[Funland] Nghiên cứu của Liên Xô để so sánh RPK và PK

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
3,986
Động cơ
138,330 Mã lực
Đây là bản dịch bài viết của tác giả Pavel Ptitsyn về nghiên cứu của Liên Xô trong thập niên 60 để đưa quyết định phát triển RPK-74. Tại thời điểm đó, chương trình phát triển đạn 5,6mm và súng avtomat mới ( sau này là đạn 5,45x39 và AK-74) đang diễn ra nhưng chưa có đề xuất về súng máy sẽ thay thế RPK(7,62x39). Nghiên cứu được trình bày trong bài viết dưới đây đưa ra các ưu điểm của súng máy bắn đạn 5,6mm để dẫn tới việc VDV được trang bị RPKS-74 sau này. Các thông tin trong bài viết này trả lời một số câu hỏi như tại sao lại có RPK và RPK-74 mà không dùng AK với PK thôi. Cũng như trả lời câu hỏi về tầm bắn hiệu quả của RPK, RPK-74 so với AKM, AK-74, cũng như là so với PK và PKM.
----------------------------------------------
RPK so với PK - nghiên cứu của Liên Xô về tính khả thi cho việc chế tạo súng trung liên tương thích với tiểu liên bắn đạn 5,6mm cho lực lượng đổ bộ đường không Liên Xô, VDV. Tác giả: Pavel Ptitsyn
Cuối thập niên 70, trang bị chính của VDV gồm có súng avtomat báng gập AKMS và súng máy cầm tay báng gập RPKS có thiết kế thống nhất với súng avtomat.
Vào năm 1968, đã 4 năm, Liên Xô tiến hành phát triển hệ thống đạn 5,6mm mới( tiền thân của 5,45x39), có tính năng kỹ chiến thuật và đạn đạo tốt hơn đạn 7,62x39mm( đạn M43 đang dùng cho AKM và RPK) về điểm như súng và đạn nhẹ hơn, giật thấp hơn, sơ tốc đầu nòng lớn, tầm bắn thẳng lớn, độ chính xác bắn tốt hơn. Khi đạn súng avtomat 5,6mm mới được quân đội chấp nhận, có thể chắc chắn rằng nó cũng sẽ được VDV trang bị. Tuy nhiên, các chuyên gia của TsNIITOCHMASH đã nhấn mạnh rằng : “ súng avtomat chỉ có tầm bắn hiệu quả ngắn ( tới 600m) và không bắn hiệu quả ở tầm bắn lớn.”
Tới năm 1968, chưa có một đánh giá nào về tính cần thiết của việc thế tạo súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm nào được thực hiện. Chính vào năm đó, để đáp ứng nhu cầu của Quân đội Liên Xô , trong đó có VDV, TsNIITOCHMASH đã tiến hành đánh tính cần thiết của việc chế tạo súng máy có thiết kế thống nhất với súng avtomat cho đạn 5,6mm đang được phát triển. Theo yêu cầu của Tổng cục công nghiệp quốc phòng quân đội Liên Xô, việc nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng tạo ra súng máy cầm tay 5,6mm có khả năng cơ động cao và có thể bắn trúng mục tiêu cơ động hiêu quả ở 800m.

Nhằm khái quát hóa các thành tựu mới về súng bộ binh của trong và ngoài nước, chuyên gia của Viện tiến hành nghiên cứu và phân tích tài liệu, kết quả nghiên cứu thực địa và thử nghiệm các mẫu súng nước ngoài tiến hành bởi các cơ quan của Bộ công nghiệp quốc phòng và Bộ quốc phòng Liên Xô, tài liệu kỹ thuật và bằng sáng chế.
Theo một chuyên gia ghi lại:
"Các bằng sáng chế của Mỹ, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Úc, Anh đã được phân tích. Phần lớn các phát minh này nhắm tới việc cải tiến súng bộ binh theo các hướng tăng tốc độ bắn hoặc gắn đầu nòng(đầu nòng giảm giật và đầu nòng giảm nảy kết hợp giảm giật), các thiết kế giảm giật bằng giảm va đập của các chi tiết súng với nhau, sử dụng đạn cỡ nhỏ hoặc siêu nhỏ cho súng bộ binh.
Khi phát triển mẫu súng máy mới, các phát minh kể trên không được áp dụng, do các phát minh tương tự đã được nghiên cứu kỹ trước đó ở trong nước, cho hiệu quả kém hoặc không thỏa mãn yêu cầu."
Ngoài ra, họ nhấn mạnh rằng theo phân tích về điều kiện sử dụng súng bộ binh của VDV và đánh giá độ hiệu quả bắn của súng máy bắn các cỡ đạn khác nhau gồm 7,62x54R, 7,62x39 M43 và đạn 5,6mm mới, họ đã chấp nhận tính khả thi của việc tạo một mẫu súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm mới cho VDV đồng nhất với mẫu avtomat bắn đạn 5,6mm, khi mà mẫu avtomat được phát triển và chấp nhận vào trang bị của quân đội Liên Xô.
Dưới đây la quá trình và kết quả của chương trình phân tích điều kiện sử udngj súng máy của 3 loại đạn, thực hiện trong năm 1967-1968 bởi TsNIITOCHMASH.
Phân tích điều kiện sử dụng súng bộ binh của VDV
"Lực lượng đổ bộ đường không hiện đại, được trang bị phương thức vận chuyển bằng đường không và được trang bị các khí tài quân sự hiện đại, có thể thực hiện chiến dịch tác chiến độc lập quy mô lớn, tách biệt khỏi căn cứ hậu, độc lập về thức ăn, vật chất-kỹ thuật và đạn dược. Mặc dù VDV được cơ giới hóa đầy đủ( BMP, BTR và vân vân), hiệu quả sử dụng của các loại vũ khí cơ giới này trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào địa điểm tác chiến của lực lượng đổ bộ đường không và điều kiện địa hình chiến trường. Trong một số trường hợp, trong địa hình thuận lợi cho việc thả dù khí tài quân sự( thảo nguyên, địa hình phẳng), lính đổ bộ đường không có thể được thả dù từ máy bay với súng bộ binh trong đặt trong xe chiến đấu bộ binh, trong trường hợp khác với địa hình không phù hợp( túi, rừng, đầm lầy, địa hình chật hẹp) lính đổ bộ đường không sẽ nhẩy dù cùng với súng bộ binh. Do vậy, việc thả dù một đơn vị đổ bộ đường không trong chiến đấu, chắc chắn sẽ thực hiên trên vị trí không được triển khai phòng ngự, ngoài còn có có thể ở điều kiện khắc nghiệt, đòi hỏi VDV phải sự sẵn sàng chiến đấu cực kỳ cao. "
Nghiên cứu của TsNIITOCHMASH về điều kiện sử dụng súng bộ binh của VDV đã dựa phần trích dẫn ở trên, và dựa trên một số điều kiện cụ thể, các yêu cầu cụ thể sau đã được vạch ra.
  • Giảm khối lượng của viên đạn, cho phép tăng số lượng đạn có thể mang theo mà không tăng khối lượng trang bị chiến đấu của người lính;
  • Giảm chủng loại đạn sử dụng, cho phép đối giản hóa công tác hậu cần, cung cấp đạn dược, bảo dưỡng;
  • Giảm triệt để kích cỡ và khối lượng của súng, cho phép giảm khối lượng trang bị và đảm bảo thực hiện nhiệm vụ nhẩy dù;
  • Đảm bảo tính sẵ sàng chiến đấu của vũ khí;
  • Đảm bảo mật độ hỏa lực;
  • Đảm hiệu quả bắn ở mọi tầm bắn theo yêu cầu;
  • Đảm bảo hỏa lực ở mọi tầm bắn hiệu quả của vũ khí;
  • Đảm bảo tính đơn giản và bền của vũ khí.

"Yêu cầu về đảm bảo hiệu quả bắn, mật độ cao và hỏa lực bắn ở mọi tầm bắn chỉ được thực hiện bởi một hệ thống súng bộ binh vừa là súng liên thanh cho từng cá nhân (avtomat), cho mật độ hỏa lực lớn hiệu quả ở tầm bắn gần, và một mẫu súng máy có thể bắn hiệu quả và hỏa lực lớn ở tầm xa.
Đảm bải các yêu cầu còn lại được thực hiện tốt nhất khi thực hiện đồng bộ hóa mức cao nhất súng máy với súng avtomat cả về thiết kế và loại đạn sử dụng. " Quân đội Liên Xô nhấn mạnh.
Một ví dụ về độ đồng bộ cao là 2 loại súng đang được trang bị cho VDV vào thời điểm đó là AKMS và RPKS. Tuy nhiên, quân đội Liên Xô viết: “Súng AKM và AKMS sử dụng đạn 7,62mm M43 không đáp ứng yêu cầu hiện đại về tầm bắn hiệu quả. Tầm bắn hiệu quả của AKMS là 400m trong khi yêu cầu là 550-600m, và của RPKS là 600m với yêu cầu là 800m.” Quân đội Liên Xô giải thích là do đặc tính đạn đạo của đạn 7,62x39 với tầm bắn thẳng ngắn chỉ 357m và lực giật lớn 0,79kg/s.
Đối với VDV, vấn đề kể trên còn trầm trọng hơn khi VDV thiếu trang bị súng máy bắn đạn 7,62x54R- cụ thể là súng máy PK( súng máy giá 3 chânPKS). Quân đội Liên Xô ghi rằng: “Việc trang bị súng máy bắn đạn 7,62x54R cho VDV mâu thuẫn với yêu cầu chính là việc trang bị 1 loại đạn cho các loại súng bộ binh của VDV.” Cụ thể: “ Việc thế tạo súng máy bắn đạn 7,62x54R có tích thước và khối lượng chấp nhận được cho VDV cực kỳ khó khăn và không thể thực hiện vào thời điểm hiện tại.” Ngoài ra việc trang bị đạn 7,62x54R cho súng máy không loại bỏ nhược điểm của súng avtomat bắn đạn 7,62x39 M43.
Kết luận được đưa ra: đạn 5,6mm đang được phát triển bởi TsNIITOCHMASH, với các dữ liệu và kết quả thử nghiệm, cho phép tăng tầm bắn của súng Avtomat, do vậy, với việc trang bị súng avtomat đạn 5,6mm cho quân đội Liên Xô cụ thể là VDV, việc trang bị súng máy RPK( và báng gập RPKS) bắn đạn 7,62x39 M43 trở nên không cần thiết do có tầm bắn bằng với tầm bắn của súng avtomat 5,6mm cũng như việc sử dụng thêm một loại đạn.
Do vậy, việc phát triển súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm có nhu cầu thực tế.
Cần nhấn mạnh một lần nữa, là quân đội Liên Xô chỉ yêu cầu phát triển đạn 5,6mm cho avtomat và không yêu cầu làm súng máy mới thậm chí là yêu cầu phải đồng bộ với nhau. Có nghĩa là ban đầu, dù súng 5,6mm nào được chọn thì kế hoạch là vẫn sử dụng RPK bắn đạn 7,62x39 M43.
Đánh giá hiệu quả bắn của các loại súng máy sử dụng đạn khác nhau
Trong thời điểm đó, chiến trường diễn ra với việc bắn các mục cơ động, ẩn hiện trong thời gian ngắn ở nhiều tầm bắn khác nhau, nhất là khi binh lính phân tán trên một chiến trường rộng.
Đặc tính cụ thể của chiến thuật đã nêu bật yêu cầu về tăng tầm bắn hiệu quả của súng bộ binh, cả trong phòng thủ và tấn công.
Nhằm quyết định tính khả thi để thiết kế thử nghiệm đạn 5,6mm và súng mới, từ năm 1965, Quân khu Odessa đã tiến hành thử nghiệm đánh giá giữa các mẫu súng bắn đạn 5,6mm và 7,62mm. Cùng với các mẫu Avtomat, các mẫu súng máy cho nhiều loại đạn( 5,6mm, 7,62x39mm M43 và 7,62x54R) cũng được thử nghiệm.
Thử nghiệm đánh được hiệu quả của súng máy được tiến hành theo cặp gồm ‘RPK 5,6mm với RPK 7,62x39’; ‘RPK 5,6mm với PK’; trong phòng thủ trước đợt tấn công của tiểu đội địch, và trong phòng thủ và tấn công theo đội hình tiêu đội bộ binh.

Hiệu quả bắn của súng máy cầm tay và súng máy đại đội trước trung đội địch tấn công
Thử nghiệm so sánh được tiến hành qua việc bắn các mẫu súng máy. Ba xạ thủ súng máy cầm tay sẽ lần lượt đổi giữa RPK bắn đạn 5,6mm và 7,62mm, và ba xạ thủ súng máy đại đội đổi giữa súng máy đại đội PK 7,62x54R và súng máy cầm tay RPK 5,6mm, với mỗi xạ thủ thực hiện 5 lần bắn với mỗi súng, bắn mục tiêu ẩn hiện.

Trường bắn được bố trí như sau:
  • Mục tiêu 1 - 3 ụ súng máy ở khoảng cách 600m, ẩn hiện trong 5÷7 giây.
  • Mục tiêu 2 - 3 hình người đang chạy ở khoảng cách 600÷635m, góc 45 độ so với hướngbắn và tốc độ 2m/s trong quãng đường 50m.
  • Mục tiêu 3 - 10 hình người chạy ở khoảng cách 700m, ẩn hiện trong 20 giây.
  • Mục tiêu 4 - 2 hình người cầm súng chống tăng ở khoảng cách 800m, ẩn hiện 2 lần trong 20 giây.
Thông số trung bình về hiệu quả bắn giữa 2 mẫu RPK ở bảng 1 và giữa RPK 5,6mm và PK 7,62x54R ở bảng 2.

bảng 1


bảng 2
Từ hai bảng trên, đưa ra các kết luận:
  • Khi bắn tiểu đội địch tiến công, RPK 5,6mm hiệu quả gấp 2 lần so với RPK 7,62x39mm.
  • Khi bắn tiểu đội địch tiến công, RPK 5,6mm hiệu quả gấp 1,73÷2,06 lần so với súng máy đại đội PK 7,62x54R.
  • Hiệu quả cao nhất của RPK 5,6mm đạt được trước RPK 7,62x39 là ở khoảng cách 600÷636m và tiệm cận khoảng cáo nhất ở 800m.
  • Hiệu quả cao nhất của RPK 5,6mm đạt được trước PK 7,62x54R là ở khoảng cách 800m và tiệm cận khoảng cáo nhất ở các tầm bắn khác.
Hiệu quả bắn của sún máy cầm tay và súng máy đại đội trong biên chế tiểu đội phòng thủ
Trường bắn được bố trí như sau:
  • Mục tiêu số 4 - ụ súng máy ở khoảng cách 400m, ẩn hiện trong 10 giây.
  • Mục tiêu số 6 - hai hình người chạy và một hình cầm súng phóng lựu, ẩn hiện 2 lần trong 10 giây và 30 giây.
  • Mục tiêu số 9 - hai hình người chạy và một hình cầm súng phóng lựu, ẩn hiện 2 lần trong 10 giây và 40 giây.
Ngoài ra, súng máy phối hợp với tiểu đội bắn mục tiêu Số 8 - 4 hình người chạy ở khoảng cách 700m, ẩn hiện 2 lần trong 15 giây.
Kết quả bắn trong bảng 3.

bảng 3
Theo bảng 3, kết luận được rút ra là khi trang bị trong tiểu đội phòng thủ, súng máy cầm tay 5,6mm hiệu quả hơn RPK 7,62x39 là 1,5 lần và hiệu quả hơn súng máy đại đội PK 7,62x54R là 1,2 lần.
Ngoài ra, báo cáo nêu bật rằng, tỉe lệ trúng đích trong 1 loạt liên thanh ngắn của súng máy 5,6mm ở khoảng cách 600÷800m là 0,281÷0,287, đảm bảo tiêu diệt sinh lực địch ở mọi tầm bắn theo yêu cầu lúc đó.
Hiệu quả bắn của sún máy cầm tay và súng máy đại đội trong biên chế tiểu đội tấn công
Bài bắn được thực hiện trong tư thế nằm với chân chống 2 chân và dừng lại trong quá trình tiến công. Mục tiêu được bố trí như sau:
  • Mục tiêu số 4 - 2 hình người cúi khom và 1 súng chống tăng, ẩn hiện ở khoảng cách 500m trong 10 và 40 giây.
  • Mục tiêu số 5 - 2 hình người cúi khom và 1 súng chống tăng, ẩn hiện ở khoảng cách 400m trong 10 và 40 giây.
Hỏa lực phối hợp tiểu đội:
  • Mục tiêu số 6 - 4 hình người cúi khom và 2 ụ súng máy ẩn hiện ở khoảng cách 350÷400m trong 30 giây.
  • Mục tiêu số 7 - 5 hình người cúi khom, 1 ụ súng máy và 1 súng chống tăng ẩn hiện trong 40 giây ở khoảng cách 500m.
  • Mục tiêu số 8 - 6 hình người đang chạy, 1 súng máy và 1 súng chống tăng ẩn hiện trong 40 giây ở khoảng cách 550m.
Kết quả bắn trong bảng 4:

Từ bảng 4, rút ra rằng súng máy cầm tay cỡ 5,6mm trong tiểu đội tấn công, hiệ quả hơn RPK 7,62x39 trung bình 1,68 lần, trong khi đó nó tương đương với súng máy đại đội PK 7,62x54R.
Tỉ lệ bắn trúng đích của súng máy 5,6mm ở khoảng cách 400÷500m trong loạt liên thanh ngắn đạt 0,46÷0,69 tùy vào loại mục tiêu và khoảng cách, đảm bảo tiêu diệt sinh lực địch hiệu quả.
Phân tích toàn bộ kết quả thử nghiệm hiệu quả bắn, kết luận cuối được đưa ra:
“Việc sử dụng đạn 5,6mm cho súng máy cầm tay có thể tăng hiệu quả bắn so với súng tương đương dùng đạn 7,62x39 M43 trong cả phòng thủ và chiến đấu và cho tầm bắn hiệu quả theo yêu cầu( tầm bắn hiệu quả tới 800m, tỉ lệ trúng đích ở 800m đạt 0,25) mà vẫn đạt các tiêu chí khác như sát thương, độ đâm xuyên vân vân.
Cùng với các ưu thế này, súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm vượt trội ở hiệu quả bắn so với súng máy đại đội PK 7,62x54R trong phòng thủ và tương đồng trong tiến công. Với khối lượng nhỏ hơn so với súng máy PK, đạn 5,6mm nhẹ hơn rất nhiều so với 7,62x54R, là các yếu tố cực kỳ quan trọng trong tiến công.
Dựa trên các kết luận này, ưu điểm của việc đồng bộ súng bộ binh của VDV về một loại đạn, nghiên cứu chỉ ra rằng cần thiết phải chế tạo một mẫu súng bắn máy cầm tay đạn nhỏ nhẹ mới, nếu VDV trang bị avtomat cỡ đạn mới.
Các nhóm thiết kế của cục thiết kế tham gia vào chương trình phát triển súng avtomat mới cũng đã phát triển súng máy đồng bộ. Như chúng ta đã biết, người chiến thắng chính là Mikhail Timofeevich Kalashnikov với nguyên mẫu Avtomat là A-3 và nguyên mẫu súng máy P-3, cả 2 được chấp nhận đưa vào trang bị với tên gọi là AK-74 và RPK-74, VDV đưa vào trang bị AKS-74 và RPKS-74.
 

Ksxdcd

Xe điện
Biển số
OF-67951
Ngày cấp bằng
8/7/10
Số km
2,293
Động cơ
455,038 Mã lực
Bác có biết vì sao cuối cùng Liên xô lại chọn cỡ đạn là 5.45x39 thay vì 5.6x39 không?

Đây là bản dịch bài viết của tác giả Pavel Ptitsyn về nghiên cứu của Liên Xô trong thập niên 60 để đưa quyết định phát triển RPK-74. Tại thời điểm đó, chương trình phát triển đạn 5,6mm và súng avtomat mới ( sau này là đạn 5,45x39 và AK-74) đang diễn ra nhưng chưa có đề xuất về súng máy sẽ thay thế RPK(7,62x39). Nghiên cứu được trình bày trong bài viết dưới đây đưa ra các ưu điểm của súng máy bắn đạn 5,6mm để dẫn tới việc VDV được trang bị RPKS-74 sau này. Các thông tin trong bài viết này trả lời một số câu hỏi như tại sao lại có RPK và RPK-74 mà không dùng AK với PK thôi. Cũng như trả lời câu hỏi về tầm bắn hiệu quả của RPK, RPK-74 so với AKM, AK-74, cũng như là so với PK và PKM.
----------------------------------------------
RPK so với PK - nghiên cứu của Liên Xô về tính khả thi cho việc chế tạo súng trung liên tương thích với tiểu liên bắn đạn 5,6mm cho lực lượng đổ bộ đường không Liên Xô, VDV. Tác giả: Pavel Ptitsyn
Cuối thập niên 70, trang bị chính của VDV gồm có súng avtomat báng gập AKMS và súng máy cầm tay báng gập RPKS có thiết kế thống nhất với súng avtomat.
Vào năm 1968, đã 4 năm, Liên Xô tiến hành phát triển hệ thống đạn 5,6mm mới( tiền thân của 5,45x39), có tính năng kỹ chiến thuật và đạn đạo tốt hơn đạn 7,62x39mm( đạn M43 đang dùng cho AKM và RPK) về điểm như súng và đạn nhẹ hơn, giật thấp hơn, sơ tốc đầu nòng lớn, tầm bắn thẳng lớn, độ chính xác bắn tốt hơn. Khi đạn súng avtomat 5,6mm mới được quân đội chấp nhận, có thể chắc chắn rằng nó cũng sẽ được VDV trang bị. Tuy nhiên, các chuyên gia của TsNIITOCHMASH đã nhấn mạnh rằng : “ súng avtomat chỉ có tầm bắn hiệu quả ngắn ( tới 600m) và không bắn hiệu quả ở tầm bắn lớn.”
Tới năm 1968, chưa có một đánh giá nào về tính cần thiết của việc thế tạo súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm nào được thực hiện. Chính vào năm đó, để đáp ứng nhu cầu của Quân đội Liên Xô , trong đó có VDV, TsNIITOCHMASH đã tiến hành đánh tính cần thiết của việc chế tạo súng máy có thiết kế thống nhất với súng avtomat cho đạn 5,6mm đang được phát triển. Theo yêu cầu của Tổng cục công nghiệp quốc phòng quân đội Liên Xô, việc nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng tạo ra súng máy cầm tay 5,6mm có khả năng cơ động cao và có thể bắn trúng mục tiêu cơ động hiêu quả ở 800m.

Nhằm khái quát hóa các thành tựu mới về súng bộ binh của trong và ngoài nước, chuyên gia của Viện tiến hành nghiên cứu và phân tích tài liệu, kết quả nghiên cứu thực địa và thử nghiệm các mẫu súng nước ngoài tiến hành bởi các cơ quan của Bộ công nghiệp quốc phòng và Bộ quốc phòng Liên Xô, tài liệu kỹ thuật và bằng sáng chế.
Theo một chuyên gia ghi lại:
"Các bằng sáng chế của Mỹ, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Úc, Anh đã được phân tích. Phần lớn các phát minh này nhắm tới việc cải tiến súng bộ binh theo các hướng tăng tốc độ bắn hoặc gắn đầu nòng(đầu nòng giảm giật và đầu nòng giảm nảy kết hợp giảm giật), các thiết kế giảm giật bằng giảm va đập của các chi tiết súng với nhau, sử dụng đạn cỡ nhỏ hoặc siêu nhỏ cho súng bộ binh.
Khi phát triển mẫu súng máy mới, các phát minh kể trên không được áp dụng, do các phát minh tương tự đã được nghiên cứu kỹ trước đó ở trong nước, cho hiệu quả kém hoặc không thỏa mãn yêu cầu."
Ngoài ra, họ nhấn mạnh rằng theo phân tích về điều kiện sử dụng súng bộ binh của VDV và đánh giá độ hiệu quả bắn của súng máy bắn các cỡ đạn khác nhau gồm 7,62x54R, 7,62x39 M43 và đạn 5,6mm mới, họ đã chấp nhận tính khả thi của việc tạo một mẫu súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm mới cho VDV đồng nhất với mẫu avtomat bắn đạn 5,6mm, khi mà mẫu avtomat được phát triển và chấp nhận vào trang bị của quân đội Liên Xô.
Dưới đây la quá trình và kết quả của chương trình phân tích điều kiện sử udngj súng máy của 3 loại đạn, thực hiện trong năm 1967-1968 bởi TsNIITOCHMASH.

"Lực lượng đổ bộ đường không hiện đại, được trang bị phương thức vận chuyển bằng đường không và được trang bị các khí tài quân sự hiện đại, có thể thực hiện chiến dịch tác chiến độc lập quy mô lớn, tách biệt khỏi căn cứ hậu, độc lập về thức ăn, vật chất-kỹ thuật và đạn dược. Mặc dù VDV được cơ giới hóa đầy đủ( BMP, BTR và vân vân), hiệu quả sử dụng của các loại vũ khí cơ giới này trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào địa điểm tác chiến của lực lượng đổ bộ đường không và điều kiện địa hình chiến trường. Trong một số trường hợp, trong địa hình thuận lợi cho việc thả dù khí tài quân sự( thảo nguyên, địa hình phẳng), lính đổ bộ đường không có thể được thả dù từ máy bay với súng bộ binh trong đặt trong xe chiến đấu bộ binh, trong trường hợp khác với địa hình không phù hợp( túi, rừng, đầm lầy, địa hình chật hẹp) lính đổ bộ đường không sẽ nhẩy dù cùng với súng bộ binh. Do vậy, việc thả dù một đơn vị đổ bộ đường không trong chiến đấu, chắc chắn sẽ thực hiên trên vị trí không được triển khai phòng ngự, ngoài còn có có thể ở điều kiện khắc nghiệt, đòi hỏi VDV phải sự sẵn sàng chiến đấu cực kỳ cao. "
Nghiên cứu của TsNIITOCHMASH về điều kiện sử dụng súng bộ binh của VDV đã dựa phần trích dẫn ở trên, và dựa trên một số điều kiện cụ thể, các yêu cầu cụ thể sau đã được vạch ra.
  • Giảm khối lượng của viên đạn, cho phép tăng số lượng đạn có thể mang theo mà không tăng khối lượng trang bị chiến đấu của người lính;
  • Giảm chủng loại đạn sử dụng, cho phép đối giản hóa công tác hậu cần, cung cấp đạn dược, bảo dưỡng;
  • Giảm triệt để kích cỡ và khối lượng của súng, cho phép giảm khối lượng trang bị và đảm bảo thực hiện nhiệm vụ nhẩy dù;
  • Đảm bảo tính sẵ sàng chiến đấu của vũ khí;
  • Đảm bảo mật độ hỏa lực;
  • Đảm hiệu quả bắn ở mọi tầm bắn theo yêu cầu;
  • Đảm bảo hỏa lực ở mọi tầm bắn hiệu quả của vũ khí;
  • Đảm bảo tính đơn giản và bền của vũ khí.

"Yêu cầu về đảm bảo hiệu quả bắn, mật độ cao và hỏa lực bắn ở mọi tầm bắn chỉ được thực hiện bởi một hệ thống súng bộ binh vừa là súng liên thanh cho từng cá nhân (avtomat), cho mật độ hỏa lực lớn hiệu quả ở tầm bắn gần, và một mẫu súng máy có thể bắn hiệu quả và hỏa lực lớn ở tầm xa.
Đảm bải các yêu cầu còn lại được thực hiện tốt nhất khi thực hiện đồng bộ hóa mức cao nhất súng máy với súng avtomat cả về thiết kế và loại đạn sử dụng. " Quân đội Liên Xô nhấn mạnh.
Một ví dụ về độ đồng bộ cao là 2 loại súng đang được trang bị cho VDV vào thời điểm đó là AKMS và RPKS. Tuy nhiên, quân đội Liên Xô viết: “Súng AKM và AKMS sử dụng đạn 7,62mm M43 không đáp ứng yêu cầu hiện đại về tầm bắn hiệu quả. Tầm bắn hiệu quả của AKMS là 400m trong khi yêu cầu là 550-600m, và của RPKS là 600m với yêu cầu là 800m.” Quân đội Liên Xô giải thích là do đặc tính đạn đạo của đạn 7,62x39 với tầm bắn thẳng ngắn chỉ 357m và lực giật lớn 0,79kg/s.
Đối với VDV, vấn đề kể trên còn trầm trọng hơn khi VDV thiếu trang bị súng máy bắn đạn 7,62x54R- cụ thể là súng máy PK( súng máy giá 3 chânPKS). Quân đội Liên Xô ghi rằng: “Việc trang bị súng máy bắn đạn 7,62x54R cho VDV mâu thuẫn với yêu cầu chính là việc trang bị 1 loại đạn cho các loại súng bộ binh của VDV.” Cụ thể: “ Việc thế tạo súng máy bắn đạn 7,62x54R có tích thước và khối lượng chấp nhận được cho VDV cực kỳ khó khăn và không thể thực hiện vào thời điểm hiện tại.” Ngoài ra việc trang bị đạn 7,62x54R cho súng máy không loại bỏ nhược điểm của súng avtomat bắn đạn 7,62x39 M43.
Kết luận được đưa ra: đạn 5,6mm đang được phát triển bởi TsNIITOCHMASH, với các dữ liệu và kết quả thử nghiệm, cho phép tăng tầm bắn của súng Avtomat, do vậy, với việc trang bị súng avtomat đạn 5,6mm cho quân đội Liên Xô cụ thể là VDV, việc trang bị súng máy RPK( và báng gập RPKS) bắn đạn 7,62x39 M43 trở nên không cần thiết do có tầm bắn bằng với tầm bắn của súng avtomat 5,6mm cũng như việc sử dụng thêm một loại đạn.
Do vậy, việc phát triển súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm có nhu cầu thực tế.
Cần nhấn mạnh một lần nữa, là quân đội Liên Xô chỉ yêu cầu phát triển đạn 5,6mm cho avtomat và không yêu cầu làm súng máy mới thậm chí là yêu cầu phải đồng bộ với nhau. Có nghĩa là ban đầu, dù súng 5,6mm nào được chọn thì kế hoạch là vẫn sử dụng RPK bắn đạn 7,62x39 M43.

Trong thời điểm đó, chiến trường diễn ra với việc bắn các mục cơ động, ẩn hiện trong thời gian ngắn ở nhiều tầm bắn khác nhau, nhất là khi binh lính phân tán trên một chiến trường rộng.
Đặc tính cụ thể của chiến thuật đã nêu bật yêu cầu về tăng tầm bắn hiệu quả của súng bộ binh, cả trong phòng thủ và tấn công.
Nhằm quyết định tính khả thi để thiết kế thử nghiệm đạn 5,6mm và súng mới, từ năm 1965, Quân khu Odessa đã tiến hành thử nghiệm đánh giá giữa các mẫu súng bắn đạn 5,6mm và 7,62mm. Cùng với các mẫu Avtomat, các mẫu súng máy cho nhiều loại đạn( 5,6mm, 7,62x39mm M43 và 7,62x54R) cũng được thử nghiệm.
Thử nghiệm đánh được hiệu quả của súng máy được tiến hành theo cặp gồm ‘RPK 5,6mm với RPK 7,62x39’; ‘RPK 5,6mm với PK’; trong phòng thủ trước đợt tấn công của tiểu đội địch, và trong phòng thủ và tấn công theo đội hình tiêu đội bộ binh.

Hiệu quả bắn của súng máy cầm tay và súng máy đại đội trước trung đội địch tấn công
Thử nghiệm so sánh được tiến hành qua việc bắn các mẫu súng máy. Ba xạ thủ súng máy cầm tay sẽ lần lượt đổi giữa RPK bắn đạn 5,6mm và 7,62mm, và ba xạ thủ súng máy đại đội đổi giữa súng máy đại đội PK 7,62x54R và súng máy cầm tay RPK 5,6mm, với mỗi xạ thủ thực hiện 5 lần bắn với mỗi súng, bắn mục tiêu ẩn hiện.

Trường bắn được bố trí như sau:
  • Mục tiêu 1 - 3 ụ súng máy ở khoảng cách 600m, ẩn hiện trong 5÷7 giây.
  • Mục tiêu 2 - 3 hình người đang chạy ở khoảng cách 600÷635m, góc 45 độ so với hướngbắn và tốc độ 2m/s trong quãng đường 50m.
  • Mục tiêu 3 - 10 hình người chạy ở khoảng cách 700m, ẩn hiện trong 20 giây.
  • Mục tiêu 4 - 2 hình người cầm súng chống tăng ở khoảng cách 800m, ẩn hiện 2 lần trong 20 giây.
Thông số trung bình về hiệu quả bắn giữa 2 mẫu RPK ở bảng 1 và giữa RPK 5,6mm và PK 7,62x54R ở bảng 2.

bảng 1


bảng 2
Từ hai bảng trên, đưa ra các kết luận:
  • Khi bắn tiểu đội địch tiến công, RPK 5,6mm hiệu quả gấp 2 lần so với RPK 7,62x39mm.
  • Khi bắn tiểu đội địch tiến công, RPK 5,6mm hiệu quả gấp 1,73÷2,06 lần so với súng máy đại đội PK 7,62x54R.
  • Hiệu quả cao nhất của RPK 5,6mm đạt được trước RPK 7,62x39 là ở khoảng cách 600÷636m và tiệm cận khoảng cáo nhất ở 800m.
  • Hiệu quả cao nhất của RPK 5,6mm đạt được trước PK 7,62x54R là ở khoảng cách 800m và tiệm cận khoảng cáo nhất ở các tầm bắn khác.
Hiệu quả bắn của sún máy cầm tay và súng máy đại đội trong biên chế tiểu đội phòng thủ
Trường bắn được bố trí như sau:
  • Mục tiêu số 4 - ụ súng máy ở khoảng cách 400m, ẩn hiện trong 10 giây.
  • Mục tiêu số 6 - hai hình người chạy và một hình cầm súng phóng lựu, ẩn hiện 2 lần trong 10 giây và 30 giây.
  • Mục tiêu số 9 - hai hình người chạy và một hình cầm súng phóng lựu, ẩn hiện 2 lần trong 10 giây và 40 giây.
Ngoài ra, súng máy phối hợp với tiểu đội bắn mục tiêu Số 8 - 4 hình người chạy ở khoảng cách 700m, ẩn hiện 2 lần trong 15 giây.
Kết quả bắn trong bảng 3.

bảng 3
Theo bảng 3, kết luận được rút ra là khi trang bị trong tiểu đội phòng thủ, súng máy cầm tay 5,6mm hiệu quả hơn RPK 7,62x39 là 1,5 lần và hiệu quả hơn súng máy đại đội PK 7,62x54R là 1,2 lần.
Ngoài ra, báo cáo nêu bật rằng, tỉe lệ trúng đích trong 1 loạt liên thanh ngắn của súng máy 5,6mm ở khoảng cách 600÷800m là 0,281÷0,287, đảm bảo tiêu diệt sinh lực địch ở mọi tầm bắn theo yêu cầu lúc đó.
Hiệu quả bắn của sún máy cầm tay và súng máy đại đội trong biên chế tiểu đội tấn công
Bài bắn được thực hiện trong tư thế nằm với chân chống 2 chân và dừng lại trong quá trình tiến công. Mục tiêu được bố trí như sau:
  • Mục tiêu số 4 - 2 hình người cúi khom và 1 súng chống tăng, ẩn hiện ở khoảng cách 500m trong 10 và 40 giây.
  • Mục tiêu số 5 - 2 hình người cúi khom và 1 súng chống tăng, ẩn hiện ở khoảng cách 400m trong 10 và 40 giây.
Hỏa lực phối hợp tiểu đội:
  • Mục tiêu số 6 - 4 hình người cúi khom và 2 ụ súng máy ẩn hiện ở khoảng cách 350÷400m trong 30 giây.
  • Mục tiêu số 7 - 5 hình người cúi khom, 1 ụ súng máy và 1 súng chống tăng ẩn hiện trong 40 giây ở khoảng cách 500m.
  • Mục tiêu số 8 - 6 hình người đang chạy, 1 súng máy và 1 súng chống tăng ẩn hiện trong 40 giây ở khoảng cách 550m.
Kết quả bắn trong bảng 4:

Từ bảng 4, rút ra rằng súng máy cầm tay cỡ 5,6mm trong tiểu đội tấn công, hiệ quả hơn RPK 7,62x39 trung bình 1,68 lần, trong khi đó nó tương đương với súng máy đại đội PK 7,62x54R.
Tỉ lệ bắn trúng đích của súng máy 5,6mm ở khoảng cách 400÷500m trong loạt liên thanh ngắn đạt 0,46÷0,69 tùy vào loại mục tiêu và khoảng cách, đảm bảo tiêu diệt sinh lực địch hiệu quả.
Phân tích toàn bộ kết quả thử nghiệm hiệu quả bắn, kết luận cuối được đưa ra:
“Việc sử dụng đạn 5,6mm cho súng máy cầm tay có thể tăng hiệu quả bắn so với súng tương đương dùng đạn 7,62x39 M43 trong cả phòng thủ và chiến đấu và cho tầm bắn hiệu quả theo yêu cầu( tầm bắn hiệu quả tới 800m, tỉ lệ trúng đích ở 800m đạt 0,25) mà vẫn đạt các tiêu chí khác như sát thương, độ đâm xuyên vân vân.
Cùng với các ưu thế này, súng máy cầm tay bắn đạn 5,6mm vượt trội ở hiệu quả bắn so với súng máy đại đội PK 7,62x54R trong phòng thủ và tương đồng trong tiến công. Với khối lượng nhỏ hơn so với súng máy PK, đạn 5,6mm nhẹ hơn rất nhiều so với 7,62x54R, là các yếu tố cực kỳ quan trọng trong tiến công.
Dựa trên các kết luận này, ưu điểm của việc đồng bộ súng bộ binh của VDV về một loại đạn, nghiên cứu chỉ ra rằng cần thiết phải chế tạo một mẫu súng bắn máy cầm tay đạn nhỏ nhẹ mới, nếu VDV trang bị avtomat cỡ đạn mới.
Các nhóm thiết kế của cục thiết kế tham gia vào chương trình phát triển súng avtomat mới cũng đã phát triển súng máy đồng bộ. Như chúng ta đã biết, người chiến thắng chính là Mikhail Timofeevich Kalashnikov với nguyên mẫu Avtomat là A-3 và nguyên mẫu súng máy P-3, cả 2 được chấp nhận đưa vào trang bị với tên gọi là AK-74 và RPK-74, VDV đưa vào trang bị AKS-74 và RPKS-74.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top