Em xin góp vui 1 bài về motocross cổ! Khai sinh motocross :
Từ năm 1924 đến 1939 không có nhiều nghiên cứu lịch sử về dòng xe môtô-cross. Trong thời kỳ ấy những ấn bản thường kỳ tại Châu Âu và Mỹ viết rất nhiều về thể thao xong lại không có tài liệu hữu ích nào về môtô-cross. Có một số hình ảnh có chú thích trên các sách vở khác nhưng chủ yếu là sách nghệ thuật và có rất ít các văn bản lịch sử. Dường như những sử gia về xe máy cũng đã phải tin rằng nguồn gốc của những chiếc Môtô-cross đã chìm vào lớp sương mù của thời gian. Có một số giả thiết cho rằng cái tên “motocorss” nguyên bản đó bắt nguồn từ nước Pháp.
Những chiếc xe máy đầu tiên là những chiếc xe nhỏ gần giống với một chiếc xe đạp và được gắn với những động cơ đốt trong.Vào đầu thế kỷ những nhà sản xuất xe máy thường tổ chức các cuộc đua để cạnh tranh sản phẩm trước đông đảo công chúng. Các cuộc đua thể hiện tính bền bỉ của xe và phô trương nhãn hiệu của nhà sản xuất. Trong thời kì đó đôi khi các cuộc đua xe máy được diễn ra trên những đường đua của xe đạp. Những cuộc đua được chú ý nhất vẫn là những cuộc đua mang tính thử nghiệm khả năng của chiếc xe. Không như đua môtô-cross ngày nay ở Mỹ, với những trường đua và ụ dốc ngắn khoảng và quãng đường chỉ vài dặm. Những chiếc xe ngày đó phải chịu những sự thử thách khắc nghiệt trên những con đường xù xì những ngọn đồi với quãng đường hàng trăm dặm và thời gian là cho một cuộc đua là hai đến sáu ngày.Trong những cuộc đua như thế ngoài khả năng của chiếc xe thì người điều kiển cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Ở nước Anh sớm có những sự cuộc kiểm tra các tay đua về cả kỹ thuật điều khiển lẫn phong cách biểu diễn.Các thử thách đối với các tay đua trên những đoạn đường khó hoặc trướng ngại được quan sát và đánh giá bởi các nhà chuyên môn. Một trong những giải đua sớm nhất là Scott Trial được tài bởi nhà máyYorkshire một nhà máy thiết kế động cơ và xe máy ở Scott. Nhà máy này được thành lập từ năm 1909 bởi kỹ sư Alfred Angus. Từ việc phối hợp với những cuộc đi chơi hàng năm cho công nhân của mình. Ông ta đã lựa trọn những con đường phía bắc nước Anh để thực hiện những chuyến đi này bằng mô tô. Với các loại địa hình bùn lầy, núi đá và suối cạn. Tốc độ không còn là mục tiêu hướng tới của những tay đua. Họ sẽ được đánh giá khi vượt qua từng chặng đua và ghi điểm qua những lần vượt trướng ngại gặp phải trên đường. Người chiến thắng là người ít mắc lỗi và có thời gian hoàn thành chặng đua trong thời gian ngắn nhất.
Scott Trial đã trở thành một sự kiện có uy thế và từ trước những năm 1920 những tay đua ở Yorkshire đã có được sự đánh giá cao nhất ở Anh. Nhưng… những người miền nam không muốn chấp nhận điều này.Và một câu lạc bộ được thành lập ở thị trấn Camberly phía nam nước Anh . Đình hướng của câu lạc bộ là xây dựng một mô hình thi đấu có độ khó địa hình bằng nhau sao cho các tay đua của các vùng có thể kiểm tra những kinh nghiệm đã có và thử thách với các địa hình mới. Tuy vậy câu lạc bộ địa phương này đã quyết định đón tiếp các tay đua vùng khác với vòng đua băng đồng 2.5 dặm. Với tốc độ là nhân tố chính và không có các điểm quan sát như ở Yorkshire. Những tờ báo viết về mô tô hoan nghênh ý tưởng này nhưng Liên Hiệp ô tô xe máy Anh lại thấy có vấn đề. Vì không có những chỗ để quan sát gần và chấm điểm trực tiếp nên cuộc đua không còn mang màu sắc Trial nữa mà nó phải được thừa nhận dưới một cái tên khác,
Trong lúc đang tìm một cái tên phù hợp cho giải đua này một thành viên của câu lạc bộ đã nói “Bất cứ chúng ta gọi sự kiện này như thế nào, nó sẽ là sự kiện đua môt tô trên địa hình hiếm có nhất”.Từ đó sự kiện này được chính thức có tên là Southern Scott Scramble, và vào ngày 29 tháng 3 năm 1924 hình thức đua mô tô thể thao địa hình được sinh ra.
Có 80 tay đua bắt đầu và 40 người kết thúc được chặng đua. Không giống với đua motocross hiện đại.Trong các cuộc đua thời đó từng tay đua sẽ xuất phát từng thời điểm khác nhau trong suốt vòng đua. Tuy nhiên vì những con dốc cao và mặt đường không hề bằng phẳng đã làm họ bị dồn lại trên đường đua và khó có thể tiếp tục cuộc chơi nhưng điều này lại đem lại cho khán giả sự hào hứng và kích động. Người thắng cuộc là tay đua Arthur Sparks, người đã kết thúc 50 dặm trong 2 giờ một phút và 51 giây. Anh ta nói đùa rằng anh chiến thắng là nhờ bánh xe quay được và có lẽ xe đã đi hơn 100 dặm trước khi về đích. Frank Dean tay đua tốt nhất phương bắc lúc đó chỉ đứng thứ 3. Nhưng những kết quả của Camberly Heath không đủ để làm giảm bớt đi những cuộc tranh luận về các tay đua. Và các vòng đua khác vẫn tiếp tục.
Sử gia Bryan Stealey đã viết về môtô-cross như sau “Đua xe địa hình nhanh chóng được đón nhận như một vấn đề lớn của cả hai miền trên eo biển Anh (gồm nước Anh và nước Pháp). Người Pháp nắm bắt hình dạng mới của những chiếc mô tô này và làm cho nó nhỏ gọn lại.Cùng với việc rút ngắn đường đua, thêm vào những chướng ngại nhân tạo khó khăn hơn, tăng số vòng đua và thay đổi cho môn thể thao này cái tên mới là “motocross”. Đây là một sự kết hợp giữa hai từ “motorcycle” và “cross country”. Trong thời gian này các đường đua dài ở nước Anh cũng dần thay đổi cho kiểu đua môtô-cross hiện đại. Nhưng con đường này được rút ngắn nhiều khúc cua hơn và có chỗ cho người xem có thể bao quát cuộc đua.
Trong những năm 1930. Mô tô đua trở thành đại chúng ở Anh với các hãng nổi tiếng như BSA, Norton, Matchless, New Imperial, Rudge, và AJS. Những hãng xe này và đội đua của họ đã tạo ra những tay đua tài năng. Người ta có thể cho rằng BSA là đội tốt nhất trong các đội đua, những tay đua của họ đã thống trị các đường đua trong những năm 1930 và được coi là thế hệ vàng của môtô-cross nước Anh. Đến năm 1939 khi chiến tranh thế giới bùng nổ các cuộc đua bị hạn chế những sau đó lại được phục hồi ở nước Anh và đi ra thế giới năm 1947.
Motocross đến với quốc tế từ năm 1947 đến 1965
Cộc đại suy thoái gây hậu quả khác nhau tới những chiếc mô tô tại Anh và tại Mỹ. Trong thời gian đó ở Mỹ những chiếc ô tô Ford giá rẻ đã chiếm lĩnh thị trường vận tải làm ngành công nhiệp mô tô gần như biến mất vào những năm 1930. Nhưng ở Anh đâu đâu cũng có xe mô tô và sidecar( xe ba bánh), những phương tiện này thường dùng để vận chuyển hàng hóa cá nhân. Sự phổ biến của những chiếc xe đã lan sang lĩnh vực thể thao. Những người đam mê xe cộ thường tụ tập tại các địa điểm như Red Marley, Rushmere, Donington, và Lilleshall để xem những anh hùng mô tô của họ biểu diễn trên những chiếc xe như BSA, Norton, Ariel, Matchlesse, New Imperial, Velocette, Rudge, Cotton, AJS và những hãng khác.
Động cơ của những chiếc xe đua không lớn như những chiếc xe đi trên đường phố. Những chiếc xe này còn được trang bị giảm xóc sau khá vững chắc để có thể chèo đèo lội suối. Thật ra đường đua không phải lúc nào cũng gồ ghề đôi khi các cuộc đua lại được tổ chức trên đường mịn giống như thể loại supermotard ngày nay. Nhưng những cuộc đua mô tô địa hình đã thực sự bắt đầu vào năm 1924 và tiếp tục phát triển trên thế giới.
Những cuộc đua phải dừng lại vào năm 1939 khi quân Đức xâm chiếm Ba lan và bắt đầu chiến tranh thế giới thứ 2. Tuy nền kinh tế của Anh cùng với những nước khác ở cả châu Âu đều đi xuống nhưng nền công nghiệp mô tô vẫn không hề suy thoái. Những chiếc xe được sản xuất để có thể dầm mưa dãi gió với sự khắc nghiệt của chiến tranh khi phục vụ trong quân đội. Ngoài ra chúng vẫn có lợi ích trong việc vận tải và bưu chính của Anh.
Chính trong kỷ nguyên này BSA đã trở thành nhà sản xuất xe máy lớn nhất trên thế giới. Mặc dù nhiên liệu, sao su và tiền đều khó khăn cho sản xuất mô tô thể thao nhưng những chiếc xe vẫn được xuất sưởng do niềm đam mê mô tô thể thao của đại chúng. Lúc bấy giờ nó đã vượt lên trên toàn lục địa nơi mà nó được người Pháp đặt cho cái tên “motocross”. Những thiết kế cũng như công nghệ chế tạo những chiếc xe mô tô BSA trong thời gian này đã đặt một nền tảng chung cho công nghệ chế tạo mô tô cho cả châu Âu sau khi các quan hệ chính trị đã chở lại bình thường. Đến những năm 50 xe mô tô là nguồn lợi lớn thứ ba của nước Anh chỉ sau ô tô và rượu whiskey.
Giải đua motocross quốc tế đầu tiên
Vào năm 1947 Liên đoàn xe máy quốc gia Hà Lan quyết định tổ chức một cuộc đua Môtô-cross tại một vùng gần Duinrell, Hà Lan. Ngoài chủ nhà còn có hai nước tham gia là Anh và Bỉ. Mỗi đội đua cử ra hai tay đua để hoàn thành hai lần 8 vòng đua với tổng chiều dài hai dặm. Kết quả cộng thời gian của từng tay đua sẽ là điểm của cả đội. Trên những chiếc BSA 500cc và Ariels 497 cc đội đua nước Anh đã dành được chiến thắng trước đội Bỉ với 9 giây.
Đây là một sự kiện bắt đầu cho bộ môn thể thao môtô-sross quốc tế. Nó đã trở thành điển hình và ảnh hưởng tới cuộc đua thứ hai được tổ chức tại La Fraineuse nước Bỉ với 30.000 khán giả đã có mặt để được chiêm ngưỡng những tay đua đẳng cấp thế giới.
Môn thể thao này đã được hỗ trợ bởi ngành công nghiệp mô tô, đặc biệt là hãng BSA, nước Anh nhanh chóng thiết lập được tính cạnh tranh trong ngành sản xuất mô tô cũng như các tay đua chuyên nghiệp. Trong vòng 20 năm đầu của môtô-cross thế giới đội BSA đã chiến thắng đến 15 lần. Những chiếc xe của BSA được thiết kế và sản xuất là loại 4 thì. Mẫu xe này được một số hãng khác sao chép mẫu mã như Husqvarna, Monark, và FN. Với hộp số và một vài bộ phận khác được thiết kế rất tốt cho xe thể thao nên những thiết kế đó được ứng dụng rộng khắp ở các mẫu xe của các nước khác.
Do tính cạnh tranh cao của các cuộc đua những chiếc xe đã được cải tiến với hệ giảm xóc pis-tông từ nhưng năm 1930 và có kết cấu giảm xóc trước khủy tay trong những năm 1950 vài năm trước đó nó đã được ứng dụng trong những chiếc xe dân dụng (MZ trophy).
Như những môn thể thao có lợi nhuận và mang tính cạnh tranh cao, vào năm 1952 Hội đồng quản trị môt tô châu Âu (FIM) đã tổ chức Giải vô địch toàn Châu Âu và nâng cấp nó thành một giải đua World Championship vào năm 1957. Những tay đua người Anh với kinh nghiệm chơi theo đội tuy nhiên trong môi trường cạnh tranh cá nhân họ cũng gặp phải những khó khăn từ những tay đua khác trên thế giới.
Vào những năm đầu của giải vô địch châu Âu, tay đua John Draper đã chiến thắng với chiếc BSA vào năm 1955 và Les Archer đã chiến thắng với chiếc Norton năm 1956. Những tay đua của Bỉ như Victor Leloup,Auguste Mingels và Rene Braeton chiếm được ưu thế và giành được vị chí thứ nhất và thứ hai vào năm 1952,1953 và 1954.Tương tự như vậy từ 1957 đến 1965 những tay đua Bỉ và Thụy Điển lại chiếm ưu thế trong khuôn khổ World Championship với loại xe 500cc. Những năm 1964 và 1965 khi tay đua người Anh Jeff Smith chiếm lại được danh hiệu vô địch thì các tay đua Thụy Điển Bill Nilsson, Sten Lundin, và Rolf Tibblin cũng chiếm được hai danh hiệu cá nhân trong những năm đó. Ngoại trừ năm 1958 tay đua Braeton người Bỉ lại có được danh hiệu vô địch này.
Thời kỳ Ánh sáng:
Những thiết kế mới đã làm cải thiện sức mạnh động cơ. Loại động cơ hai thì 250cc có từ năm 1924 lại quay trở lại với dòng xe thể thao này. Vào năm 1958 FIM tổ chức giải vô địch châu Âu cho dòng xe 2 thì 250cc, và nâng cấp giải đua này thành một giải vô địch thế giới vào năm 1962.
Những nhãn hiệu được lựa chọn trong các giải đua này thường là Jawa CZ của Tiệp Khắc, Husqvarna của Thụy Điển, và Greeves của Anh. Những chiếc xe này đã bộc lộ được những ưu điểm đáng kể đó là nhanh và nhẹ. Những nhà chế tạo mô tô bắt đầu quay lại với những công nghệ chế tạo máy bay từ Chiến tranh thế giới thứ 2 với mục tiêu mới là Nhanh và Nhẹ.
Anh em nhà Rickman ở Southampton đã là những người đầu tiên sử dụng hợp kim Crôm trong hệ khung ống có tên Metisse của họ. Hãng BSA cũng đã thử nghiệm loại khung Titanium tuy nhiên chúng không được ứng dụng trong cả thập kỷ sau đó.
Hãng Husqvarna được biết đến chủ yếu là sản xuất vũ khí và máy khâu và suất nhập khẩu xe gắn máy từ những năm đầu thế kỷ. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 nhu cầu vận tải cá nhân của những người khá giả đã thúc đẩy hãng này quay lại thị trường. Để tăng thêm tiềm lực bán hàng Husqvarna muốn có một loại xe máy có thể bán cho người trẻ tuổi. Để phù hợp với luật pháp của Thụy Điển những chiếc xe Silver Pilen (Mũi tên bạc)175cc có trọng lượng tiêu chuẩn phù hợp với thanh thiếu niên. Husqvarna sử dụng hợp kim nhẹ cho khung, moay-ơ, giảm xóc, vành và lốc máy. Từ đó Thụy Điển nhanh chóng tìm ra những tay đua trẻ tài năng và có thể tập luyện để có thể đua với những chiếc xe 250cc. Trong những năm đó một kỹ sư trẻ người Đông Đức đã đạt được một đột phá về kỹ thuật về động cơ hai thì và điều này đã làm nổ ra một cuộc cách mạng về công nghệ chế tạo mô tô trên toàn thế giới. Walter Kaaden người đã từng làm việc cho hãng DKW trước chiến tranh thế giới và làm cho những chiếc MZ có vị trí cạnh tranh trong những cuộc đua quốc tế. Khi nghiên cứu hàm điều hòa anh ta khám phá nguyên lý buồng giãn nở. Khi buồng đốt được tạo dáng đúng mức có thể tức thời tăng thêm hơn 25 phần trăm sức mạnh động cơ.Với việc thí nghiệm và cải tiến xi-lanh cũng như kết cấu van đĩa quay đã cho động cơ hai thì một tỷ lệ vượt trội giữa sức mạnh và trọng lượng hơn so với động cơ bốn thì. Ngoài ra chi phí sản xuất một động cơ hai thì rẻ hơn nhiều so với động cơ bốn thì. Do những lợi thế như vậy các nước có nền công nghiệp mô tô lúc đó như Đức, Tiệp Khắc, Anh, Thụy Điển, Tây Ban Nha và Nhật Bản nhanh chóng đi theo hướng này
Năm 1963 Husqvarna bắt đầu sản xuất có giới hạn những chiếc môt tô đua có động cơ hai thì hợp kim nhẹ. Những chiếc mô tô này đã cùng với người Thụy Điển tạo ra một làn sóng motocross tràn ra ngoài châu Âu và tiến vào nước Mỹ.