Xây trên nền san hô, nền đất bùn yếu với mực nước sâu hàng chục mét, những nhà giàn DK1 đã trở thành "làng trên biển", được đánh giá là công trình phi thường, "chưa từng có tiền lệ trên thế giới".
Hơn 20 năm trước, PGS.TS Phạm Ngọc Nam (nguyên Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật Công binh) được giao nhiệm vụ cùng với đồng nghiệp thiết kế Trạm dịch vụ Kinh tế Khoa học Kỹ thuật (công trình nhà giàn DK1). Đôi mắt xa xăm, đôi tay run run lật giở từng trang "Nhật ký đời biển – DK1", ông Nam cho biết, các nhà giàn chốt giữ trên bãi san hô ngầm ở thềm lục địa phía Nam, khu đặc quyền kinh tế, thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nơi rất giàu tài nguyên của đất nước.
"Đây là tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, Trung ương ****, trong đó có sự đề xuất của Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương khi ấy, và DK1 là đỉnh cao của chiến lược phòng thủ biển, bảo vệ đất nước từ hướng biển", ông Nam nói.
Theo vị Chủ nhiệm thiết kế công trình DK1, từ năm 1985, Đô đốc Cương đã dự báo trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên và sẽ là chiến trường chính của Hải quân Việt Nam. Hơn nữa, thực tiễn chiến tranh vệ quốc của dân tộc, đối phương tấn công ta phần lớn là từ đường biển nên cần bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ hướng biển.
Ý tưởng xây dựng nhà nổi được Đô đốc Cương trình lên Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Ý tưởng được thông qua, ông Nam được giao làm chủ nhiệm thiết kế. Ngày 6/11/1988, đoàn khảo sát đã vượt sóng ra thềm lục địa để thăm dò.
Ông Nam nhà giàn kể chuyện xây dựng những ngôi làng trên biển.
Để đảm bảo tính chính xác trong tính toán, ông Nam cũng mời nhiều cơ quan tham gia tính toán độc lập nhau để đối chứng, tăng độ tin cậy. Ngoài ra, nhóm cũng kiểm tra đến từng chi tiết đến tổng thể công trình về độ bền, ổn định, dao động, chuyển vị, độ bền từng nút, công phu…
“Công trình DK1 đã có sức mạnh tổng hợp từ đông đảo các nhà khoa học, các trung tâm tính toán công trình biển của cả nước tham gia đối với hai loại nền mới lạ trái ngược nhau là nền đá san hô và nền có lớp bùn mặt dày lớn”, ông Nam cho biết.
Để xây dựng được nhà giàn trên nền san hô cũng như nền có lớp bùn rất dày, ông đã dùng phương án móng cọc thép mà không dùng móng trọng lực hay khi gia cường nâng cấp công trình là loại móng cọc kết hợp với gia trọng. Ông đã sáng tạo ra kết cấu cọc đặc biệt để có thể đóng được vào nền đá san hô, quả búa cũng phải tương thích 18 tấn hoặc 30 tấn. Thời điểm đó Việt Nam có hai tàu lớn là Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu Hoàng Sa có sức cẩu 1.200 tấn, tàu Trường Sa có hai móc cẩu, cùng lúc cẩu được 600 tấn và đầu máy có công suất khoảng 15.000 mã lực, sàn rộng 54m, dài 170m.
Sau gần 7 tháng khảo sát và chuẩn bị, ngày 10/6/1989, nhà giàn đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần trụ giữa biển Đông với tư cách là “cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”. Tiếp sau đó, công trình DK1/1 được thi công tại bãi Tư Chính ngày 27/6/1989. Khối hạ tầng, chân đế do ban quản lý công trình Dầu khí thiết kế, liên doanh dầu khí Việt - Xô thi công. Tại đây, cọc chỉ đóng vào nền đá san hô sâu được 2-2,5m do chưa tương ứng về mấu và cọc. Khối nhà ở, thượng tầng do ông Nam thiết kế, xí nghiệp X49 Bộ Tư lệnh công binh thi công.
Hai công trình DK1/3,4 do Bộ Giao thông Vận tải thiết kế, xây dựng năm 1989 với phần hạ tầng bằng phương án trọng lực. Thượng tầng (nhà ở) do TS Nguyễn Xuân Kiên thiết kế, X49 thi công. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố hai công trình này chỉ đáp ứng yêu cầu chính trị mà người chưa ở được.
"Do lần đầu tiên xây dựng công trình trên biển, đối mặt với những dòng chảy dữ dội, những đợt sóng thần, những bất thường về khí tượng thủy văn, dòng hải lưu, thăm dò thực tế còn thiếu nên chúng tôi đã gặp phải không ít khó khăn", ông Nam nói.
Nối tiếp thành công của những nhà giàn đầu tiên, đơn vị thiết kế và thi công của ông Nam tiếp tục rút kinh nghiệm để xây dựng thành công các nhà giàn tiếp theo. Công trình DK1 sau được thiết kế thấp hơn để tránh bị rung lắc khi có sóng và có bãi đáp máy bay được thiết kế trên nóc nhà. Các nhà giàn từ chỗ không có điện đến có điện bằng năng lượng mặt trời, thiết bị thu sóng vô tuyến, có thùng xốp trồng rau xanh…
DK1/5,6 tiếp tục được xây dựng ở đảo ngầm Tư Chính, Phúc Nguyên. Khi thi công hai nhà giàn này, bộ đội ta đã phải đứng giữa ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết. Khi đang cẩu lắp chân đế, đóng cọc thì bão ập tới, văng, giật, lắc liên hồi. Sau 22 giờ vật lộn với sóng gió, đơn vị thi công cũng chỉ cẩu xong được 4 cọc (bình thường thì cẩu - thả một cọc vào ống chân đế chỉ mất 30 phút). Sau khi thả cọc vào ống chân đế là công đoạn đóng cọc. Việc đóng được cọc vào nền đá san hô chính là mấu chốt thành công của công trình DK1.
Người chủ nhiệm thiết kế nhà giàn vẫn nhớ như in, khoảng 23h ngày 26/10/1990, một tàu nước ngoài đã xông thẳng vào đội hình ta đang thi công. Trước tình huống nguy cấp, tàu Hải quân hộ tống đoàn thi công đã bắn cảnh cáo, buộc tàu lạ chạy ra xa khoảng 5 hải lý.
Vượt lên mọi khó khăn, các nhà giàn tiếp nối từ DK1/7 đến DK1/21 được dựng lên ở các bãi Huyền Trân, Quế Đường đến Cà Mau. Từ nhà giàn đầu tiên, đến nay chúng ta đã đóng được hàng chục cọc với độ sâu đến vài chục mét theo yêu cầu thiết kế.
Vì là công trình xây dựng trên bãi đá ngầm ở biển nên ngoài việc chống ăn mòn, nhóm thiết kế và thi công phải luôn luôn kiểm tra, bảo trì, duy tu, bảo dưỡng định kỳ bằng lực lượng tại công trình và chuyên trách hợp lý. Ngoài ra, còn phải gia cố, nâng cấp công trình DK1 phù hợp với tình hình mới.
Mới đây, nhà giàn Phúc Nguyên, DK1/15 mới được xây dựng bên cạnh nhà giàn cũ. Đây là nhà giàn thế hệ thứ ba có kết cấu vững chắc, liên hoàn vởi diện tích khoảng 250m2. Sự vượt trội của nhà giàn mới so với nhà giàn xây dựng trước đó là hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời nhiều gấp 3 lần. Mùa mưa bão không có ánh mặt trời, hoặc sương mù, các chiến sĩ vẫn có điện dùng để chiếu sáng, nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem ti vi trong một tháng, trong đó các nhà giàn khác chỉ khoảng 10 ngày.
"DK1 là công trình được xây dựng ở những khu vực đặc biệt đặc thù mới lạ, cả trong nước và thế giới đều chưa có tiền lệ, được nhiều nhà khoa học danh tiếng đánh giá là 'phi thường', công trình dũng khí’. Không chỉ có ý nghĩa to lớn về chính trị, quốc phòng, an ninh, DK1 còn mở ra tương lai tươi sáng cho việc chinh phục biển vốn còn non trẻ của nước ta", người thiết kế nhà giàn nói.
Sừng sững giữa biển khơi với những chiếc chân cắm sâu vào lòng biển, 20 nhà giàn DK1 của Việt Nam đang hiên ngang giữa đất trời, là cột mốc sống, tạo thành phên giậu, khẳng định chủ quyền đất nước trên biển Đông. Các trạm dịch vụ kinh tế khoa học kỹ thuật này cũng được gọi là "những ngôi làng trên biển", "khách sạn giữa biển Đông" hay “mắt thần trên biển”.
Các bác cùng xem chùm ảnh về nhà giàn của chúng ta :
Hiện nay, Việt Nam có 20 công trình DK1 trên biển. Bên cạnh những nhà giàn được xây từ thế hệ đầu tiên, nhà giàn thế hệ thứ ba với những cải tiến vượt bậc cũng đã hoàn thành. Trong ảnh là hai nhà giàn DK1/15 cũ và mới được nối với nhau. Sự vượt trội của nhà giàn mới là kết cấu vững chắc, liên hoàn với diện tích lớn. Hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời nhiều gấp 3 lần so với nhà giàn cũ. Mùa mưa bão không có ánh mặt trời, hoặc sương mù, các chiến sĩ vẫn có điện dùng để chiếu sáng, nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem tivi suốt một tháng, trong khi các nhà giàn cũ chỉ được khoảng 10 ngày.
Ba công trình DK1 được thi công và hoàn thành năm 1989. Từng bộ phận của nhà giàn được cẩu và lắp ghép trên bãi cạn san hô giữa biển.
Để vận chuyển các bộ phận của nhà giàn ra vị trí thi công, thời điểm đầu chúng ta có hai tàu Hoàng Sa và Trường Sa với với sức cẩu của Hoàng Sa đạt 1.200 tấn, Trường Sa 600 tấn và đầu máy có công suất 15.000 mã lực.
Các mối nối công trình phải được làm chắc chắn và cẩn thận. Đây là mối nối công trình DK1/6.
Trong quá trình thi công, bộ đội công binh phải đối mặt với sóng to, gió lớn, thậm chí bão và sóng thần. Như khi thi công công trình DK1/5, 6 bộ đội công binh phải vật lộn với sóng gió suốt 22 tiếng mới cẩu xong được 4 cọc và bắt đầu nện búa đóng xuống thềm san hô (bình thường cẩu - thả một cọc vào ống chân đế chỉ mất 30 phút).
Vượt qua mọi khó khăn, nhà giàn được dựng lên, hiên ngang giữa lòng biển Đông tạo thành phên giậu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ từ hướng biển. Trong ảnh là công trình DK1/2 được xây dựng trên bãi Phúc Tần A (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).
Là Trạm Dịch vụ, Kinh tế, Khoa học - Kỹ thuật nên trên nhà giàn DK1/7 còn có trạm khí tượng hải văn thuộc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ.
Để cải thiện bữa ăn chỉ toàn đồ hộp hoặc các món chế biến từ cá tươi, cán bộ làm việc trên nhà giàn còn trồng thêm rau xanh. Những vườn rau tươi tốt đã mang không khí đất liền đến với những người làm việc trên biển.
Các cán bộ làm việc, nghiên cứu trên nhà giàn DK1 luôn mong ngóng thư từ quê nhà. Khoảng 3 - 5 tháng mới có một tàu mang nhu yếu phẩm từ đất liền ra tiếp tế.
Nhiều nhà giàn đã được nâng cấp với thiết kế bãi đỗ máy bay trên nóc. Trên các nhà giàn có đầy đủ dụng cụ tập luyện thể thao, máy tính nối mạng và phủ sóng điện thoại.
Ở DK, mùa đông gió Đông Bắc thét gào, mùa hè hầm hập gió Tây Nam, sóng thần. Khi hoàng hôn buông xuống, công trình DK1 được phủ một màu vàng rực, sững sững giữa biển cả mênh mông. Bộ ảnh được chủ nhiệm thiết kế nhà giàn Phạm Ngọc Nam ghi lại trong những lần làm nhiệm vụ trên biển.
Hơn 20 năm trước, PGS.TS Phạm Ngọc Nam (nguyên Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật Công binh) được giao nhiệm vụ cùng với đồng nghiệp thiết kế Trạm dịch vụ Kinh tế Khoa học Kỹ thuật (công trình nhà giàn DK1). Đôi mắt xa xăm, đôi tay run run lật giở từng trang "Nhật ký đời biển – DK1", ông Nam cho biết, các nhà giàn chốt giữ trên bãi san hô ngầm ở thềm lục địa phía Nam, khu đặc quyền kinh tế, thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nơi rất giàu tài nguyên của đất nước.
"Đây là tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, Trung ương ****, trong đó có sự đề xuất của Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương khi ấy, và DK1 là đỉnh cao của chiến lược phòng thủ biển, bảo vệ đất nước từ hướng biển", ông Nam nói.
Theo vị Chủ nhiệm thiết kế công trình DK1, từ năm 1985, Đô đốc Cương đã dự báo trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên và sẽ là chiến trường chính của Hải quân Việt Nam. Hơn nữa, thực tiễn chiến tranh vệ quốc của dân tộc, đối phương tấn công ta phần lớn là từ đường biển nên cần bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ hướng biển.
Ý tưởng xây dựng nhà nổi được Đô đốc Cương trình lên Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Ý tưởng được thông qua, ông Nam được giao làm chủ nhiệm thiết kế. Ngày 6/11/1988, đoàn khảo sát đã vượt sóng ra thềm lục địa để thăm dò.
Ông Nam nhà giàn kể chuyện xây dựng những ngôi làng trên biển.
Để đảm bảo tính chính xác trong tính toán, ông Nam cũng mời nhiều cơ quan tham gia tính toán độc lập nhau để đối chứng, tăng độ tin cậy. Ngoài ra, nhóm cũng kiểm tra đến từng chi tiết đến tổng thể công trình về độ bền, ổn định, dao động, chuyển vị, độ bền từng nút, công phu…
“Công trình DK1 đã có sức mạnh tổng hợp từ đông đảo các nhà khoa học, các trung tâm tính toán công trình biển của cả nước tham gia đối với hai loại nền mới lạ trái ngược nhau là nền đá san hô và nền có lớp bùn mặt dày lớn”, ông Nam cho biết.
Để xây dựng được nhà giàn trên nền san hô cũng như nền có lớp bùn rất dày, ông đã dùng phương án móng cọc thép mà không dùng móng trọng lực hay khi gia cường nâng cấp công trình là loại móng cọc kết hợp với gia trọng. Ông đã sáng tạo ra kết cấu cọc đặc biệt để có thể đóng được vào nền đá san hô, quả búa cũng phải tương thích 18 tấn hoặc 30 tấn. Thời điểm đó Việt Nam có hai tàu lớn là Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu Hoàng Sa có sức cẩu 1.200 tấn, tàu Trường Sa có hai móc cẩu, cùng lúc cẩu được 600 tấn và đầu máy có công suất khoảng 15.000 mã lực, sàn rộng 54m, dài 170m.
Sau gần 7 tháng khảo sát và chuẩn bị, ngày 10/6/1989, nhà giàn đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần trụ giữa biển Đông với tư cách là “cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”. Tiếp sau đó, công trình DK1/1 được thi công tại bãi Tư Chính ngày 27/6/1989. Khối hạ tầng, chân đế do ban quản lý công trình Dầu khí thiết kế, liên doanh dầu khí Việt - Xô thi công. Tại đây, cọc chỉ đóng vào nền đá san hô sâu được 2-2,5m do chưa tương ứng về mấu và cọc. Khối nhà ở, thượng tầng do ông Nam thiết kế, xí nghiệp X49 Bộ Tư lệnh công binh thi công.
Hai công trình DK1/3,4 do Bộ Giao thông Vận tải thiết kế, xây dựng năm 1989 với phần hạ tầng bằng phương án trọng lực. Thượng tầng (nhà ở) do TS Nguyễn Xuân Kiên thiết kế, X49 thi công. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố hai công trình này chỉ đáp ứng yêu cầu chính trị mà người chưa ở được.
"Do lần đầu tiên xây dựng công trình trên biển, đối mặt với những dòng chảy dữ dội, những đợt sóng thần, những bất thường về khí tượng thủy văn, dòng hải lưu, thăm dò thực tế còn thiếu nên chúng tôi đã gặp phải không ít khó khăn", ông Nam nói.
Nối tiếp thành công của những nhà giàn đầu tiên, đơn vị thiết kế và thi công của ông Nam tiếp tục rút kinh nghiệm để xây dựng thành công các nhà giàn tiếp theo. Công trình DK1 sau được thiết kế thấp hơn để tránh bị rung lắc khi có sóng và có bãi đáp máy bay được thiết kế trên nóc nhà. Các nhà giàn từ chỗ không có điện đến có điện bằng năng lượng mặt trời, thiết bị thu sóng vô tuyến, có thùng xốp trồng rau xanh…
DK1/5,6 tiếp tục được xây dựng ở đảo ngầm Tư Chính, Phúc Nguyên. Khi thi công hai nhà giàn này, bộ đội ta đã phải đứng giữa ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết. Khi đang cẩu lắp chân đế, đóng cọc thì bão ập tới, văng, giật, lắc liên hồi. Sau 22 giờ vật lộn với sóng gió, đơn vị thi công cũng chỉ cẩu xong được 4 cọc (bình thường thì cẩu - thả một cọc vào ống chân đế chỉ mất 30 phút). Sau khi thả cọc vào ống chân đế là công đoạn đóng cọc. Việc đóng được cọc vào nền đá san hô chính là mấu chốt thành công của công trình DK1.
Người chủ nhiệm thiết kế nhà giàn vẫn nhớ như in, khoảng 23h ngày 26/10/1990, một tàu nước ngoài đã xông thẳng vào đội hình ta đang thi công. Trước tình huống nguy cấp, tàu Hải quân hộ tống đoàn thi công đã bắn cảnh cáo, buộc tàu lạ chạy ra xa khoảng 5 hải lý.
Vượt lên mọi khó khăn, các nhà giàn tiếp nối từ DK1/7 đến DK1/21 được dựng lên ở các bãi Huyền Trân, Quế Đường đến Cà Mau. Từ nhà giàn đầu tiên, đến nay chúng ta đã đóng được hàng chục cọc với độ sâu đến vài chục mét theo yêu cầu thiết kế.
Vì là công trình xây dựng trên bãi đá ngầm ở biển nên ngoài việc chống ăn mòn, nhóm thiết kế và thi công phải luôn luôn kiểm tra, bảo trì, duy tu, bảo dưỡng định kỳ bằng lực lượng tại công trình và chuyên trách hợp lý. Ngoài ra, còn phải gia cố, nâng cấp công trình DK1 phù hợp với tình hình mới.
Mới đây, nhà giàn Phúc Nguyên, DK1/15 mới được xây dựng bên cạnh nhà giàn cũ. Đây là nhà giàn thế hệ thứ ba có kết cấu vững chắc, liên hoàn vởi diện tích khoảng 250m2. Sự vượt trội của nhà giàn mới so với nhà giàn xây dựng trước đó là hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời nhiều gấp 3 lần. Mùa mưa bão không có ánh mặt trời, hoặc sương mù, các chiến sĩ vẫn có điện dùng để chiếu sáng, nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem ti vi trong một tháng, trong đó các nhà giàn khác chỉ khoảng 10 ngày.
"DK1 là công trình được xây dựng ở những khu vực đặc biệt đặc thù mới lạ, cả trong nước và thế giới đều chưa có tiền lệ, được nhiều nhà khoa học danh tiếng đánh giá là 'phi thường', công trình dũng khí’. Không chỉ có ý nghĩa to lớn về chính trị, quốc phòng, an ninh, DK1 còn mở ra tương lai tươi sáng cho việc chinh phục biển vốn còn non trẻ của nước ta", người thiết kế nhà giàn nói.
Sừng sững giữa biển khơi với những chiếc chân cắm sâu vào lòng biển, 20 nhà giàn DK1 của Việt Nam đang hiên ngang giữa đất trời, là cột mốc sống, tạo thành phên giậu, khẳng định chủ quyền đất nước trên biển Đông. Các trạm dịch vụ kinh tế khoa học kỹ thuật này cũng được gọi là "những ngôi làng trên biển", "khách sạn giữa biển Đông" hay “mắt thần trên biển”.
Các bác cùng xem chùm ảnh về nhà giàn của chúng ta :
Hiện nay, Việt Nam có 20 công trình DK1 trên biển. Bên cạnh những nhà giàn được xây từ thế hệ đầu tiên, nhà giàn thế hệ thứ ba với những cải tiến vượt bậc cũng đã hoàn thành. Trong ảnh là hai nhà giàn DK1/15 cũ và mới được nối với nhau. Sự vượt trội của nhà giàn mới là kết cấu vững chắc, liên hoàn với diện tích lớn. Hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời nhiều gấp 3 lần so với nhà giàn cũ. Mùa mưa bão không có ánh mặt trời, hoặc sương mù, các chiến sĩ vẫn có điện dùng để chiếu sáng, nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem tivi suốt một tháng, trong khi các nhà giàn cũ chỉ được khoảng 10 ngày.
Ba công trình DK1 được thi công và hoàn thành năm 1989. Từng bộ phận của nhà giàn được cẩu và lắp ghép trên bãi cạn san hô giữa biển.
Để vận chuyển các bộ phận của nhà giàn ra vị trí thi công, thời điểm đầu chúng ta có hai tàu Hoàng Sa và Trường Sa với với sức cẩu của Hoàng Sa đạt 1.200 tấn, Trường Sa 600 tấn và đầu máy có công suất 15.000 mã lực.
Các mối nối công trình phải được làm chắc chắn và cẩn thận. Đây là mối nối công trình DK1/6.
Trong quá trình thi công, bộ đội công binh phải đối mặt với sóng to, gió lớn, thậm chí bão và sóng thần. Như khi thi công công trình DK1/5, 6 bộ đội công binh phải vật lộn với sóng gió suốt 22 tiếng mới cẩu xong được 4 cọc và bắt đầu nện búa đóng xuống thềm san hô (bình thường cẩu - thả một cọc vào ống chân đế chỉ mất 30 phút).
Vượt qua mọi khó khăn, nhà giàn được dựng lên, hiên ngang giữa lòng biển Đông tạo thành phên giậu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ từ hướng biển. Trong ảnh là công trình DK1/2 được xây dựng trên bãi Phúc Tần A (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).
Là Trạm Dịch vụ, Kinh tế, Khoa học - Kỹ thuật nên trên nhà giàn DK1/7 còn có trạm khí tượng hải văn thuộc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ.
Để cải thiện bữa ăn chỉ toàn đồ hộp hoặc các món chế biến từ cá tươi, cán bộ làm việc trên nhà giàn còn trồng thêm rau xanh. Những vườn rau tươi tốt đã mang không khí đất liền đến với những người làm việc trên biển.
Các cán bộ làm việc, nghiên cứu trên nhà giàn DK1 luôn mong ngóng thư từ quê nhà. Khoảng 3 - 5 tháng mới có một tàu mang nhu yếu phẩm từ đất liền ra tiếp tế.
Nhiều nhà giàn đã được nâng cấp với thiết kế bãi đỗ máy bay trên nóc. Trên các nhà giàn có đầy đủ dụng cụ tập luyện thể thao, máy tính nối mạng và phủ sóng điện thoại.
Ở DK, mùa đông gió Đông Bắc thét gào, mùa hè hầm hập gió Tây Nam, sóng thần. Khi hoàng hôn buông xuống, công trình DK1 được phủ một màu vàng rực, sững sững giữa biển cả mênh mông. Bộ ảnh được chủ nhiệm thiết kế nhà giàn Phạm Ngọc Nam ghi lại trong những lần làm nhiệm vụ trên biển.