ cho người lo giúp”.
Bản lĩnh cao cường của Ngu Hiệp Khanh đã hoàn toàn khiến ba tên đao búa thúc thủ, cứ ngỡ Ngu Hiệp Khanh là…. Đại bang chủ của chúng chứ không phải nạn nhân. Gã lái xe khai luôn: “Xe mượn của Công ty Hoàng Bao. Cứ để trên bến khắc có người đến đem về, không cần trả”.
Khi họ đang nói chuyện, bất ngờ Kim Cửu Lâm, một đệ tử Hoàng Kim Vinh xuất hiện, ngạc nhiên và mừng rỡ: “Thẩm Bát đại ca đến Thượng Hải bao giờ? Sao không cho đệ biết để nghênh đón”.
Sau màn tiễn biệt, người cháu tên là Ngu Bưu được Ngu Hiệp Khanh điện thoại phái đi theo dõi đã về báo lại: “Đến lấy xe là Kim Trung Thư, cháu họ của Hoàng Kim Vinh”.
Vậy là quá đủ, Ngu Hiệp Khanh chẳng cần điều tra thêm nữa.
Nhưng chưa hết. Ân tình được đền đáp. Thẩm Bát và tay chân lấy được tiền trên cả mong đợi mà không hề bị trừng phạt đã viết thư gửi Ngu Hiệp Khanh xin khấu đầu tạ tội. Thư khai rõ: “Đắc tội với tiên sinh là do chủ ý của Tổng thám Hoàng Kim Vinh, thuê với giá 20 vạn trong số tiền lấy được. Mong tiên sinh bảo trọng”.
Áp tết năm 1939, Ngu Hiệp Khanh đã một mình đền thăm họ Hoàng trước khi Hoàng kịp đến vấn an theo thông lệ. Hoàng Kim Vinh sửng sốt, tim đập thình thịch, căng thẳng và sợ hãi đến mức nhãn áp tăng muốn lồi tròng mắt khi Ngu Hiệp Khanh đưa bức thư và các chứng cứ ra, đòi Hoàng Kim Vinh cùng mình đi Nam Kinh một chuyến, cùng gặp Tưởng Giới Thạch nhờ phân xử. Hoàng Kim Vinh luôn mồm kêu oan, luôn mồm thề sẽ triệu những kẻ liên quan đến để Ngu Hiệp Khanh tùy ý trừng trị. Hoàng Kim Vinh cố chứng minh là do các đệ tử Kim Trung Thư, Kim Cửu Lâm….quen Thẩm Bát nên đã vô tình cho mượn xe. Kế hoạch hoàn toàn do Thẩm Bát nghĩ ra. Hoàng không liên quan, cũng chưa từng biết Thẩm Bát là ai, nhưng để đệ tử vô tình dính líu, cũng xin bồi hoàn mọi thiệt hại.
Ngu Hiệp Khanh không gật, không lắc, bảo: “Làm khó Hoàng tiên sinh đức cao vọng trọng, thật bản mỗ không nỡ. Nhưng đã đến nước này, tin vào tiên sinh, bản mỗ e cũng không thể”.
Bí đường, Hoàng Kim Vinh đành dụng hạ sách khổ nhục kế. Để tỏ ra thành thật, Hoàng “mặt rỗ” xin vào trong, mở tủ lấy ra một chiếc tráp bạc lớn, đặt lên bàn trước mặt Ngu Hiệp Khanh. Từ tốn mở tráp, Hoàng run run lấy ra hai khẩu súng ngắn đã lắp sẵn đạn, tự kê vào hai đùi, bóp cò. Hoàng tự bắn vỡ tung hai đùi mình, máu tuôn lênh láng nhưng vẫn từ chối không dám để Ngu Hiệp Khanh giúp đưa đi bệnh viện, nằm quằn quại chờ bác sĩ riêng đến mổ gắp đạn và băng bó cho ngay tại phòng khách.
Ngu Hiệp Khanh không đổi thế ngồi, tay vẫn bình thản đặt trên hai đầu gối, chỉ nhìn thao tác của Hoàng Kim Vinh chằm chằm không chớp mắt. Thấy đối thủ đã đã sợ, tự trừng phạt nên Ngu Thị không nhắc thêm chuyện, chỉ từ tốn đứng lên, bảo: “Để Hoàng Tiên sinh phải quá lo lắng, bản mỗ thật không an lòng. Thật ngại. Cũng không đáng là bao, Hoàng Tiên sinh cũng không cần nói câu vay trả, cứ để tiền đó trị thương”.
Ngu Hiệp Khanh sau đó quả nhiên giữ lời, không hề đề cập chuyện này với Tưởng Giới Thạch. Nhưng Hoàng Kim Vinh vẫn sợ nên đến ngày tàn của Quốc Dân Đảng năm 1949, Hoàng cũng không dám theo Tưởng và Ngu Hiệp Khanh chạy sang Đài Loan. Theo Đỗ Nguyệt Sênh sang Hồng Kông, Hoàng cũng e khó toàn mạng, bởi ở đất mới, chính Đỗ mới đích thực là ông trùm. Không chừng, Hoàng lão đại còn không chịu nỗi “gió máy dọc đường đi” mà chết bất đắc kỳ tử.
Bốn năm sau ngày Thượng Hải lọt về tay quân Cộng Sản, nghe theo lời khuyên của Phó thị trưởng quân quản Thịnh Chính Hoa, Hoàng Kim Vinh đã tự động viết một bản tự bạch dài nguyên cuốn vở học trò, tự tố cáo hết tội ác, mánh khóe giang hồ của bản thân trong suốt mấy chục năm. Viết xong vẫn cứ sợ, giữa năm 1953, Hoàng Kim Vinh đột ngột lăn ra chết, dù chẳng đau ốm gì cả!
Với cái chết của ông trùm duy nhất còn ở lại, Thanh Bang hội làm mưa làm gió Thượng Hải một thời đến đó xem như bị tuyệt diệt.
-NHL-
*******
Lão đại Hoàng Kim Vinh (Huang Jinrong) , ông trùm Thanh Bang hội Thượng Hải sinh tại Tô Châu năm 1867. Biệt danh Hoàng “mặt rỗ” (Pockmarked Huang) đeo đẳng từ khi ông ta vẫn là một cậu nhóc 5 tuổi, sau một trận đậu mùa thập tử nhất sinh vào năm 1872. Một năm sau, đó, gia đình Hoàng dọn về Thượng Hải. Hoàng theo cha, ông Hoàng Bỉnh Tuyền vào chùa công quả, vừa kiếm cơm, vừa tìm cơ hội học hành, giao du và tích lũy kinh nghiệm giang hồ.
Mãi đến năm 1890, Hoàng Kim Vinh mới được nhận làm một chân bổ khoái (cảnh sát giữ trật tự) và 2 năm sau, 1892, thì được phong bổ khoái cấp 3, coi sóc công việc cảnh sát trong một khu vực nhỏ tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Đến đó, cả quyền lực lẫn tiền bạc, Hoàng Kim Vinh đều phất lên rất nhanh. Hoàng giàu đến mức vào năm 1899 đã có thể xây hẳn một nhà hát đặt tên là Thiên Cung để làm quà tặng đẹp lòng Lộ Lan Xuân, người yêu mê hát xướng, một đào hát lừng danh, người mà sau đó một năm Hoàng sẽ cưới làm thiếp. Dãy nhà phụ của quần thể nhà hát Thiên Cung được Hoàng Kim Vinh cho bố trí lại thành dãy nhà nghỉ - nhà hàng Thiên Thống, động cung cấp gái hạng sang thuộc hàng lớn nhất thành Thượng Hải lúc bấy giờ. Đó cũng là nơi ông trùm Cảnh sát khu tô giới Pháp Thượng Hải dung dưỡng cả trăm tên tội phạm băng đảng để làm tay sai bảo kê cho các cơ sở kinh doanh và những cú áp phe thuốc phiện của mình.
Năm 1911, Hoàng tiến vượt bậc, không phải trong ngành cảnh sát, mà trong quyền lực băng đảng xã hội đen, chính thức trở thành một đầu lĩnh đời chữ Thông của Thanh Bang Hội đang oai trấn quyền lực khắp Thượng Hải và nhiều tỉnh, thành phía Đông và Đông Nam trung Quốc. Vừa là trùm giang hồ, lại vừa được trao quyền cảnh sát, quyền lực sinh sát của Hoàng Kim Vinh ở Thượng Hải có thể coi là vô đối. Khác một chút là quá trình tích lũy. Với người đời, năng lực là quyền lực. Với Hoàng “mặt rỗ” thì ngược lại. Chớ ai dại dột hoài nghi điều đó.
Chính quyền tô giới tất nhiên cũng không dại, không hoài nghi năng lực của Hoàng Kim Vinh. Năm 1917, ông trùm Thanh Bang hội được chính quyền tô giới thưởng huy chương vì có công “bảo đảm trật tự” và bổ vào chức vụ Đốc sát trưởng, đứng đầu ngành Cảnh sát của toàn Thượng Hải. Sau khi đưa cả Cảnh sát lẫn xã hội đen giúp Tưởng Giới Thạch – học trò, đại đệ tử cũ trong Thanh Bang hội – tạo nên biến cố 12-4-1927 đẫm máu đàn áp phong trào công nhân Thượng Hải, Hoàng Kim Vinh được học trò giang hồ cũ trả công, gắn cho lon Thiếu tướng, giao thêm chức vụ Tổng thám (giống như Thủ trưởng cơ quan điều tra) toàn thành. Quyền lực thật sự cả trong tối ngoài sáng, Hoàng Kim Vinh không hề kém cạnh ai, chỉ chấp nhận chia ba, vị thế thứ nhì trong tam đầu chế Thượng Hải, theo thứ tự là Đỗ Nguyệt Sênh – Hoàng Kim Vinh – Trương Tiêu Lâm. Khổ thay, Đỗ Nguyệt Sênh cũng từng là đệ tử, được Hoàng Kim Vinh thâu nạp vào Bác Cổ bang (một băng nhỏ của Thanh Bang, chuyên dùng búa), sau đó ngoi lên, thành đệ tử chân truyền và được Hoàng Kim Vinh khai ấn sơn môn, cho gia nhập hàng quyền lực đời chữ Ngộ của bang hội.
Mùa đông năm 1937, đang hồi cực thịnh, không muốn từ bỏ những nguồn lợi khổng lồ đang thâu tóm được, Hoàng đã từ chối đi theo khi Tưởng Giới Thạch rút về Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên lập Chính phủ Quốc dân kháng Nhật. Ở lại Thượng Hải, mọi chức vụ, quyền uy cũ được giữ nguyên, trong khi kẻ đứng đầu tam đầu chế giang hồ là Đỗ Nguyệt Sênh đã đi theo Tưởng, Hoàng Kim Vinh trở nên không đối thủ. Hoàng đã dùng uy thế ép người, mua rẻ 500 mẫu đất tại Thương Châu. Biết là rẻ, nhưng không bán cho Hoàng cũng không xong, thậm chí còn có nguy cơ bị quân Nhật vào mượn tiếng “trưng dụng” cướp trắng. Hoàng đắc ý, vừa vớ món hời, vừa có dịp tỏ uy, dùng quyền lực ra tay tế độ trong thời loạn lạc.
Nhưng rất bất ngờ, thương vụ sắp ngã ngũ, đột nhiên người bán đổi ý. Điều tra, Hoàng Kim Vinh phát hiện đám đất này được bán cho ông chủ Ngu Hiệp Khanh với giá 5 triệu đồng nguyên, cao hơn 25% giá Hoàng Kim Vinh đã thỏa thuận (4 triệu nguyên). Chưa đầy một năm sau, giá đất tăng ào ào. Ngu Hiệp Khanh đem bán hết toàn bộ 500 mẫu đất, thu về 9 triệu nguyên, lãi ròng 80%.
Mất món lợi quá lớn, Hoàng Kim Vinh không cam tâm. Nhưng dù đang thời xênh xang áo mão, công khai đối đầu với người đàn ông bé nhỏ, ăn mặc giản đơn kia, Hoàng cũng không thể. Đúng hơn là vừa không dại, vừa không dám. Ngu Hiệp Khanh từng oai trấn giang một thời, là cổ đông quan trọng, hoặc là ông chủ thật sự của nhà băng Kim Thành, nhãn hiệu vàng Kim Thành cùng vô số cơ sở kinh tài lớn khác, ai nghe tên cũng phải cúi đầu. Năm 1920, Ngu Hiệp Khanh là Chủ tịch Hiệp hội Công thương Thượng Hải. Trên cương vị đó, ông đã đứng ra vận động thành lập và giữ luôn chức Chủ tịch Thị trường chứng khoán Thượng Hải, nắm toàn bộ kinh tài của thành phố lớn nhất Trung Hoa. Một mẩu da trên người Ngu Hiệp Khanh lỡ xước, e là toàn bộ giới tài phiệt Thượng Hải và toàn Trung Hoa sẽ lên cơn bốc hỏa. Bất kỳ ai lỡ tay hay lỡ lời, kẻ đó cũng sẽ phải hứng chịu đòn thù thảm khốc của tất cả ông trùm trên toàn Thượng Hải cùng ra tay.
Chưa hết, Ngu Hiệp Khanh với Tưởng Giới Thạch có tình đồng hương Ninh Ba. Chính Tưởng Giới Thạch đã được Ngu Hiệp Khanh tiến dẫn, đến bái quan môn Hoàng Kim Vinh xin nhận làm đệ tử Thanh Bang, xếp thế hệ chữ Ngộ (Hoàng Kim Vinh thuộc thế hệ chữ Thông, trong bảng sắp 4 dòng bắt đầu từ thời mạt Thanh là Đại - Thông - Ngộ - Học). Từ năm 1911, Tưởng cũng đã bái nhận Ngu Hiệp Khanh làm nghĩa phụ. Khi Tưởng thay Tôn Trung Sơn lãnh đạo Quốc Dân Đảng rồi đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, hàng năm, quan viên cao cấp cả trong chính phủ lẫn đầu lĩnh ngoài giang hồ ở Thượng Hải, trước khi đến lễ Tết Tưởng Thống chế, bao giờ cũng đến thăm hỏi, vấn an Ngu Hiệp Khanh trước! Không ghi trong hiến pháp Dân Quốc hay dán sắc lệnh lên thành Thượng Hải, song lệ đó là bất biến!
Biết uy vũ trùm trời của Ngu Hiệp Khanh nên khi làm lễ Khai sơn môn, ấn định phả hệ giang hồ Thanh Bang cho Tưởng, Hoàng Kim Vinh đã không những không nhận tiền “đặt chỗ” (một thủ tục bắt buộc, số tiền thường rất lớn) mà còn tặng Tưởng thêm 9000 đồng Nguyên (số đẹp), gọi là để chúc phúc hanh thông. Sau sự biến 12- 4 - 1927, Hoàng Kim Vinh đã thửa lễ, đến gặp Tưởng…bái trả, xóa lời nguyền phả hệ, trả quan hệ thầy trò để trở thành đồng đạo giang hồ. Hoàng Kim Vinh làm thế để phòng xa, giữ thể diện cho Tưởng, cùng Đỗ Nguyệt Sênh đồng nhận về cái lon Thiếu tướng nhỏ nhoi, hữu danh vô thực, tránh phải tự chuốc lấy tai vạ. Dĩ nhiên, trong uy thế giang hồ, hành động đó của Hoàng Kim Vinh cũng không khác gì đã thừa nhận xem Ngu Hiệp Khanh thuộc hàng thúc phụ.
Biết, nhưng giận quá hóa ngu, Hoàng Kim Vinh vẫn quyết định "tá đao sát nhân", làm một quả “phất phiến đông phong” (vẩy quạt gió đông) phạt Ngu Hiệp Khanh cho bõ tức. Dù sao lúc này cả Tưởng Giới Thạch lẫn Đỗ Nguyệt Sênh đều đang tạm lui về Trùng Khánh, mối nguy bị trừng phạt chưa hiện hữu ngay trước mặt.
Hoàng Kim Vinh sai thủ hạ thân tín tên là Từ A Ninh tìm Thẩm Bát, một tay rất giỏi trong nghề ám sát, thủ tiêu, bắt cóc tống tiền, thủ hạ của Tư lệnh phòng thủ Ninh Ba Vương Kỳ Nam thương lượng nhưng không để lộ cho Vương Kỳ Nam biết, thuê Thẩm bắt cóc tống tiền Ngu Hiệp Khanh. Điều này không quá khó. Ngu Hiệp Khanh luôn tin rằng cả đất Thượng Hải không có ai dám nghĩ đến chuyện dám làm ông ta rụng một cọng lông. Ra đường, Ngu Hiệp Khanh không hề mang theo bất kỳ vệ sĩ nào. Thỉnh thoảng, Ngu xếnh xáng còn tự mình lái xe, thích đâu ghé đấy không theo quy luật nào cả.
Một ngày giữa tháng 11-1938, Ngu Hiệp Khanh rời trụ sở Ngân hàng Kim Thành. Trời hửng, tuyết không rơi, hứng lên, Ngu xếnh xáng bèn cho tài xế về, còn ông thì rảo bộ loanh quanh một lúc cho đỡ chồn chân, tận hưởng khí trời. Thẩm Bát và hai tên đàn em theo dõi đã nhiều ngày, chỉ chờ có thế, đã dí súng vào lưng “mời” Ngu tiên sinh lên xe của chúng đang nổ máy sẵn. Lên xe, Ngu Hiệp Khanh phản ứng. Ông lập tức bị tên tài xế quay lại nện một báng súng ngắn vào đầu. Bất chấp kẻ thất thế là ai, ông bị trói, bị đánh, bất tỉnh. Xe lập tức nổ máy phóng vút đi.
Tuy đã già nhưng bản lĩnh giang hồ của Ngu Hiệp Khanh vẫn còn khá nhanh nhạy và cứng cỏi. Tỉnh dậy, thấy xe của ba tên vô lại đã dừng tại một khu vắng vẻ, Ngu Hiệp Khanh bèn chủ động ngọt lạt: “Đâu cần phải mạnh tay với lão già này như thế. Có khó khăn gì, anh em cứ nói. Ngu mỗ đây có trót đắc tội điều gì cũng xin xí xóa, mời anh em về khách sạn làm một chầu tẩy trần và có dịp hàn huyên. Nghe giọng, chắc chúng ta đều đồng hương Ninh Ba cả!”.
Nghe con mồi khéo léo nhắc chữ “đồng hương”, Thẩm Bát dịu giọng: “Mưa gió tơi bời, kiếm sống khó quá. Phiền tiên sinh giúp chúng tôi một ít. Chừng này thôi” - Vừa nói Thẩm Bát vừa giơ 4 ngón tay.
Ngu Hiệp Khanh nén đau, cười nhẹ: “Bốn vạn à?”
Thẩm Bát trở lại giọng cô hồn, huỵch toẹt: “Bắt cóc một đại phú như Ngu tiên sinh mà chỉ đòi có 4 vạn thì chẳng bõ giắt răng. Tiên sinh cứ...mạnh dạn nhân mười lên cho!”
Ngu Hiệp Khanh lại cười, lắc đầu: “Chỉ thế thôi sao? Cởi trói, theo ta về nhà lấy tiền. Ngu mỗ xin biếu anh em mỗi người ba mươi vạn. Đừng ngại. Kẻ hèn này cũng từng hoành đao tam quan lục cảng, thấu hiểu lý lẽ giang hồ. Lừa anh em vô bẫy vì non trăm vạn bạc, để tiếng bỉ côn sất phu, Ngu mỗ tuyệt đối không nghĩ đến”.
Thẩm Bát cảnh giác: “Thật không dám phiền, tiên sinh cứ ngồi nghỉ, chỉ cần viết cho người nhà mấy chữ, người anh em của tôi sẽ tự tìm đến nhà xin.”
Ngu Hiệp Khanh lấy ngay giọng bề trên, hai tay đang bị trói cũng cố vỗ vỗ, lắc lắc người cho chùm chìa khóa bên thắt lưng kêu lạch xạch, cười lạt: “Khóa nhà, khóa tủ…ta mang theo đây cả. Vàng, ngân phiếu thì nhiều, nhưng tiền mặt thì chắc không đủ. Anh em lấy bao nhiêu cũng được, nhưng để anh em phải cầm ngân phiếu, có khác gì ta làm khó đẩy anh em vào chỗ chết vì dễ lộ, tiêu làm sao được? Chi bằng cả bốn chúng ta đến khách sạn của bạn ta, uống chén rượu nhạt, ta sẽ lấy tiền mặt của người bạn gửi cho anh em. Đi cả 4 người, chắc anh em không lo bị gạt chứ?”.
Im lặng từ đầu buổi, gã lái xe bất ngờ lên tiếng: “Tụi tôi có bề gì, toàn bộ biệt thự Tam Bắc với cả 3 đời tông tộc của tiên sinh chắc cũng không giữ được một mảnh nguyên. Xin tiên sinh cứ cho địa chỉ.”
Đến nơi, tiệc bày trên tầng 3. Ngu Hiệp Khanh nói với chủ khách sạn: “Phiền bằng hữu Lục Liên Khuê cho mượn 90 vạn để Ngu mỗ giúp anh em đồng hương đang có chuyện cần”.
Cố ý nhắc tên chủ nhà, Ngu Hiệp Khanh đã giáng cho ba kẻ bắt cóc tống tiền một đòn chí mạng. Lục Liên Khuê đang là Trưởng phòng Tuần bổ khu 13, Tô giới Pháp, khét danh giang hồ như một đao phủ chưa từng run tay. Lục Trưởng thám coi như đã rõ mặt ba tên uống mật gấu. Giờ thì tính mạng chúng đã nằm gọn trong tay của Ngu xếnh xáng và chỉ cần ông ta ho một tiếng.
Nhưng Ngu Hiệp Khanh không ho, vẫn cười nói tự nhiên, cố ý không biết đến chuyện ba khẩu súng ngắn đạn đã lên nòng đang chĩa vào ông ở dưới gầm bàn, vẫn liên tục tiếp rượu, thức ăn cho ba thích khách. Tiền được chủ khách sạn đưa lên không thiếu một đồng. Ba thích khách phân vân, ra khỏi bàn tiệc bằng cách nào đây? Ngu Hiệp Khanh lại mở cho lối thoát: “Đồng hương vất vả ghé thăm, tiếc là không có thời gian ghé tệ xá của ta hàn huyên vài bữa, thật ngại quá. Thôi, uống xong chén rượu, cho phép mỗ tiễn anh em ra cảng Thập Lục”.
Đến cảng, Ngu Hiệp Khanh lại mua ba vé tàu thủy hạng nhất tặng. Trong khi chờ tàu, nạn nhân lại mời cả ba tên vào quán trà Vạn Thanh nổi tiếng, vốn là của ông chủ Hoàng Kim Vinh mở, giao cho em ruột Hoàng Trung Thư quản lý. Ngồi thưởng thức trà Long Tỉnh, Ngu Hiệp Khanh tỏ ra thân tình bằng giọng bề trên: “Là bằng hữu, không biết thì thôi. Đã biết thì không cần cố chấp, sau này cần gì cứ điện thoại, viết thư hay ghé tệ xá, Ngu mỗ tuyệt đối không chối từ, không cần động dao động súng gây kinh động. Chiếc xe cần gửi ở đâu, anh em cứ cho biết, bản mổ sẽ cho người lo giúp”.
Bản lĩnh cao cường của Ngu Hiệp Khanh đã hoàn toàn khiến ba tên đao búa thúc thủ, cứ ngỡ Ngu Hiệp Khanh là…. Đại bang chủ của chúng chứ không phải nạn nhân. Gã lái xe khai luôn: “Xe mượn của Công ty Hoàng Bao. Cứ để trên bến khắc có người đến đem về, không cần trả”.
Khi họ đang nói chuyện, bất ngờ Kim Cửu Lâm, một đệ tử Hoàng Kim Vinh xuất hiện, ngạc nhiên và mừng rỡ: “Thẩm Bát đại ca đến Thượng Hải bao giờ? Sao không cho đệ biết để nghênh đón”.
Sau màn tiễn biệt, người cháu tên là Ngu Bưu được Ngu Hiệp Khanh điện thoại phái đi theo dõi đã về báo lại: “Đến lấy xe là Kim Trung Thư, cháu họ của Hoàng Kim Vinh”.
Vậy là quá đủ, Ngu Hiệp Khanh chẳng cần điều tra thêm nữa.
Nhưng chưa hết. Ân tình được đền đáp. Thẩm Bát và tay chân lấy được tiền trên cả mong đợi mà không hề bị trừng phạt đã viết thư gửi Ngu Hiệp Khanh xin khấu đầu tạ tội. Thư khai rõ: “Đắc tội với tiên sinh là do chủ ý của Tổng thám Hoàng Kim Vinh, thuê với giá 20 vạn trong số tiền lấy được. Mong tiên sinh bảo trọng”.
Áp tết năm 1939, Ngu Hiệp Khanh đã một mình đền thăm họ Hoàng trước khi Hoàng kịp đến vấn an theo thông lệ. Hoàng Kim Vinh sửng sốt, tim đập thình thịch, căng thẳng và sợ hãi đến mức nhãn áp tăng muốn lồi tròng mắt khi Ngu Hiệp Khanh đưa bức thư và các chứng cứ ra, đòi Hoàng Kim Vinh cùng mình đi Nam Kinh một chuyến, cùng gặp Tưởng Giới Thạch nhờ phân xử. Hoàng Kim Vinh luôn mồm kêu oan, luôn mồm thề sẽ triệu những kẻ liên quan đến để Ngu Hiệp Khanh tùy ý trừng trị. Hoàng Kim Vinh cố chứng minh là do các đệ tử Kim Trung Thư, Kim Cửu Lâm….quen Thẩm Bát nên đã vô tình cho mượn xe. Kế hoạch hoàn toàn do Thẩm Bát nghĩ ra. Hoàng không liên quan, cũng chưa từng biết Thẩm Bát là ai, nhưng để đệ tử vô tình dính líu, cũng xin bồi hoàn mọi thiệt hại.
Ngu Hiệp Khanh không gật, không lắc, bảo: “Làm khó Hoàng tiên sinh đức cao vọng trọng, thật bản mỗ không nỡ. Nhưng đã đến nước này, tin vào tiên sinh, bản mỗ e cũng không thể”.
Bí đường, Hoàng Kim Vinh đành dụng hạ sách khổ nhục kế. Để tỏ ra thành thật, Hoàng “mặt rỗ” xin vào trong, mở tủ lấy ra một chiếc tráp bạc lớn, đặt lên bàn trước mặt Ngu Hiệp Khanh. Từ tốn mở tráp, Hoàng run run lấy ra hai khẩu súng ngắn đã lắp sẵn đạn, tự kê vào hai đùi, bóp cò. Hoàng tự bắn vỡ tung hai đùi mình, máu tuôn lênh láng nhưng vẫn từ chối không dám để Ngu Hiệp Khanh giúp đưa đi bệnh viện, nằm quằn quại chờ bác sĩ riêng đến mổ gắp đạn và băng bó cho ngay tại phòng khách.
Ngu Hiệp Khanh không đổi thế ngồi, tay vẫn bình thản đặt trên hai đầu gối, chỉ nhìn thao tác của Hoàng Kim Vinh chằm chằm không chớp mắt. Thấy đối thủ đã đã sợ, tự trừng phạt nên Ngu Thị không nhắc thêm chuyện, chỉ từ tốn đứng lên, bảo: “Để Hoàng Tiên sinh phải quá lo lắng, bản mỗ thật không an lòng. Thật ngại. Cũng không đáng là bao, Hoàng Tiên sinh cũng không cần nói câu vay trả, cứ để tiền đó trị thương”.
Ngu Hiệp Khanh sau đó quả nhiên giữ lời, không hề đề cập chuyện này với Tưởng Giới Thạch. Nhưng Hoàng Kim Vinh vẫn sợ nên đến ngày tàn của Quốc Dân Đảng năm 1949, Hoàng cũng không dám theo Tưởng và Ngu Hiệp Khanh chạy sang Đài Loan. Theo Đỗ Nguyệt Sênh sang Hồng Kông, Hoàng cũng e khó toàn mạng, bởi ở đất mới, chính Đỗ mới đích thực là ông trùm. Không chừng, Hoàng lão đại còn không chịu nỗi “gió máy dọc đường đi” mà chết bất đắc kỳ tử.
Bốn năm sau ngày Thượng Hải lọt về tay quân Cộng Sản, nghe theo lời khuyên của Phó thị trưởng quân quản Thịnh Chính Hoa, Hoàng Kim Vinh đã tự động viết một bản tự bạch dài nguyên cuốn vở học trò, tự tố cáo hết tội ác, mánh khóe giang hồ của bản thân trong suốt mấy chục năm. Viết xong vẫn cứ sợ, giữa năm 1953, Hoàng Kim Vinh đột ngột lăn ra chết, dù chẳng đau ốm gì cả!
Với cái chết của ông trùm duy nhất còn ở lại, Thanh Bang hội làm mưa làm gió Thượng Hải một thời đến đó xem như bị tuyệt diệt.
-NHL-