[Funland] Lượm lặt tin tức quân sự đó đây, có gì đăng nấy

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Hàn Quốc cắt giảm một nửa sản lượng KF-21 Boramae so với kế hoạch ban đầu

Hàn Quốc đã công bố kế hoạch sản xuất 20 máy bay chiến đấu KF-21 Boramae trong năm nay, giảm một nửa trong số 40 chiếc dự kiến ban đầu.

1711510050869.png


Theo Cơ quan Quản lý Chương trình Mua sắm Quốc phòng (DAPA) của nước này, việc sản xuất sẽ được bố trí so le để giải quyết những lo ngại về tính khả thi đang kêu gọi tiến hành các cuộc thử nghiệm bổ sung, theo Hãng thông tấn Yonhap .

DAPA sẽ ký hợp đồng sản xuất 20 máy bay chiến đấu còn lại vào năm tới sau khi hoàn tất các cuộc thử nghiệm khả năng tên lửa không đối không và radar.

Lực lượng Không quân Hàn Quốc dự kiến những chiếc KF-21 đầu tiên sẽ được đưa vào sử dụng vào nửa cuối năm 2026, thay thế phi đội F-4 và F-5 đã cũ kỹ để trở thành máy bay chiến đấu hàng đầu của lực lượng này. Nước này ước tính sẽ triển khai hơn 120 máy bay vào năm 2032.

1711510112042.png


Chi phí sản xuất ước tính khoảng 7,92 nghìn tỷ won (5,9 tỷ USD).

Ban đầu được phát triển ở Seoul vào năm 2001, Indonesia tham gia sáng kiến này với tư cách là đối tác vào năm 2010, cam kết cung cấp 20% kinh phí và khai thác Công ty Hàng không Vũ trụ Indonesia thuộc sở hữu nhà nước để cung cấp bí quyết công nghệ trong suốt giai đoạn phát triển.

Bất chấp những thành công gần đây trong các chuyến bay thử nghiệm và triển khai công nghệ , chương trình này đã gặp phải trục trặc do vấn đề tài chính với Jakarta. Tổng cộng 114 kỹ sư Indonesia làm việc trong dự án đã rời Hàn Quốc vào năm 2021 sau khi Indonesia không trả lương cho họ, nhưng 32 nhân viên trong số đó cuối cùng đã tham gia lại chương trình.

DAPA gần đây cũng đưa ra cảnh báo mới sau khi Indonesia yêu cầu gia hạn thêm 8 năm đối với thời hạn thanh toán quá thời hạn năm 2026. Nước này hiện nợ Seoul 1 nghìn tỷ rupiah (746 triệu USD).

1711510200015.png


Hai nước tiếp tục tái khẳng định cam kết của mình đối với chương trình.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Vai trò của tác chiến mạng trong xung đột quân sự Nga - Ukraine

Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, Liên bang Nga đã tiến hành chiến dịch quân sự nhằm vào Ukraina, vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc. Cuộc xung đột vũ trang quốc tế đang diễn ra làm dấy lên lo ngại về tổn hại và tác động gây ra cho dân thường cũng như việc bảo vệ dân thường và cơ sở hạ tầng dân sự vốn đang bị ảnh hưởng bởi cả các cuộc tấn công động năng và mạng.

Thuật ngữ chiến tranh mạng - dùng để chỉ một phương thức chiến tranh trong đó các chủ thể nhà nước và phi nhà nước nhằm mục đích xâm nhập vào một máy tính hoặc mạng khác để gây thiệt hại hoặc gián đoạn - đang được sử dụng thường xuyên trong cuộc chiến tranh này. Trong khi các chuyên gia không đồng ý về quy mô, tác động và tầm quan trọng chính xác của các cuộc tấn công và chiến dịch mạng của Nga trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược của đất nước, thì không gian mạng hiện là một lĩnh vực xung đột đã được thiết lập và phát triển nhanh chóng.

Là học thuyết phòng thủ mới của Châu Âu, được Hội đồng Châu Âu phê duyệt vào tháng 3 năm 2022, La bàn chiến lược công nhận mạng là một lĩnh vực chiến tranh phải được bảo vệ thông qua hợp tác và phối hợp chặt chẽ. Đây là một sự thay đổi mô hình quan trọng đối với chính sách của EU, vốn thường nhấn mạnh khả năng phục hồi không gian mạng từ quan điểm tác động kinh tế hơn là quốc phòng.

Chiến tranh đa chiều được sử dụng trong cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra ở Ukraine đặt ra một thách thức an ninh phức tạp. Để đạt được mục tiêu này, mục đích của báo cáo này là phân tích tầm quan trọng của khía cạnh mạng trong cuộc chiến ở Ukraine, tác động của nó và các bài học kinh nghiệm. Sự hiểu biết thu được thông qua báo cáo này có thể được tận dụng để hiểu rõ hơn về môi trường đe dọa và tăng cường khả năng phòng thủ và khả năng phục hồi mạng.

Báo cáo này được cấu trúc thành bốn phần nội dung. Phần đầu tiên phân tích mức độ và tác động của khía cạnh mạng trong cuộc chiến ở Ukraine, bao gồm cả những rủi ro và tổn hại đối với dân thường. Nó mô tả vai trò của mạng trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế này, đồng thời nêu chi tiết hơn về các loại hoạt động và tấn công mạng, tầm quan trọng chiến lược của chúng cũng như các xu hướng quan sát được trong việc sử dụng mạng.

Phần thứ hai đi sâu vào các bài học kinh nghiệm dựa trên các bằng chứng được nêu ra. Điều này bao gồm sự tham gia của các chủ thể phi truyền thống tham gia vào các cuộc tấn công mạng có liên quan đến địa chính trị, tác động lan tỏa của các cuộc tấn công mạng được triển khai liên quan đến chiến tranh, mức độ phối hợp giữa các chiến dịch động năng và mạng, và – quan trọng là – tác động và tổn hại gây ra đối với dân thường bằng các cuộc tấn công và chiến dịch mạng.

Phần thứ ba trình bày chi tiết về tác động ngắn hạn và dài hạn của các hành động thù địch chống lại Ukraine, bao gồm các tác động về chính sách, pháp lý và chiến lược, tác động tiềm tàng đối với các xung đột vũ trang hiện tại hoặc tương lai khác và tác động đối với các nhiệm vụ Chính sách An ninh và Quốc phòng tổng thể của EU.

Phần kết luận được xây dựng dựa trên các phần phân tích trước đó của báo cáo và đề xuất các khuyến nghị dựa trên bằng chứng liên quan đến các thể chế của EU và đặc biệt là các nhà lập pháp EU. Phần này bao gồm tổng quan về các xu hướng và thách thức chính, cùng với các đề xuất và đề xuất nhằm giải quyết chúng.

2 Khía cạnh mạng của cuộc chiến ở Ukraine

2.1 Vai trò của mạng trong Chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine


Việc sử dụng các cuộc tấn công mạng và các chiến dịch mạng trong thời bình và trong các cuộc xung đột vũ trang ngày nay đã trở thành hiện thực. Chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine hồi tháng 2 năm 2022 đi kèm với các cuộc tấn công mạng mang tính hủy diệt và thể hiện rõ ràng xu hướng này. Việc sử dụng các cuộc tấn công mạng như một công cụ chiến tranh cũng đã được quan sát trước đây giữa các quốc gia bao gồm Liên bang Nga và Grudia, Israel và Iran, Liên bang Nga và Ukraine (đặc biệt là với việc Nga triển khai các cuộc tấn công mạng chống lại Ukraine kể từ năm 2014).

Viện CyberPeace đã ghi lại các cuộc tấn công mạng nhằm vào cơ sở hạ tầng quan trọng và các đối tượng dân sự kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga. Tài liệu về các cuộc tấn công góp phần phân tích việc sử dụng các công cụ mạng trong thời chiến. Tính đến ngày 31 tháng 5 năm 2023, Viện đã ghi nhận 1.998 cuộc tấn công và hoạt động mạng do 98 tác nhân khác nhau thực hiện. Những sự cố mạng này nhắm vào 23 lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng khác nhau, ảnh hưởng đến Ukraine, Liên bang Nga và khoảng 49 quốc gia khác.

1711535921618.png


Phần dữ liệu này cho thấy số lượng và phạm vi của các cuộc tấn công mạng nhằm vào Ukraine là rất cao và sẽ thu hút nhiều sự chú ý hơn trong các trường hợp khác nhau (nếu không có các cuộc tấn công động năng). Các cuộc tấn công được quan sát không có tính đổi mới về mặt công nghệ hoặc phương pháp được sử dụng, nhưng số vụ tấn công, thủ phạm và việc sử dụng mạng chống lại cơ sở hạ tầng quan trọng là nguyên nhân đáng báo động. Hơn nữa, mối liên hệ giữa các loại tấn công khác nhau đã được quan sát. Các cuộc tấn công và hoạt động mạng hiện là một loại hoạt động quân sự đã được thiết lập và đang được phối hợp hoặc đồng bộ hóa xung quanh các chiến dịch quân sự động năng. Chính sự kết hợp giữa các cuộc tấn công động năng và mạng này đang có tác động sâu sắc đến dân thường, ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng quan trọng và các đối tượng dân sự mà họ phụ thuộc vào, bao gồm cả không gian thông tin. Sự kết hợp này gây rối loạn và gây bất ổn.

Trong bối cảnh xung đột quân sự như chiến tranh ở Ukraine, việc sử dụng vũ khí thông thường hiện đang đạt được tác động rõ ràng hơn và có thể đo lường được nhiều hơn. Tuy nhiên, như Christian-Marc LIFLANDER, Trưởng Bộ phận chính sách mạng và lai ghép (CHP) Phòng các Thách thức an ninh mới nổi (ESC) của NATO đã nêu: 'Không giống như việc tăng cường quân đội hoặc các hình thức huy động quân sự khác không thường xuyên và dễ thấy, các hoạt động mạng là kết quả của các chu kỳ hoạt động diễn ra một cách bí mật và liên tục trong thời bình và thời chiến. Việc nhắm mục tiêu vào các mạng nhạy cảm trong thời bình cho phép kẻ tấn công đặt nền móng cho phần mềm độc hại nhằm mục đích sử dụng trong thời chiến. Các phương pháp mà kẻ tấn công sử dụng để thiết lập chỗ đứng ban đầu cho các hoạt động gián điệp không thể phân biệt được với các phương pháp xảy ra trước các cuộc tấn công mạng. Đối với các đơn vị mạng, chiến tranh về cơ bản không làm thay đổi cách họ chuẩn bị hoặc bắt đầu chiến đấu'.

Dữ liệu tổng hợp do Viện CyberPeace thu thập và phân tích ủng hộ nhận định rằng điều quan trọng là phải vượt ra khỏi những quan niệm định sẵn về vai trò của các cuộc tấn công mạng trong thời chiến cũng như vai trò của chúng trong chiến dịch quân sự của Nga.

Những quan sát từ việc sử dụng mạng trong các bối cảnh khác đã ủng hộ điều này. Trình quét phần mềm độc hại đã được sử dụng rất nhiều trong cuộc xung đột nhằm mục đích phá hủy và mã hóa dữ liệu và hệ thống. Ví dụ, cuộc tấn công vào mạng vệ tinh Viasat khiến việc truy cập internet bị gián đoạn trong hơn hai tuần. Gần 9.000 thuê bao của một nhà cung cấp dịch vụ Internet vệ tinh đã không thể truy cập Internet ở Pháp. Khoảng một phần ba trong số 40.000 thuê bao của một nhà cung cấp dịch vụ internet vệ tinh khác ở châu Âu bị ảnh hưởng và một công ty năng lượng lớn của Đức đã mất quyền truy cập giám sát từ xa tới hơn 5.800 tuabin gió. Một cuộc tấn công quét bằng phần mềm độc hại vào ngày 25 tháng 2 năm 2022 nhằm vào trạm kiểm soát biên giới đã làm chậm quá trình cho phép người tị nạn vượt biên vào Romania.

Các cuộc tấn công mạng với các yếu tố gây rối đã dẫn đến việc cản trở khả năng tiếp cận các dịch vụ viễn thông và internet, hạn chế khả năng tiếp cận tiền tệ, gián đoạn khả năng tiếp cận tin tức và trước đây đã được chứng minh là dẫn đến việc từ chối cung cấp điện, sưởi ấm và nước. Ví dụ: vào ngày 28 tháng 3 năm 2022, một cuộc tấn công vào Ukrtelecom đã dẫn đến sự sụt giảm kết nối xuống 13% so với mức trước chiến tranh, đồng thời quan sát thấy sự gián đoạn trên toàn quốc. Sự lan truyền thông tin sai lệch và tuyên truyền, bao gồm cả các cuộc tấn công vào lĩnh vực truyền thông, đang gây bất ổn vì chúng ảnh hưởng đến không gian thông tin và hạn chế khả năng tiếp cận của người dân với thông tin chính thức, đáng tin cậy và kịp thời. Điều này làm suy yếu niềm tin vào các tổ chức thông qua việc thao túng thông tin. Việc xâm phạm dữ liệu – dữ liệu bị tấn công và rò rỉ, đặc biệt là bởi các tập thể hacker – đang dẫn đến khối lượng dữ liệu khổng lồ về các tổ chức và cá nhân bị công bố trực tuyến với những tác động lâu dài chưa rõ.

Cuối cùng, điều quan trọng là phải nhấn mạnh tầm quan trọng của tính hiệu quả của hệ thống phòng thủ mạng của Ukraine trong việc đẩy lùi các cuộc tấn công và/hoặc giảm thiểu tác động của chúng. Ukraine đã tăng cường khả năng phục hồi của cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT) quốc gia cũng như ứng phó sự cố mạng trước và trong chiến tranh, với sự hợp tác của các chính phủ đồng minh và các công ty tư nhân. Khu vực tư nhân của Ukraine cũng đóng góp phần lớn vào quá trình này. Điều này bao gồm các hoạt động nhằm tăng cường khả năng phục hồi không gian mạng của Ukraine trước và kể từ các cuộc tiến công quân sự năm 2014 và 2022, cũng như hợp tác với Trung tâm Phòng thủ Mạng Hợp tác Hoàn hảo của NATO (CCDCOE).

Sự chuẩn bị của Ukraine, thừa nhận rằng nước này là đối tượng của các cuộc tấn công mạng trong nhiều năm, có liên quan đến quan hệ đối tác công-tư. Với sự bùng nổ của chiến tranh, các chủ thể tư nhân, như Microsoft, Google, Amazon và ESET, đã công khai thừa nhận vai trò của họ trong việc theo dõi và dự báo các mối đe dọa mạng, lưu trữ dữ liệu của chính phủ trên đám mây công cộng bên ngoài Ukraine và các hình thức hợp tác khác của Chính phủ Ukraine nhằm ngăn chặn các mối đe dọa trên mạng.

............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

2.2 Các loại tấn công và hoạt động mạng

Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga thể hiện một động lực quan trọng liên quan đến các mối đe dọa trên mạng cũng như các nguy cơ và lỗ hổng mới đang nổi lên. Các cuộc tấn công và hoạt động mạng đã được triển khai nhằm mục đích phá hủy dữ liệu và hệ thống, làm gián đoạn cơ sở hạ tầng và dịch vụ quan trọng, kiểm soát không gian thông tin, lấy cắp khối lượng dữ liệu, tiến hành trinh sát và gián điệp cũng như thực hiện các hoạt động gây ảnh hưởng (bao gồm các chiến dịch thông tin sai lệch nhằm làm suy giảm lòng tin đối với thông tin công khai và các thể chế, tạo ra sự nhầm lẫn và làm mất uy tín của những kẻ gây chiến và đồng minh của họ).

1711535987590.png


Tấn công phá hoại: Các cuộc tấn công mạng nhằm mục đích xóa vĩnh viễn dữ liệu hoặc làm hỏng hệ thống khiến chúng không thể phục hồi được. Những cuộc tấn công này có thể gây ảnh hưởng lâu dài đến các tổ chức nếu họ không thể truy xuất bản sao lưu hoặc thiết lập lại hệ thống. Các ví dụ bao gồm phần mềm độc hại xóa sạch nhắm mục tiêu vào các tổ chức chính phủ Ukraina và các lĩnh vực khác. Một trường hợp gần đây bao gồm sự xuất hiện trở lại của phần mềm độc hại xóa sạch có tên 'CaddyWiper' được phát hiện bởi Nhóm ứng phó khẩn cấp máy tính của Ukraine (CERT-UA). Lần triển khai phần mềm độc hại xóa sạch mới nhất diễn ra vào tháng 1 năm 2023 nhằm vào Cơ quan Thông tin Quốc gia Ukraine ‘Ukrinform’.

Các cuộc tấn công gây rối: Các cuộc tấn công mạng nhằm gây ra sự gián đoạn các dịch vụ và hoạt động đã xuất hiện nhiều trong cuộc xung đột, bao gồm cả các tổ chức của Ukraine trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, các tổ chức của Nga theo lời kêu gọi dân thường của chính phủ Ukraine và các tổ chức công ở một số quốc gia thành viên NATO sau khi có thông báo về an ninh công cộng hoặc kinh tế. Các cuộc tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DDoS) là loại tấn công phổ biến nhất được quan sát thấy trong cuộc chiến này, đặc biệt ảnh hưởng đến khu vực công và tài chính. Các cuộc tấn công DDoS chiếm 87,5% trong tổng số các cuộc tấn công mạng được Viện CyberPeace ghi nhận từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2023. Các lĩnh vực tài chính, công cộng và CNTT là mục tiêu nhiều nhất. Một xu hướng đặc biệt có hại là việc nhắm mục tiêu vào các tổ chức phi lợi nhuận của Ukraine, vốn là mục tiêu dễ bị tổn thương do mức độ chuẩn bị thấp và thiếu các biện pháp phục hồi.

Vũ khí hóa dữ liệu: Các cuộc tấn công mạng dẫn đến đánh cắp hoặc lấy cắp dữ liệu hoặc thu thập dữ liệu cho mục đích gián điệp, giám sát hoặc tình báo. Mặc dù sau này là các hoạt động được mong đợi trên không gian mạng trong bối cảnh chiến tranh và địa chính trị, nhưng sau này là các cuộc tấn công được thực hiện mạnh mẽ bởi các tập thể các tác nhân nhân danh những nhà hoạt động. Dữ liệu liên quan đến các tổ chức công và tư nhân đang được lọc và xuất bản trực tuyến với tốc độ hiếm thấy trước đây. Dữ liệu đã được vũ khí hóa trong các hoạt động hack và rò rỉ. Một sự cố đáng chú ý gần đây được phát hiện vào tháng 3 năm 2023 và cố gắng nhắm mục tiêu vào các nước EU. Một kẻ đe dọa được nhà nước Nga bảo trợ đã gửi e-mail lừa đảo với thông tin liên quan đến chuyến thăm Hoa Kỳ của Đại sứ Ba Lan. Chiến dịch này cũng sử dụng phương pháp phản ánh các hệ thống trao đổi thông tin thực tế được các quốc gia EU sử dụng. Các e-mail chứa phần mềm độc hại cho phép kẻ đe dọa thả các tập tin vào máy của nạn nhân và di chuyển qua mạng của nạn nhân để thu thập dữ liệu.

1711536025514.png


Thông tin sai lệch: Các hoạt động thông tin dựa trên thông tin sai lệch và tuyên truyền không phải là phương pháp chiến tranh mới, nhưng miền mạng đã cho phép triển khai chúng với tốc độ và quy mô chưa từng có. Các cuộc tấn công tập trung vào việc truyền bá thông tin sai lệch và tuyên truyền đã xuất hiện trong cuộc xung đột vũ trang này. Các tác nhân đe dọa dường như đang nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến không gian thông tin và hạn chế quyền truy cập vào thông tin chính thức, đáng tin cậy và kịp thời của người dân hoặc cố tình gây nhầm lẫn và phá hoại môi trường thông tin. Từ các chiến dịch tin nhắn rác lan truyền thông tin sai lệch về trục trặc kỹ thuật của máy ATM, đến các cuộc tấn công mạng vào các đài truyền hình trong đó thông tin được hiển thị sai lệch trên mã tin tức hoặc các video giả mạo được phát trực tuyến và các tác nhân đe dọa xâm phạm tài khoản e-mail để có quyền truy cập vào mạng xã hội. tài khoản của những người Ukraine cấp cao để đăng thông tin sai lệch. Ví dụ: vào tháng 7 năm 2022, các tác nhân đe dọa đã phá hủy một kênh phát thanh của Ukraine. Những kẻ thủ phạm đã lên tiếng nói rằng Tổng thống Ukraine đang được chăm sóc đặc biệt và tuyên bố sai sự thật rằng Chủ tịch Verkhovna Rada sẽ đảm nhận nhiệm vụ của Tổng thống.

Điều quan trọng cần lưu ý là đối với Liên bang Nga, 'đối đầu thông tin' hay 'chiến tranh thông tin' là một khái niệm rộng và là yếu tố then chốt giúp họ nỗ lực giành chiến thắng trong các cuộc xung đột hiện tại và tương lai, và không phải là một chức năng hay lĩnh vực riêng biệt với 'mạng'. Như vậy, thay vì “không gian mạng”, Nga lại đề cập đến “không gian thông tin”.

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

2.3 Xu hướng sử dụng mạng được quan sát thấy trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine

Liên bang Nga đã được quan sát thấy phối hợp các cuộc tấn công mạng mang tính hủy diệt và gây rối nhằm vào Ukraine, xâm nhập mạng và gián điệp ở các quốc gia mục tiêu được coi là đồng minh của Ukraine và các hoạt động gây ảnh hưởng trên mạng được thiết kế để gây ảnh hưởng đến mọi người trên toàn cầu. Mối liên hệ giữa các cuộc tấn công mạng và sự phổ biến của nội dung có hại trực tuyến, bao gồm cả thông tin sai lệch, tạo ra sự hội tụ gây ra những rủi ro đặc biệt cho người dân trên toàn thế giới và làm tăng tác động của các mối đe dọa mạng do con người gây ra đối với các cộng đồng dễ bị tổn thương.

1711536109468.png


Tác động gây tổn hại và gây mất ổn định của việc sử dụng mạng trong cuộc chiến ở Ukraine càng trở nên trầm trọng hơn do sự tham gia quy mô lớn của các chủ thể phi truyền thống và phi nhà nước, bao gồm các tin tặc được nhà nước hậu thuẫn và những người nghiệp dư hoặc tình nguyện viên yêu nước, trong một lĩnh vực mà theo truyền thống coi là sự tham gia độc quyền của các quốc gia. Việc hạ thấp ngưỡng truy cập vào môi trường mạng sẽ làm phức tạp thêm các phản ứng pháp lý có thể có đối với các cuộc tấn công mạng – làm mờ ranh giới giữa các hoạt động mạng có động cơ chính trị và tội phạm mạng, chẳng hạn như trong trường hợp các cuộc tấn công bằng ransomware bởi các nhóm tội phạm mạng tuyên bố trung thành với một quốc gia hiếu chiến.

Tác động của mạng trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga trước hết ảnh hưởng đến người dân ở Ukraine, đặc biệt là khi các cuộc tấn công và hoạt động mạng được phối hợp với các cuộc tấn công động năng. Tuy nhiên, các cuộc tấn công mạng cũng đang được thực hiện nhằm vào các mục tiêu nằm ngoài biên giới lãnh thổ của hai quốc gia hiếu chiến, điều này càng trở nên phức tạp hơn bởi tính kết nối vốn có trong không gian mạng. Hiệu ứng lan tỏa của các cuộc tấn công mạng kết hợp với hàng loạt kẻ tấn công có nghĩa là hầu như bất kỳ quốc gia, công ty hoặc tổ chức nào cũng có thể bị ảnh hưởng.

Cơ sở hạ tầng quan trọng đã trở thành mục tiêu thường xuyên trong cuộc chiến này. Vì tất cả các dịch vụ thiết yếu hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào công nghệ thông tin – truyền thông (CNTT-TT) cũng như việc xây dựng và truyền tải thông tin trực tuyến, nên sẽ có tác động rõ rệt về kinh tế và hoạt động đối với các tổ chức và chính phủ bị nhắm tới. Các cuộc tấn công mạng và hoạt động nhắm vào cơ sở hạ tầng quan trọng có thể tác động nghiêm trọng đến dân thường và có thể gây thiệt hại to lớn cho an ninh con người, gây tổn hại cho các cá nhân và cộng đồng bị ảnh hưởng.

1711536133050.png


Liên bang Nga đã được quan sát thấy phối hợp các cuộc tấn công mạng và vũ khí thông thường để gây tổn hại tối đa cho Ukraine và người dân nước này. Ví dụ: phần mềm độc hại được Microsoft xác định vào ngày 23 tháng 2 năm 2022 đã được tung ra nhằm vào các máy tính ở Ukraine vài giờ trước cuộc xâm lược. Cùng lúc đó, các cuộc tấn công mạng của Nga đã vô hiệu hóa các modem liên lạc với mạng truyền thông vệ tinh thương mại (KA-SAT của Viasat Inc) để phá vỡ khả năng chỉ huy và kiểm soát của Ukraine trong cuộc xâm lược. Các cuộc tấn công mạng khác trong cuộc xung đột nhắm vào mạng lưới chính phủ và cơ sở hạ tầng quan trọng khác trước khi triển khai các cuộc tấn công động năng.

Ở cấp độ chiến thuật, các cuộc tấn công mạng mang lại lợi thế khi kết hợp với vũ khí thông thường. Ví dụ: một cuộc tấn công mạng có thể vô hiệu hóa hoặc gây nhầm lẫn cho các mạng chỉ huy, do đó các cuộc tấn công động năng có thể nhắm mục tiêu với hiệu quả cao hơn. Việc phối hợp các chiến dịch mạng và động năng đòi hỏi phải có kế hoạch ở mức độ cao và thời điểm của một số chiến dịch mạng do Liên bang Nga triển khai cho thấy chúng nhằm hỗ trợ các chiến dịch thông thường.

Việc sử dụng vũ khí thông thường kết hợp với các hoạt động mạng nhắm vào cơ sở hạ tầng quan trọng sẽ làm tăng thêm rủi ro và tổn hại cho dân thường. Đến tháng 7 năm 2022, Nga đã tập trung vào việc gây thiệt hại cho dân thường thông qua sự kết hợp giữa các cuộc tấn công mạng và tấn công động năng – chẳng hạn như bằng cách nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng năng lượng trong mùa đông. Công ty năng lượng tư nhân lớn nhất Ukraine, DTEK, đã bị tấn công với mục đích được cho là làm mất ổn định quy trình công nghệ của họ, đồng thời nhà máy nhiệt điện của cùng công ty cũng bị tấn công. Việc cố ý nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng cần thiết cho người dân đã làm thay đổi sâu sắc môi trường an ninh, bao gồm cả việc vượt ra ngoài biên giới của hai quốc gia tham chiến.

Việc sử dụng mạng trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine đã được định hình bởi sự tham gia quy mô lớn của các phần tử phi nhà nước. Do ngưỡng tiến hành các cuộc tấn công được hạ thấp, các chủ thể quốc gia không còn là những người duy nhất có khả năng tấn công. Ngoài ra, cả hai bên tham chiến đều kêu gọi sự hỗ trợ của những người sẵn sàng tham gia 'đội quân mạng' trong những ngày đầu của cuộc chiến. Bối cảnh mối đe dọa hiện bao gồm các quốc gia, các tác nhân liên kết với quốc gia, các tập thể và những kẻ tấn công cũng như các nhóm tội phạm mạng.

1711536156123.png


Viện CyberPeace đã ghi nhận các cuộc tấn công và hoạt động mạng do 98 kẻ đe dọa khác nhau thực hiện, tính đến ngày 31 tháng 5 năm 2023. Trong số tất cả các cuộc tấn công mạng được Viện phân tích, khoảng 80% là các cuộc tấn công 'tự quy trách nhiệm', trong đó các kẻ đe dọa công khai tiết lộ một cuộc tấn công mạng và tự cho mình là tác nhân đằng sau vụ tấn công. Khía cạnh này tiếp tục chỉ ra tầm quan trọng địa chính trị có thể xảy ra của các cuộc tấn công này. Ví dụ: KillNet, một nhóm hacktivist liên kết với Nga, đã tiến hành các cuộc tấn công DDoS nhằm vào các cơ sở chăm sóc sức khỏe ở các quốc gia liên kết với Ukraine.

Môi trường mạng đang cho phép một loạt tác nhân tiến hành các cuộc tấn công ảnh hưởng đến cả các quốc gia tham chiến và không tham chiến. 'Đội quân mạng' tình nguyện do chính phủ khởi xướng đã trở thành một tác nhân đe dọa thân Ukraine đáng chú ý. Được khởi xướng bởi chính phủ Ukraine, Đội quân CNTT Ukraine là một bên tham gia ít thông thường hơn với các cuộc tấn công DDoS đang ảnh hưởng nặng nề đến tài nguyên trực tuyến của Nga. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2022, Bộ Chuyển đổi Kỹ thuật số Ukraine đã công bố lời kêu gọi một đội quân chuyên gia CNTT chiến đấu vì Ukraine trên không gian mạng. Lời kêu gọi này là rất độc đáo đối với một Quốc gia đang trong tình trạng xung đột vũ trang và nhằm mục đích thu hút nhân tài Ukraine 'tiếp tục' cuộc chiến trên mặt trận kỹ thuật số'. Trong khi gửi tới người Ukraina, trong bối cảnh toàn cầu đang phản đối sự xâm lược và tấn công quân sự của Nga nhằm vào dân thường cũng như tính chất kết nối và cởi mở của Internet, lời kêu gọi có thể đã thu hút sự tham gia của mọi người từ khắp nơi trên thế giới.

Sự tham gia của các bên liên kết lỏng lẻo trong việc triển khai các cuộc tấn công mạng trong một cuộc xung đột vũ trang đặt ra một số thách thức và đặt ra tiền lệ nguy hiểm cho bất kỳ cuộc xung đột nào trong tương lai. Sự tham gia của các bên không thuộc lực lượng vũ trang hiếu chiến sẽ làm mờ đi ranh giới về địa vị của các bên đó. Luật Nhân đạo Quốc tế (IHL) phân biệt rõ ràng giữa dân thường và lực lượng vũ trang quân sự, đồng thời đưa ra các phương thức về ý nghĩa của việc một người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một cuộc xung đột vũ trang. Thường dân trực tiếp tham gia chiến sự có thể mất đi sự bảo vệ với tư cách là dân thường theo IHL và có thể trở thành mục tiêu của các công cụ mạng hoặc động năng và/hoặc cho việc tấn công. Điều này mở rộng tác động tiềm ẩn của xung đột đối với các cá nhân và xã hội.

Các nhóm được tổ chức lỏng lẻo nếu không có sự phối hợp, huấn luyện và quy tắc tham gia phù hợp có thể gây tổn hại và tác động trực tiếp thông qua hậu quả cấp hai và cấp ba của các cuộc tấn công mà họ đang tham gia. Sự tham gia của những tác nhân như vậy vào các cuộc chiến cũng đặt ra những thách thức về quy kết trách nhiệm. Việc quy trách nhiệm về kỹ thuật phải phân biệt giữa các thủ phạm, điều này có thể khó khăn, đặc biệt nếu chiến thuật, kỹ thuật và các tiến trình (TTP) của chúng được chia sẻ giữa bọn tội phạm và lực lượng ủy nhiệm. Điều này khiến việc xác định thủ phạm thực sự trở nên khó khăn hơn. Khả năng phủ nhận danh tính của kẻ tấn công một cách hợp lý có nghĩa là có ít nguy cơ bị trả thù đối với các cuộc tấn công mạng, đồng thời, việc truy cứu trách nhiệm sai có thể làm tăng nguy cơ tính toán sai lầm và khả năng bị trả thù trong các lĩnh vực thông thường, điều này có thể làm leo thang xung đột.

Ngưỡng kỹ thuật giữa các nhóm tội phạm mạng và các tác nhân quốc gia cũng ngày càng gần hơn, trong khi “phần mềm độc hại có sẵn” và các công cụ khác đang trở nên dễ tiếp cận hơn. Cũng có trường hợp các tác nhân đe dọa đã chiếm đoạt cơ sở hạ tầng của các bên không thuộc diện bị nghi ngờ hoặc các tác nhân đe dọa khác – ví dụ: trong các hoạt động gắn cờ giả khiến việc ứng phó thích hợp trở nên phức tạp hơn. Ngược lại, những trở ngại trong việc phân bổ kỹ thuật có thể làm phức tạp thêm trách nhiệm giải trình đối với tác hại do các cuộc tấn công mạng gây ra. Điều này góp phần gây mất ổn định không gian mạng và đặt ra những thách thức quan trọng về chính sách và pháp lý.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Cuộc tấn công mạng nói trên đi kèm với việc phát động chiến dịch quân sự nhằm hiệu hóa các modem liên lạc với mạng vệ tinh KA-SAT của Viasat Inc là một ví dụ như vậy. Vụ việc đã dẫn đến sự gián đoạn trong việc cung cấp truy cập Internet cho người dân và các công ty ở cả Ukraine và nhiều quốc gia trên khắp châu Âu. Do sự kết nối của các hệ thống viễn thông, cuộc tấn công nhằm vào các cơ quan chính phủ và quân sự ở Ukraine, đồng thời gây ra tác động đến dân thường và các đối tượng dân sự ở Ukraine và hơn thế nữa, bao gồm mất khả năng truy cập internet và làm gián đoạn các hệ thống trong lĩnh vực năng lượng. Mặc dù cuộc tấn công chủ yếu ảnh hưởng đến dân thường Ukraine khiến họ không thể truy cập thông tin đáng tin cậy từ chính phủ trong cuộc xung đột, thứ hai, dân thường ở các quốc gia EU khác bị mất internet do tác động lan tỏa của cuộc tấn công bên ngoài khu vực xung đột. Sự cố này cho thấy một hoạt động mạng chống lại một hệ thống cụ thể có thể gây ra hậu quả trên nhiều hệ thống khác, bất kể các hệ thống đó được đặt ở đâu.

1711536228201.png


Cả việc nhắm mục tiêu vào các cơ sở hạ tầng quan trọng và tác động lan tỏa đối với dân thường không liên quan trực tiếp đến cuộc xung đột đều đang làm suy yếu trật tự quốc tế dựa trên luật lệ được đặt trong khuôn khổ hành vi có trách nhiệm của nhà nước trên không gian mạng. Chính phủ EU và Nhóm Ngũ nhãn (Five Eyes) đã đưa ra các tuyên bố công khai gán AcidRain cho tình báo quân đội Nga (GRU) và liên kết nó với các loại phần mềm độc hại xóa sạch phá hoại khác đã được sử dụng để nhắm mục tiêu vào chính phủ Ukraine và các mạng khu vực tư nhân. Các tuyên bố quốc gia cụ thể hơn nữa phù hợp với sự quy kết trách nhiệm này đã được đưa ra bởi một số Quốc gia Thành viên EU riêng lẻ. Phản ứng nhất quán này của nhiều chính phủ là một bước quan trọng trong việc thực hiện quy kết trách nhiệm chính trị cho các cuộc tấn công mạng và góp phần phát triển thực tiễn của các quốc gia.

Việc sử dụng các cuộc tấn công và hoạt động mạng như một phần của cuộc chiến ở Ukraine có yếu tố con người quan trọng. Những cuộc tấn công như vậy có thể khiến dân thường và cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng bị tổn hại vì các dịch vụ thiết yếu cho xã hội và nền kinh tế phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng đó. Hơn nữa, các hoạt động trên mạng tạo thêm một lớp bất ổn khác về mức độ gây hại cho người dân, vì trong một số trường hợp, tác động lên nạn nhân chỉ có thể xảy ra sau một thời gian bị gián đoạn hoặc có thể gián tiếp nhưng gây ra tổn hại.

Các cuộc tấn công phá hoại, chẳng hạn như triển khai phần mềm độc hại xóa sạch nhắm mục tiêu vào các tổ chức và thực thể Ukraina, có thể dẫn đến việc xóa dữ liệu hoặc làm hỏng hệ thống, khiến chúng không thể phục hồi được. Một ví dụ là cuộc tấn công xóa sạch nhằm vào trạm kiểm soát biên giới vào ngày 25 tháng 2 năm 2022, được cho là đã làm chậm quá trình tạo điều kiện cho người tị nạn vượt biên vào Romania.

1711536253806.png


Các cuộc tấn công gây rối dẫn đến sự gián đoạn các dịch vụ và hoạt động. Những kiểu tấn công này đặc biệt khó xảy ra đối với các lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng quan trọng - như hành chính công, năng lượng, CNTT và tài chính - ảnh hưởng đến khả năng kết nối và tính sẵn có của các dịch vụ quan trọng.

Các cuộc tấn công vũ khí hóa dữ liệu nhằm mục đích đánh cắp/lọc hoặc thu thập dữ liệu cho mục đích gián điệp, giám sát hoặc tình báo. Điều này bao gồm các cuộc tấn công hack và rò rỉ thông qua việc đánh cắp và rò rỉ dữ liệu vì mục đích chính trị hoặc ý thức hệ. Việc rò rỉ dữ liệu và thông tin từ các cơ quan và tổ chức gây mất lòng tin, chứng tỏ không có khả năng bảo mật dữ liệu nhạy cảm và có khả năng khiến các cá nhân gặp rủi ro. Mặc dù việc rò rỉ dữ liệu là những hoạt động được biết đến trong bối cảnh chiến tranh và xung đột địa chính trị, nhưng hành động hack là các cuộc tấn công được thực hiện chủ yếu bởi các tập thể các tác nhân nhân danh hoạt động. Dữ liệu liên quan đến các tổ chức công và tư nhân đang được lọc và công bố trực tuyến với tốc độ hiếm thấy trước đây. Ví dụ: trong một hoạt động bị cáo buộc là hack và rò rỉ nhằm vào một trung tâm hành chính của Ukraina, dữ liệu bị rò rỉ chứa thông tin nhận dạng cá nhân của công dân Ukraina.

Thông tin sai lệch hoặc tuyên truyền có thể dẫn đến việc truyền bá và lưu hành thông tin không chính xác, đồng thời hạn chế khả năng tiếp cận thông tin chính thức, đáng tin cậy và kịp thời của người dân. Các tác nhân đe dọa dường như đang cố gắng tác động đến thông tin được lưu hành trên các phương tiện truyền thông chính thống, làm xấu mặt các trang web hoặc thay đổi thông tin thông qua các cuộc tấn công mạng để truyền bá thông điệp địa chính trị, truyền bá thông tin sai lệch và gây ảnh hưởng đến dư luận. Thông tin sai lệch có thể gây ra những tác động thứ cấp của chiến tranh, có thể làm tăng nguy cơ hiểu lầm, xung đột, bạo lực, vi phạm nhân quyền và hành động tàn bạo trên diện rộng.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Việc sử dụng các công cụ mạng và chiến tranh thông tin trong thời bình và thời chiến đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho các chủ thể công và tư nhân về các quy tắc và quy định áp dụng cho các cuộc tấn công mạng. Các cuộc tấn công và hoạt động mạng không xảy ra trong môi trường không có yếu tố pháp lý.

Hai quy trình của Liên hợp quốc về hành vi có trách nhiệm (Nhóm công tác mở và Nhóm chuyên gia chính phủ của Liên hợp quốc) đã dẫn đến việc các quốc gia tái khẳng định sự đồng thuận của họ rằng luật pháp quốc tế áp dụng cho không gian mạng.

1711536487901.png


Cơ quan áp dụng của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc, IHL và Luật Nhân quyền, cực kỳ phù hợp trong thời điểm xảy ra xung đột vũ trang quốc tế. Luật pháp quốc tế cung cấp sự bảo vệ chống lại tổn thất tiềm tàng về con người trong các hoạt động mạng và IHL đặc biệt đảm bảo bảo vệ dân thường và cơ sở hạ tầng dân sự, đồng thời nhằm mục đích giảm bớt đau khổ.

Tuy nhiên, thực tế việc sử dụng mạng chống lại cơ sở hạ tầng quan trọng làm dấy lên mối lo ngại nghiêm trọng về cách các quốc gia tôn trọng và tuân thủ khuôn khổ pháp lý hiện hành. Các hoạt động mạng về bản chất không phải là “bất hợp pháp” theo luật pháp quốc tế, nhưng có thể bị coi là như vậy nếu chúng tạo ra những hiệu ứng vi phạm nghĩa vụ pháp lý quốc tế. Một lỗ hổng quan trọng là việc thiếu sự đồng thuận về cách áp dụng luật pháp quốc tế. Những thách thức còn lại liên quan đến khả năng áp dụng luật pháp quốc tế trên không gian mạng dẫn đến việc khai thác những điểm không chắc chắn này.

Để thu hẹp khoảng cách này, các quốc gia phải đồng ý về các quy tắc rõ ràng về trách nhiệm của mình theo IHL, nêu rõ cách áp dụng các nguyên tắc này đối với việc sử dụng CNTT và hoạt động trong bối cảnh xung đột vũ trang. Những giải thích rõ ràng này cũng nên xem xét Quy chế Rome, vốn đặc biệt phù hợp với sự tham gia của các chủ thể phi truyền thống, vì nó áp đặt nghĩa vụ của mọi quốc gia trong việc thực thi quyền tài phán hình sự của mình đối với những người chịu trách nhiệm về tội phạm quốc tế. Có một số cách chúng ta có thể làm để xây dựng sự hiểu biết chung về trách nhiệm giải trình đối với hành vi sử dụng mạng có mục đích xấu, bao gồm thông qua các tuyên bố của chính phủ và việc thực thi của đất nước. Các quốc gia cũng có thể chủ động làm rõ luật pháp quốc tế đã bị vi phạm như thế nào, chẳng hạn như khi áp dụng các biện pháp trừng phạt hoặc khi đưa ra các cáo buộc chính trị.

1711536511730.png


Hơn nữa, các phản ứng chính sách và pháp lý hiện tại cần được làm rõ thêm, nếu không sẽ không thể giải quyết hiệu quả những thách thức này vì một số lý do khác. Ví dụ: các công cụ mạng có thể đóng vai trò là công nghệ lưỡng dụng cho mục đích quân sự và dân sự, điều này làm tăng thêm mức độ phức tạp. Danh sách chưa đầy đủ các giải thích cần thiết bao gồm việc xác định những gì cấu thành một 'cuộc tấn công', 'gây tổn hại', 'đối tượng', 'mục tiêu quân sự' và 'trách nhiệm hình sự' trên không gian mạng và sự thiếu đồng thuận về các phản ứng cụ thể đối với các loại hình khác nhau của các cuộc tấn công. Hơn nữa, các quy định của luật pháp quốc tế thời bình chủ yếu bị thách thức trong các hoạt động mạng độc hại bao gồm các khái niệm về chủ quyền, thẩm định và không can thiệp, và điều quan trọng là phải làm rõ phạm vi của chúng trong không gian mạng.

Cho đến nay, bản thân các hoạt động mạng không đảm bảo đạt được các mục tiêu chiến lược trong xung đột vũ trang. Các công cụ và phương pháp sử dụng mạng trong cuộc chiến ở Ukraine có thể là dấu hiệu cho thấy các cách tiếp cận có thể được sử dụng trong các cuộc xung đột vũ trang trong tương lai, vì cuộc xung đột này là phép thử cho cả việc sử dụng mạng tấn công và phòng thủ. Các cuộc tấn công mạng, chiến tranh thông tin và tấn công động năng có mối liên hệ nội tại trong chiến tranh hiện nay và trong tương lai. Mối liên hệ này là chìa khóa để hiểu các cuộc tấn công phối hợp ở Ukraine, tác động của chúng đối với một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng và các chiến dịch gây ảnh hưởng trên mạng nhắm vào nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm cả các quốc gia tham chiến. Không gian mạng ngày càng mất ổn định bởi sự tham gia quy mô lớn của các chủ thể phi truyền thống. Một khía cạnh mang tính quyết định trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga là gây tổn hại cho dân thường.

Điều quan trọng là phải rút ra những bài học từ cuộc xung đột vũ trang này và đảm bảo rằng có trách nhiệm giải trình phù hợp đối với những hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, bao gồm cả việc buộc thủ phạm phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Hơn nữa, một khi các hoạt động thù địch chấm dứt, điều quan trọng là phải xác định cách thức sử dụng mạng để vi phạm luật pháp quốc tế.

Những thách thức công nghệ khác xuất hiện trong bối cảnh chiến tranh và có thể ảnh hưởng đến các cuộc xung đột hiện tại và tương lai, bao gồm sự gia tăng nhanh chóng của thị trường khai thác zero-day, tác động mang tính hệ thống của các lỗ hổng trong phần mềm nguồn mở được sử dụng rộng rãi, các mối đe dọa cụ thể do phần mềm ransomware thương mại gây ra, và các công cụ có thể kích hoạt các phương thức tác chiến mạng mới, chẳng hạn như sử dụng các mô hình ngôn ngữ lớn và Trí tuệ nhân tạo tổng quát (AI) giúp tăng khả năng thực hiện các hoạt động và tấn công mạng. Những công cụ này càng làm giảm ngưỡng cho các tác nhân tham gia vào xung đột.

1711536373932.png


CSDP là trụ cột chính của La bàn chiến lược của EU nhằm tăng cường chính sách an ninh và quốc phòng của khối. Trong toàn bộ các nhiệm vụ CSDP, EU tận dụng hỗ trợ song phương nhằm mục đích tăng cường khả năng phục hồi của lĩnh vực an ninh của các quốc gia tương ứng, bao gồm an ninh mạng, chống lại thông tin sai lệch và các hoạt động thông tin phối hợp khác. Công việc này nhằm mục đích tăng cường khả năng phục hồi mạng trong nước, đồng thời đặt khía cạnh dân sự vào an ninh quốc gia như một phần của cách tiếp cận an ninh toàn diện. Sự hỗ trợ này đặc biệt có liên quan khi xét đến khía cạnh khu vực của cuộc chiến ở Ukraine, đối với cả các nước thành viên EU và các sứ mệnh CSDP, vì một nước láng giềng không có an ninh sẽ gây ra mối đe dọa cho an ninh của các Quốc gia Thành viên.

Để ứng phó với cuộc chiến ở Ukraine, vào tháng 6 năm 2022, Nghị viện Châu Âu đã thông qua nghị quyết về an ninh trong Hiệp định Đối tác Phương Đông (EaP) và vai trò của chính sách an ninh và quốc phòng chung, trong đó kêu gọi EU 'mở rộng các cơ chế hỗ trợ cho sự tham gia sâu hơn của các nước EaP vào các sứ mệnh và hoạt động dân sự và quân sự của CSDP'. Khả năng phục hồi không gian mạng của các nhiệm vụ và hoạt động CSDP cần đáp ứng những bài học rút ra từ cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine. Bảo vệ chống lại một cuộc xâm lược quân sự đa chiều đòi hỏi các chiến lược phối hợp và toàn diện để tăng cường khả năng phòng thủ trước một loạt các cuộc tấn công mạng mang tính hủy diệt và gây rối, xâm nhập và rò rỉ dữ liệu cũng như gây ảnh hưởng đến các hoạt động sử dụng tuyên truyền, thông tin sai lệch và tin tức giả mạo. Các hoạt động gây ảnh hưởng trên mạng đặc biệt có vị trí thuận lợi để có tác động sâu rộng vượt ra ngoài các quốc gia hiếu chiến, vì chúng tận dụng sự cởi mở lâu đời của các xã hội dân chủ và sự phân cực lớn vốn là đặc điểm của xã hội ngày nay. Để ứng phó với những thách thức này, Phái đoàn Đối tác CSDP ở Moldova, được chính thức thành lập vào ngày 24 tháng 4 năm 2023 theo yêu cầu của chính quyền Moldova, được thiết kế đặc biệt để giải quyết chiến tranh lai ghép.

1711536415732.png


Khả năng phục hồi và phòng thủ không gian mạng ngày càng tăng đòi hỏi phải có quá trình đào tạo, lập kế hoạch và triển khai phối hợp chặt chẽ hơn giữa các chủ thể EU và các nước chủ nhà thực hiện các nhiệm vụ và hoạt động CSDP. Cách tiếp cận có mục tiêu đối với các quốc gia nên xem xét những tiến bộ công nghệ gần đây, cũng như những bài học rút ra từ việc bảo vệ cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng. Mặc dù một số biện pháp có thể được áp dụng xuyên suốt các sứ mệnh, nhưng mỗi nhóm hoạt động phải phù hợp với nhu cầu và bối cảnh để tương ứng với nhu cầu và thực tế của các sứ mệnh, đồng thời phù hợp với hệ sinh thái EU hiện có rộng lớn hơn. EU cũng nên khám phá các lựa chọn khác nhau về cách hỗ trợ các quận thông qua các biện pháp hiện có và các chương trình xây dựng năng lực đã được áp dụng - ví dụ: thông qua các cơ chế thúc đẩy truyền thông điệp và tín hiệu chính trị, các biện pháp trừng phạt đối với thủ phạm và bao gồm cả các luồng ngoại giao trong việc xây dựng năng lực an ninh mạng. Các Biện pháp Hỗ trợ Cơ sở Hòa bình Châu Âu (APF) có vị trí tốt để cung cấp hỗ trợ như vậy và đã được sử dụng để tăng cường khả năng phục hồi của Ukraine, Grudia và Moldova nhằm chống lại các mối đe dọa lai, bao gồm cả các cuộc tấn công mạng.

Những tiến bộ gần đây về thông tin tình báo về các mối đe dọa mạng và bảo vệ đầu cuối đã giúp Ukraine chống lại đa số các cuộc tấn công mạng có tính tàn phá và gây rối. Việc mở rộng hợp tác trong lĩnh vực đe dọa mạng phải bao gồm công việc của tất cả các bên liên quan nhằm phân tích bối cảnh mối đe dọa và diễn biến của xung đột mạng, đồng thời tăng cường nguồn lực cho các sáng kiến nâng cao nhận thức về an ninh mạng. Hai cân nhắc trước mắt để tăng cường khả năng phục hồi và phòng thủ không gian mạng phản ánh mô hình phòng thủ mạng thành công của Ukraina là ưu tiên quan hệ đối tác công tư và bảo vệ xuyên biên giới tài sản dữ liệu của một quốc gia trước các cuộc tấn công mạng hoặc động năng. Ngoài ra, việc liên lạc và chia sẻ thông tin kịp thời về các mối đe dọa và lỗ hổng mạng trong và giữa các quốc gia, cũng như giữa khu vực công và tư nhân là điều cần thiết để đảm bảo sự chuẩn bị tốt hơn và hành động phòng ngừa có thể được thực hiện trước khi các mối đe dọa xảy ra, thay vì sau khi một sự kiện xảy ra. địa điểm. Sự chuẩn bị sẵn sàng và quan hệ đối tác trong lĩnh vực an ninh mạng được phát triển từ năm 2014 là chìa khóa cho hoạt động phòng thủ mạng của Ukraine.

Theo dự án Nhóm phản ứng nhanh về mạng thuộc cơ quan Hợp tác cấu trúc thường trực (PESCO) và Dự án hỗ trợ lẫn nhau về an ninh mạng (CRRT) của EU, EU có thể tập hợp năng lực an ninh mạng của các Quốc gia Thành viên và cung cấp hỗ trợ theo yêu cầu. EU đã kích hoạt CRRT của mình để hỗ trợ phòng thủ mạng của Ukraine lần đầu tiên trong bối cảnh hoạt động, theo yêu cầu của chính phủ Ukraine một tuần trước cuộc xâm lược vào tháng 2 năm 2022. Dự án CRRT cũng sẽ được triển khai cho các thành viên khác của EU. Cộng đồng Chính sách Châu Âu (EPC) như đã thống nhất trong cuộc họp của EPC ở Moldova vào ngày 1 tháng 6 năm 2023.

EU đã xây dựng và đang triển khai luật nhằm tăng cường khả năng phục hồi không gian mạng của mình (tổng quan trong Phần 4). Các sáng kiến như Chỉ thị An ninh Thông tin và Mạng đóng vai trò là ví dụ cho các quốc gia ứng cử viên đang tìm cách điều chỉnh luật pháp của họ cho phù hợp, bao gồm Ukraine và Moldova. EU đã hỗ trợ xây dựng luật an ninh mạng quốc gia của Moldova. Luật này sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2025. Luật này được soạn thảo có tính đến các thực tiễn tốt nhất từ luật pháp EU, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho liên lạc trong khu vực và quốc tế, đồng thời giúp tăng cường an ninh và khả năng phục hồi của không gian mạng Moldova. Sự hỗ trợ cho việc soạn thảo Luật An ninh mạng được cung cấp bởi các chuyên gia của Học viện Quản trị điện tử Estonia (eGA) trong Dự án Hỗ trợ Nhanh Moldova do Cơ quan Hòa bình Châu Âu của EU tài trợ.

CSDP đặt mục tiêu đưa EU đóng vai trò dẫn đầu trong việc gìn giữ hòa bình và ngăn ngừa xung đột. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của các nhiệm vụ dân sự, các Quốc gia Thành viên đã đồng ý về một Hiệp ước Dân sự mới trong khuôn khổ CSDP. Do đó, nước này nên thực hiện các biện pháp cụ thể để thúc đẩy hòa bình mạng, dựa trên sự hiểu biết về các mối đe dọa do các cuộc tấn công và hoạt động mạng gây ra trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị và xung đột vũ trang. Thông tin này cần được cung cấp cho công chúng để thông báo không chỉ cho các quốc gia mà còn cho các chủ thể trong ngành công nghiệp, học viện và xã hội dân sự tham gia vào các sáng kiến xây dựng năng lực, chẳng hạn như các sứ mệnh phát triển năng lực dân sự của CSDP. Đồng thời, điều quan trọng là phát triển khả năng đo lường tác hại và tác động của các cuộc tấn công mạng, nếu không có khả năng này thì không thể truy đòi trách nhiệm giải trình và công lý.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
NATO sẽ ra sao nếu Ukraine đầu hàng?

Chiến tranh Ukraine đang chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho Nga khi Ukraine thiếu hụt trầm trọng thiết bị và nhân lực từ phương Tây.

Anh sắp sửa ký Hiệp ước An ninh hàng hải với Ukraine cũng như tăng cường ủng hộ đất nước do Volodymyr Zelensky lãnh đạo và đang chìm trong chiến tranh. Trong khi đó, Đức đang tăng cường cam kết cung cấp vũ khí cho Ukraine, cho dù kho vũ khí của nước này trên thực tế đang trống rỗng. Anh và Đức đều đang vét sạch hầu bao và kho vũ khí của mình trong khi Mỹ cũng đang cố gắng làm điều tương tự.

1711536874870.png


Đồng thời, tờ Washington Times, trong một bài viết của Bill Gertz, đưa tin dân biểu đảng Cộng hòa Mike Gallagher (tiểu bang Wisconsin), Chủ tịch Ủy ban đặc biệt của Hạ viện Mỹ về Trung Quốc, đã đưa ra một số ý tưởng mới giúp Đài Loan tận dụng các loại vũ khí lỗi thời trong kho của Mỹ, chủ yếu là do họ gần như không thể có được vũ khí mới ngay bây giờ. Gallagher nhận định: “Các trò chơi chiến tranh gần đây mô phỏng xung đột với Trung Quốc về Đài Loan cho thấy chưa đầy một tuần kể từ khi tham gia xung đột, Mỹ sẽ hết bom và tên lửa dẫn đường chính xác tầm xa”.

Theo báo cáo của Bill Gertz, Lầu Năm Góc còn đang nợ Đài Bắc đơn hàng vũ khí trị giá hơn 2 tỷ USD do sự chậm trễ của ngành công nghiệp quốc phòng. Đài Loan đang chờ 400 tên lửa Harpoon và 100 bệ phóng Harpoon mà Lầu Năm Góc công bố trong một thương vụ cách đây hơn 3 năm, và có lẽ phải đến năm 2029 hòn đảo này mới nhận được số vũ khí nói trên. Điểm mấu chốt là Mỹ sẽ phải mất thêm 5 năm nữa (tổng cộng 8 năm) mới có thể bàn giao tên lửa Harpoon cho Đài Loan. Đối với những loại đạn pháo dùng cho chiến tranh như đạn pháo 155 mm và 120 mm, thời gian hoàn tất đơn hàng thậm chí còn lâu hơn. Sự yếu kém và các vấn đề của cơ sở công nghiệp quốc phòng Mỹ dường như không đáng kể so với tình trạng thiếu nhân lực đang ảnh hưởng đến hầu hết các nước thành viên NATO, trong đó có Mỹ.

Quân đội nhỏ của Đức đang thiếu tân binh. Giống như Mỹ, Đức có lực lượng tình nguyện viên, nhưng tình hình đang trở nên tồi tệ đến mức Chính phủ Đức đang nghĩ đến việc xây dựng chế độ quân dịch bắt buộc. Trong bối cảnh Chính phủ Đức đang nhanh chóng mất đi sự ủng hộ về mặt chính trị, việc cố gắng thuyết phục Bundestag, Quốc hội Đức, bỏ phiếu thông qua chế độ quân dịch bắt buộc sẽ là hành động tự sát chính trị. Bộ trưởng Quốc phòng Đức Boris Pistorius hiểu rõ vấn đề, nhưng chưa đưa ra được giải pháp nào có thể được người dân ủng hộ.

1711536922802.png

Quân đội Đức

Chính trường Đức đang nghiêng về cánh hữu, và đảng cực hữu AfD đang giành được sự ủng hộ ngày càng tăng từ cử tri. AfD vẫn chưa đưa ra quan điểm về chế độ quân dịch bắt buộc. Tuy nhiên, là một đảng theo chủ nghĩa dân tộc, AfD muốn dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt đối với Nga và không ủng hộ bất kỳ sáng kiến quốc phòng nào trên toàn châu Âu.

Tính đến cuối tháng 10/2023, quân số lực lượng vũ trang Đức đã giảm xuống còn 181.383 người và hàng nghìn chỗ trống chưa được bổ sung. Tờ Bild của Đức nhận định quân đội Đức không có sức mạnh cũng như trang thiết bị cần thiết để bảo vệ đất nước một cách hiệu quả. Tuy nhiên, cùng lúc Bild chỉ ra cuộc khủng hoảng quân sự, Đức tuyên bố sẽ gửi một lữ đoàn 5.000 quân tới Litva. Lữ đoàn này sẽ đóng quân ở vị trí cách biên giới Belarus chưa đầy 20 km. Theo Bộ Quốc phòng Đức, lữ đoàn sẽ được bố trí lại vào quý II/2024 và dự kiến đạt trạng thái sẵn sàng chiến đấu vào năm 2027. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Đức Pistorius cho biết: “Chúng tôi không có đội quân đủ khả năng bảo vệ đất nước trước một cuộc tấn công quân sự hay một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc”. Mâu thuẫn là điều hiển nhiên.

Quân đội Anh cũng là một vấn đề lớn. Cơ quan Giám sát quốc phòng và an ninh báo cáo: “Từ lâu được xem là quân đội đẳng cấp thế giới, lực lượng vũ trang Anh đang gặp khó khăn trong vấn đề tuyển dụng trong khi kế hoạch cắt giảm nhân sự vẫn sẽ được thực hiện theo Văn bản của Bộ Chỉ huy quốc phòng được công bố vào năm 2021. Có nhiều vấn đề quan trọng và dai dẳng liên quan đến tình trạng nhà ở của quân nhân, đạn dược và các chương trình mua sắm”.

1711536982539.png

Quân đội Anh

Sky News đã chỉ ra quy mô của vấn đề mà lực lượng vũ trang Anh đang phải đối mặt. Kênh tin tức này cho biết quân đội sẽ hết đạn dược chỉ sau vài ngày xảy ra xung đột vũ trang. Anh cũng bị cho là thiếu khả năng bảo vệ không phận do tên lửa và máy bay không người lái ngày nay có sức mạnh và năng lực ngày càng lớn.

Ngoài ra, phải vài năm nữa mới đến hạn thay thế toàn bộ xe tăng và xe bọc thép cũ kỹ của Anh, và thực tế trên ảnh hưởng đến nỗ lực hiện đại hóa của nước này. Các nguồn tin khẳng định Lục quân Anh sẽ phải mất từ 5-10 năm mới có thể thành lập một sư đoàn chiến đấu với hơn 30.000 quân và được hỗ trợ bởi xe tăng, hệ thống pháo binh và trực thăng có hỏa lực mạnh.

Ngày nay, Lục quân Anh có quy mô nhỏ hơn so với thời điểm diễn ra Cách mạng Mỹ (tháng 4/1775). Toàn bộ quân đội Anh hiện có 142.560 thành viên. Lục quân Anh hiện có 77.540 binh sĩ ở mọi cấp bậc. Điều này có nghĩa là lực lượng chiến đấu nhỏ hơn nhiều, khoảng 30.000 người.

Ở châu Âu, Anh là nước hỗ trợ nhiều nhất cho Ukraine trong cuộc chiến với Nga. Họ đang dốc cạn kho vũ khí công nghệ cao của mình để hỗ trợ quân đội Ukraine. Anh cũng đang hỗ trợ Ukraine trên thực địa và trong công tác tình báo chiến trường, đồng thời đang lên kế hoạch cho các hoạt động bí mật đặc biệt như kế hoạch phá hủy cây cầu bắc qua eo biển Kerch trị giá 3 tỷ USD nối Nga với Crimea.


..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Không có nhiều bài viết về quân đội Pháp. Được biết trang thiết bị của Pháp không hoạt động tốt trước người Nga trong cuộc chiến Ukraine. Pháo tự hành CAESAR gây thất vọng lớn trên chiến trường, dễ bị hỏng hóc và là mục tiêu của máy bay không người lái Lancet của Nga. Pháp đã gửi 18 chiếc trong số này tới Ukraine, chiếm 25% tổng số pháo tự hành 155 mm. Như tin đã đưa, việc sản xuất pháo tự hành mới mất nhiều năm.

1711537146431.png

Quân đội Pháp

Tương tự, thiết giáp AMX-10RC của Pháp được chứng minh là cái bẫy chết người đối với những người điều khiển ở Ukraine, vì vỏ giáp mỏng của loại xe này bị cho là không đủ để bảo vệ họ trên tiền tuyến. Được mệnh danh là “kẻ diệt tăng”, nhưng loại thiết giáp này thường xuyên bị tiêu diệt. Sau trải nghiệm tồi tệ với xe tăng AMX và xe tăng Leopard của Đức, Pháp quyết định không gửi xe tăng chiến đấu chủ lực Leclerc tới Ukraine.

Công bằng mà nói, xe chiến đấu Bradley của Mỹ và xe chiến đấu bánh xích Marder của Đức, chưa kể xe tăng Leopard xấu số, đều bị phá hủy ở Ukraine. Nghiên cứu của Tập đoàn Rand (Mỹ), nhà thầu quan trọng của Lầu Năm Góc, cho thấy quân đội Pháp là đồng minh yếu ớt trong cuộc chiến với Nga.

Lục quân Mỹ cũng đang đối mặt với khủng hoảng tuyển dụng. Không chỉ gặp rắc rối trong tuyển dụng, Lục quân Mỹ cũng gặp khó khăn trong việc đào tạo hạ sĩ quan có năng lực. Hạ sĩ quan là trái tim và linh hồn của quân đội Mỹ, là lực lượng giúp quân đội Mỹ hoạt động đúng chức năng.

Chưa đến một nửa số vị trí được lấp đầy. Trang mạng military.com cho biết: “Khóa tuyển dụng quân đội kéo dài 8 tuần tại Fort Knox, Kentucky, có thể đào tạo tối đa 2.866 sinh viên trong tổng số 53 lớp. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy chỉ có 1.336 sinh viên tốt nghiệp trong năm tài chính 2023, kết thúc cuối tháng 9”.

1711537190650.png

Lục quân Mỹ

Chính Lục quân cũng phải đối mặt với vấn đề tuyển dụng trong năm 2022 và 2023. Lục quân còn thiếu 10.000 người so với mục tiêu tuyển dụng 65.000 tân binh trong năm tài chính 2023. Năm 2022, họ còn thiếu 15.000 người so với mục tiêu tuyển dụng 60.000 tân binh. Lục quân đang cố gắng giải quyết vấn đề, nhưng phần lớn dựa trên cách tiếp cận WOKE (thức tỉnh, được hiểu theo nghĩa 'đánh thức năng lực tự nhận thức chính trị', với mong mỏi sẽ không sớm quay lại trạng thái lờ đờ gà gật trước đó - ND) kỳ lạ của ban lãnh đạo và vô số vấn đề phức tạp của Lục quân, đặc biệt từ sau đại dịch COVID-19, khi Lầu Năm Góc ra lệnh cho quân nhân phải tiêm chủng nếu không muốn bị trục xuất khỏi quân đội. Hiện có rất nhiều vụ kiện về chính sách thất bại của Lầu Năm Góc.

Ngoài sự thiếu hụt về nhân lực và vật tư, quân đội NATO còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu, cho dù có rất nhiều “cố vấn” đang có mặt ở Ukraine để hỗ trợ quân đội nước này. Các cố vấn chưa có trải nghiệm như quân đội tiền tuyến, nên quá trình học tập có thể giúp nâng cao kiến thức về chiến thuật và tác chiến, chứ không có giá trị trong thực chiến.

Ukraine đang thiết hụt nhân lực trầm trọng, và việc áp dụng các biện pháp tuyển dụng hà khắc không được nhiều người ủng hộ và có thể buộc Zelensky phải từ chức. Những người lính bị ép tòng quân không chiến đấu hiệu quả và do đó chỉ làm bia đỡ đạn trên chiến trường.

1711537223654.png


Điều tồi tệ hơn là nhiều người trong nhóm phản đối chế độ quân dịch bắt buộc ở Ukraine (một vài người trong số đó đã trả cho những người phụ trách tuyển quân số tiền thường là 1.000 USD) đến từ hàng ngũ lãnh đạo do Đ..C..S lựa chọn (nomenklatura) – cụ thể là tầng lớp thượng lưu, những người có kỹ năng cấp cao, hoặc những người xuất thân từ các gia đình có đặc quyền và có quan hệ với chính giới.

Chính quyền Biden cho rằng việc đánh bại Nga ở Ukraine sẽ bảo vệ châu Âu khỏi một cuộc tấn công của Nga trong tương lai. Lập luận phản bác cho rằng việc tiếp tục hỗ trợ Ukraine có thể khiến chiến tranh lan sang châu Âu. Trong một thời gian dài, Mỹ và đồng minh đã gây nguy hiểm cho an ninh châu Âu bằng cách cung cấp cho Ukraine vũ khí, đội ngũ cố vấn, hỗ trợ quân sự-tình báo và rất nhiều tiền mặt.

Cho đến nay, người Nga vẫn chưa đáp trả bằng cách tấn công các tuyến cung cấp bên ngoài Ukraine, cũng như chưa ngăn chặn dòng chảy khí đốt hay các mặt hàng khác (bao gồm cả urani) đến châu Âu và Mỹ như một phản ứng đối với sự hỗ trợ của phương Tây dành cho Ukraine. Hầu hết các báo cáo cho thấy Nga đã chiếm thế thượng phong ở Ukraine và đã bắt đầu một cuộc tấn công có giới hạn, ít nhất cho đến nay, dường như nhằm mục đích bảo vệ Donbass. Tuy nhiên, quân đội thường sụp đổ nhanh chóng một khi các nhà lãnh đạo quân sự cũng như binh lính cho rằng họ sắp bị lật đổ.

1711537253083.png


Tại Việt Nam vào năm 1975, các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ nghĩ rằng Quân đội miền Nam Việt Nam có thể giữ vững Quân đoàn I trước các cuộc tấn công do quân đội chính quy miền Bắc Việt Nam phát động. Đó là suy nghĩ viển vông. Quân đoàn I tan rã chỉ sau vài ngày và quân đội miền Bắc Việt Nam nhanh chóng di chuyển về phía Nam, tiến vào Sài Gòn. Cuộc tháo chạy tán loạn bắt đầu.

Việc khắc phục nhược điểm là vấn đề khó khăn đối với NATO vì tổ chức này ra vẻ là một liên minh tấn công chứ không phải một hệ thống phòng thủ. Sau khi nhanh chóng mở rộng biên giới với Nga, NATO có tham vọng kết nạp Ukraine. Tuy nhiên, tham vọng lần này của NATO khó trở thành hiện thực vì Nga không chấp nhận mục tiêu bành trướng của họ. Nếu Ukraine đầu hàng đúng như mong muốn của Nga, thì NATO sẽ phải chịu một thất bại nặng nề và đây sẽ là thất bại đầu tiên của NATO kể từ khi liên minh này được thành lập vào tháng 4/1949.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
“Trật tự dựa trên quy tắc” phiên bản Mỹ dưới góc nhìn tranh chấp Biển Đông

Những năm gần đây, Mỹ tăng cường can dự vào vấn đề Nam Hải (Biển Đông), coi đây là chìa khóa để kiềm chế Trung Quốc, đặc điểm nổi bật là sử dụng “trật tự dựa trên quy tắc” làm cơ sở lý luận và chính sách, cố gắng xây dựng trật tự phiên bản Mỹ ở Nam Hải. Tuy nhiên, những hành động thực tế của Mỹ như “tự do hàng hải”, các cuộc tập trận hải quân và Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương… lại gây hỗn loạn trật tự Nam Hải, làm tổn hại đến an ninh khu vực, trái ngược với “trật tự dựa trên quy tắc” do chính Mỹ đề xướng.

Đề xuất và điểm mấu chốt của “trật tự dựa trên quy tắc”

“Trật tự dựa trên quy tắc” ban đầu được Mỹ đề xuất. Giới chính trị và quân sự Mỹ nhiều lần nhấn mạnh nước này có trách nhiệm giúp các nước châu Á duy trì trật tự, đồng thời xác định Trung Quốc là “kẻ phá hoại” trật tự này. Các đồng minh của Mỹ như Australia, Ấn Độ, Philippines và Nhật Bản có giọng điệu tương tự, nhấn mạnh rằng cần phải thiết lập và duy trì “trật tự dựa trên quy tắc” ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, coi hành vi bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc ở Nam Hải là thách thức.

1711537432087.png


Các cuộc tranh luận về “trật tự dựa trên quy tắc” trong giới học thuật châu Âu và Mỹ cũng đang nóng dần lên. “Những quy tắc” trong cụm từ “trật tự dựa trên quy tắc” ban đầu được một số nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Nam Phi hay Mexico hiểu là luật pháp quốc tế với nền tảng và cốt lõi của Hiến chương Liên hợp quốc. Tuy nhiên, các cường quốc phương Tây lợi dụng điều đó như vỏ bọc để đơn phương tạo ra các quy định nhằm bảo vệ lợi ích riêng của mình. Về bản chất, “trật tự dựa trên quy tắc” là điểm tựa để Mỹ và các đồng minh can thiệp sâu vào các vấn đề ở Nam Hải và mở rộng ảnh hưởng, tạo cơ sở hợp pháp và chính nghĩa nhất định cho việc tuyên truyền sai sự thật nhằm kiềm chế và loại bỏ Trung Quốc. Phân tích của giới học thuật Trung Quốc hiện nay về vấn đề này chủ yếu tập trung vào cuộc đọ sức quyền lực Trung-Mỹ, sự cạnh tranh về các quy tắc giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, cũng như quy luật chung về sự phát triển của các quy tắc và trật tự.

1711537480063.png


Góc nhìn thứ nhất bắt đầu từ trò chơi quyền lực giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước phương Tây, phản đối một số nước lợi dụng danh nghĩa “quy tắc” và “trật tự” để theo đuổi bành trướng bá quyền và xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc.
Góc nhìn thứ hai bắt đầu từ sự cạnh tranh về quy tắc và hội nhập lẫn nhau giữa Trung Quốc, Mỹ và các nước Đông Nam Á, cho rằng những yếu tố này thúc đẩy một cách khách quan việc hình thành các quy tắc và xây dựng trật tự.
Góc nhìn thứ ba dựa trên đặc tính và sự phát triển của các quy tắc và trật tự, cho rằng sự thay đổi của góc nhìn thứ hai diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trật tự quốc tế bền vững cần liên tục được điều chỉnh để phù hợp nhu cầu lợi ích chính đáng của tất cả các nước. Các quan điểm trên chỉ ra việc thiếu “trật tự dựa trên quy tắc” từ các góc nhìn khác nhau, tuy nhiên chưa xây dựng được khung phân tích lý thuyết về xây dựng quy tắc và trật tự ở cấp độ quan hệ quốc tế. Lời nói và hành động của Mỹ có nhiều điểm tự mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, giới học thuật Trung Quốc vẫn thiếu lập luận có hệ thống và phân tích có mục tiêu liên quan đến phát ngôn và hành vi không nhất quán của Mỹ ở Nam Hải.

Diễn biến lịch sử của chính sách của Mỹ đối với Biển Đông

Cái gọi là "trật tự dựa trên quy tắc" do Mỹ đề xuất hiện nay có vẻ trung lập, khách quan, dựa trên luật pháp và quy tắc quốc tế. Trên thực tế là biến các quy định quốc tế thành công cụ, đơn phương sử dụng các điều khoản có lợi để kiềm chế Trung Quốc, tăng cường sự hiện diện quân sự và tầm ảnh hưởng của Mỹ ở Nam Hải. Bản chất của "trật tự dựa trên quy tắc" là trật tự của sức mạnh. Điều này được thể hiện qua diễn biến lịch sử của vấn đề Nam Hải và những thay đổi trong quan hệ Trung-Mỹ hiện nay, đặc biệt là diễn biến chính sách Nam Hải của Mỹ dưới thời Chính quyền Obama, Trump và Biden từ năm 2010 đến nay.

1711537525383.png


Dưới thời Chính quyền Obama, Mỹ đã rút khỏi cuộc chiến chống khủng bố, chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á và bắt đầu can thiệp tích cực vào vấn đề Nam Hải, Mỹ gia tăng quyền lực dưới danh nghĩa bảo vệ các quy định pháp lý quốc tế. Ngoại trưởng Mỹ khi đó Hillary Clinton đã thúc đẩy mạnh mẽ chính sách “xoay trục sang châu Á-Thái Bình Dương”. Vấn đề Nam Hải ngày càng trở thành trọng tâm trong các vấn đề toàn cầu và châu Á-Thái Bình Dương cũng như trong các cuộc tranh cãi Trung-Mỹ. Tháng 1/2017, Chính quyền Trump chính thức đề xuất Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chính quyền Trump dần điều chỉnh chiến lược Trung Quốc sang “cạnh tranh toàn diện”, Nam Hải đã trở thành khu vực địa chính trị then chốt và điểm mấu chốt để Mỹ triển khai chiến lược này. Là đầu mối địa lý kết nối châu Á, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, tầm quan trọng của Nam Hải đã được nâng cao hơn nữa trong việc định hình hệ thống quy tắc và trật tự toàn cầu do Mỹ dẫn dắt. Sau khi Biden lên nắm quyền, Mỹ thường xuyên công bố các báo cáo về vấn đề Nam Hải với lý do dựa trên luật pháp quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống pháp lý rõ ràng, cụ thể, phủ nhận hoàn toàn các yêu sách về quyền và lợi ích của Trung Quốc.

1711537555713.png


Trong những năm gần đây, Mỹ tăng cường tuyên truyền luận điệu “trật tự dựa trên quy tắc” trong nhiều lĩnh vực và vấn đề, thậm chí còn coi đó như “cuộc Chiến tranh Lạnh mới” để cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, tạo cơ sở pháp lý cho những chỉ trích về hành vi bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc ở Nam Hải. Có thể thấy, thái độ của Mỹ đối với vấn đề Nam Hải đã dần thay đổi từ thái độ trung lập tiêu cực, không có lập trường khi mới kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai sang trung lập tích cực và nhấn mạnh đến quyền và lợi ích ở giai đoạn sau này, công khai phản đối các yêu sách về quyền và lợi ích của Trung Quốc. Các thủ đoạn của Mỹ cũng đã phát triển từ phương pháp an ninh quân sự tương đối đơn lẻ vào đầu thế kỷ 21 sang nhấn mạnh vào việc xây dựng quy tắc và hình thành trật tự trong vài thập kỷ qua, lợi dụng sự mơ hồ trong luật pháp trật tự quốc tế để đạt mục đích riêng, đưa ra những vấn đề bất lợi cho Trung Quốc, xây dựng hệ thống đồng minh cũng như yêu sách quyền và lợi ích về hàng hải. Ngày nay, vấn đề này đã trở thành công cụ đắc lực để Mỹ can thiệp sâu vào các vấn đề khu vực châu Á-Thái Bình Dương, ngăn chặn và kiềm chế Trung Quốc, lôi kéo đồng minh ở châu Á và châu Âu. Tóm lại, những thay đổi mang tính hệ thống trong chính sách Nam Hải của Mỹ bao gồm những đặc trưng sau. Một là tính công cụ của các quy tắc. Thái độ của Mỹ đối với vấn đề Nam Hải là không khách quan, bất hợp lý và phi chính nghĩa, thay vào đó nước này lợi dụng vấn đề tranh chấp chủ quyền (vốn chỉ giới hạn ở Trung Quốc và một số nước liên quan đến Nam Hải) làm công cụ chính sách để ngăn chặn, chèn ép và bôi nhọ Trung Quốc. Thứ hai là tính phù hợp của vấn đề. Việc Mỹ tuyên truyền “trật tự dựa trên quy tắc” chính là nhằm ý đồ xuyên tạc Trung Quốc về mặt chính nghĩa, thể hiện định hướng của các giá trị an ninh khu vực. Thứ ba là sự đa dạng về phương pháp. Mỹ đã đưa ra nhiều phiên bản khác nhau về chiến lược an ninh quốc gia, nâng cao quyền phát ngôn về các lĩnh vực và vấn đề như quyền và lợi ích chủ quyền, an ninh hàng hải, nghề cá, bảo vệ môi trường, khai thác dầu khí… thông qua sự cường điệu của các học giả cũng như việc điều tàu chiến và máy bay quân sự tới Nam Hải. Thứ tư là tính hệ thống của chiến lược. Những chính sách này nhằm mục đích định hình cấu trúc quyền lực khu vực do Mỹ lãnh đạo ở khu vực xung quanh Trung Quốc. “Trật tự dựa trên quy tắc” là lối hùng biện ủng hộ chiến lược này, thể hiện và nâng cao tiếng nói của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương.


................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Đặc trưng của quy tắc và trật tự dưới góc nhìn tranh chấp Biển Đông

Các quy tắc và trật tự quốc tế không chỉ là những khái niệm cơ bản trong lý thuyết quan hệ quốc tế mà còn là những vấn đề cốt lõi trong thực tiễn chính trị quốc tế. Vì vậy, để phân biệt rõ logic lý thuyết của “trật tự dựa trên quy tắc” và phân tích đặc trưng động thái của nó, chúng ta cần xuất phát từ góc độ lý luận quan hệ quốc tế, tìm hiểu nguồn gốc của “quy tắc” và “trật tự”, làm rõ quan hệ logic và điều kiện áp dụng giữa chúng. Các quy tắc quốc tế là những quy định hoặc cấm đoán đối với hành vi của các chủ thể trong cộng đồng quốc tế, với đặc trưng là tính tổng quát, nghĩa vụ, độ chính xác và trao quyền, đồng thời bao gồm các ràng buộc không chính thức như quy tắc ứng xử dựa trên các chuẩn mực và niềm tin. Luật quốc tế là quy tắc được đại đa số các nước công nhận, có giá trị lâu dài và chính thức. Các quy tắc quốc tế là một phần quan trọng của thể chế quốc tế. Sự vận hành và những thay đổi trong thể chế quốc tế có mối liên hệ tương tác với việc thực hiện và thay đổi các quy tắc quốc tế. Chúng có thể làm tăng sự chắc chắn và giảm chi phí giao dịch thông qua việc đưa ra khuôn khổ ổn định cho tương tác giữa các chủ thể. Các quy tắc quốc tế có tính lâu dài, khách quan, ổn định và tính chính thức nhất định, có thể thiết lập quyền và nghĩa vụ của các nước khác nhau ở một mức độ nhất định.

1711537787010.png


Trật tự quốc tế là khái niệm cốt lõi của quan hệ quốc tế. Trật tự quốc tế tương đối ổn định có thể được mô tả là: Trong tình trạng vô chính phủ của cộng đồng quốc tế, một nhóm chủ thể có trật tự và cơ cấu quyền lực xác định, cùng tuân thủ một bộ quy tắc hành vi và đề cao quan niệm giá trị không mâu thuẫn với nhau, ở trạng thái hợp lý và hỗn loạn, hành vi và tương tác có thể dự đoán tương đối chính xác. Là một phần không thể thiếu của trật tự quốc tế, trật tự an ninh khu vực tương đối ổn định có nghĩa là các nước trong khu vực thừa nhận sự phân bổ quyền lực hiện nay, sẵn sàng tuân thủ các thể chế và quy tắc hiện có, đồng thời hướng dẫn việc xây dựng và bảo vệ khái niệm an ninh khu vực. Bảo đảm mức độ nhận thức chung cao, quy mô hành vi và phương thức tương tác có tính xác định tương đối cao. Từ đó có thể rút ra kết luận rằng việc xây dựng trật tự không chỉ dựa trên một yếu tố quy tắc duy nhất mà còn chịu sự chi phối tổng hòa giữa cách phân bổ sức mạnh và khái niệm giá trị. Dựa trên quy tắc vận động và biến đổi trong thời gian dài, hệ thống quy tắc quốc tế là kết quả của cuộc đọ sức giữa nhiều bên, không thể chỉ tuân theo một nước bá quyền.

1711537815035.png


Bài viết này cho rằng trật tự an ninh tương đối ổn định ở Nam Hải cần đáp ứng 3 điều kiện. Thứ nhất, các bên liên quan có lợi ích khác nhau trong vấn đề Nam Hải đã hình thành cơ cấu lực lượng và quan hệ quyền lực tương đối ổn định trong khu vực. Thứ hai, tất cả các bên sẵn sàng tuân thủ các quy tắc lãnh hải và hàng hải được công nhận chung, đồng thời duy trì khái niệm an ninh khu vực tương đối thống nhất và bao dung. Thứ ba, các bên có sự hiểu biết và dự đoán tương đối rõ ràng về mô hình hành vi và phương thức tương tác về các vấn đề cụ thể, thậm chí đã đạt được thỏa thuận ngầm về mục tiêu hòa bình và hợp tác. So với trạng thái lý tưởng này, khuôn khổ quy tắc và hệ thống trật tự hiện nay ở Nam Hải vẫn chưa được hình thành.

Sự phá vỡ hệ thống quy tắc-trật tự do các hành động của Mỹ dưới góc nhìn tranh chấp Biển Đông

Những năm gần đây, Mỹ lấy lý do bảo vệ “trật tự dựa trên quy tắc” để tiến hành tập trận quân sự và thực hiện “tự do hàng hải” ở Nam Hải, những hành vi này đã làm xói mòn và phá vỡ hệ thống trật tự-quy tắc ban đầu của khu vực, làm gia tăng căng thẳng ở Nam Hải và gây tổn hại đến an ninh khu vực. Hiện nay, Mỹ không phải là thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Trung Quốc và một số nước khu vực Nam Hải chưa thể đạt được nhận thức chung về các quy tắc phân định lãnh hải. Các quy tắc quốc tế có thể cung cấp khuôn khổ tương đối ổn định cho tương tác giữa các chủ thể và thúc đẩy hợp tác giữa các nước bằng cách giảm thiểu những nhân tố gây mất ổn định.

1711537877846.png


Mặc dù các khuôn khổ pháp lý quốc tế hiện nay liên quan đến vấn đề Nam Hải, chẳng hạn như UNCLOS và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đã được đại đa số các nước công nhận, tuy nhiên các điều khoản liên quan trong đó có thể áp dụng để giải thích cho những vấn đề về hoạt động “tự do hàng hải” của Mỹ, “đường đứt đoạn” và các yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc, cũng như các yêu sách về quyền và lợi ích của các nước thành viên ASEAN liên quan hay không vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Tất cả các bên vẫn chưa hoàn thành việc xây dựng các quy định chính thức hoặc phi chính thức mang tính phổ biến cũng như các điều khoản cấm, chưa xây dựng được các quy trình chính xác mang tính phổ quát và cưỡng chế về vấn đề Nam Hải. Trong bối cảnh đó, sự hiện diện thường xuyên của quân đội Mỹ ở Nam Hải sẽ làm trầm trọng thêm sự bất ổn của khung quyền lực giữa các nước, làm tăng khả năng biến đổi quan hệ quyền lực quốc tế và khu vực, phá vỡ sự cân bằng mong manh của hệ thống trật tự ban đầu, cản trở việc xây dựng các quy tắc ở khu vực.
Thứ nhất, cuộc tập trận của Hải quân Mỹ ở Nam Hải làm xáo trộn các yếu tố cấu thành trật tự như quyền lực và khái niệm. Trong những năm gần đây, Mỹ đã nhiều lần triển khai quân sự ồ ạt, do thám tiếp cận gần bằng tàu và máy bay cũng như tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung hoặc riêng lẻ ở Nam Hải, đe dọa an ninh chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc, đồng thời tạo biến số đối với việc hình thành các quy tắc và xây dựng trật tự. Các cuộc tập trận có tính khiêu khích, tính mục tiêu và tính thực chiến ngày càng tăng, từ đó làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng hàng hải, kích thích sự thay đổi trong cơ cấu quyền lực của khu vực, làm gia tăng sự khác biệt trong nhận thức về an ninh giữa các nước.
Thứ hai, hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ngăn cản tất cả các bên hình thành bộ khung quy tắc được các bên đồng thuận. Các cuộc tập trận quân sự dày đặc của Mỹ ở Nam Hải mà nước này coi là hợp pháp qua cách gọi mỹ miều là “hoạt động tự do hàng hải”. Tuy nhiên, hành động này đã gây nhiều tranh cãi, cản trở việc hình thành bộ khung quy tắc ở Nam Hải được các bên cùng công nhận. Trong những năm gần đây, tần suất “hoạt động tự do hàng hải” của Mỹ đã tăng lên đáng kể, phương thức hàng hải trong vùng biển tranh chấp cũng đã chuyển từ việc đi qua vô hại ban đầu sang cái gọi là “tự do hàng hải”, các cuộc tập trận và huấn luyện quân sự với cường độ liên tục leo thang.
Thứ ba, Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương làm gia tăng thêm ẩn số đối với hệ thống quy tắc khu vực. Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nỗ lực bảo vệ vai trò lãnh đạo của Mỹ và phương Tây trong trật tự khu vực hiện có bằng cách thiết lập cơ chế Đối thoại an ninh 4 bên (Bộ tứ) bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia. Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là cấu trúc an ninh khu vực mới bao trùm khu vực Nam Hải và mở rộng ra Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương rộng lớn. Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã củng cố hệ thống đồng minh của Mỹ ở Đông Á ở một mức độ nhất định, đẩy nhanh những thay đổi trong cơ cấu quyền lực của khu vực, có thể khiến mối quan hệ quyền lực giữa các nước trong và ngoài khu vực trở nên phức tạp và khó xử lý hơn.

1711537932886.png


.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Đề xướng và duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế

Quan điểm “trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế” của Trung Quốc điều chỉnh luật pháp quốc tế mà cốt lõi là Hiến chương Liên hợp quốc trở thành quan hệ nội bộ của hệ thống quy tắc quốc tế trong quan hệ quốc tế, đồng thời phát huy vai trò của các quy tắc khác của luật pháp quốc tế trong quá trình xây dựng trật tự quốc tế. Là bộ phận quan trọng của các quy tắc quốc tế, luật pháp quốc tế là những chuẩn mực hành vi hình thành trong quá trình giao tiếp quốc tế thời gian dài, có tính bền vững, tính khách quan và tính chính thức nhất định.

1711538008529.png


Trung Quốc kiên quyết phản đối giọng điệu “trật tự dựa trên quy tắc” của Mỹ, chủ trương thiết lập trật tự năng động ở Nam Hải dựa trên luật pháp quốc tế, là “duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế” do Chủ tịch Tập Cận Bình (Xi Jinping) đề ra, là biểu hiện cụ thể của việc xây dựng cộng đồng chung vận mệnh hàng hải tại Nam Hải. So với luận điệu của Mỹ về “trật tự dựa trên quy tắc”, Trung Quốc nhấn mạnh rằng việc xây dựng “trật tự dựa trên luật pháp quốc tế” mang tính trung lập và phổ quát hơn, phù hợp với lợi ích chung của đại đa số các nước. Sử dụng luật pháp quốc tế làm cơ sở cho sự tương tác giữa các nước có thể duy trì tốt hơn sự ổn định của trật tự khu vực và ít gây ra bất đồng trong tương tác giữa các nước. Một mặt, Trung Quốc tích cực thúc đẩy xây dựng một hệ thống quy tắc khu vực mang tính bao dung. Trung Quốc có thể dựa vào các khuôn khổ thể chế khu vực hiện có như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) hay Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) để tiếp tục hợp tác sâu rộng với các nước khu vực Nam Hải về các vấn đề cụ thể và xây dựng cơ chế hoặc xây dựng diễn đàn mới để nâng cao tính tổng thể và tính bao dung của hệ thống các quy tắc an ninh khu vực. Đồng thời, Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đang được xây dựng cũng là một phần quan trọng trong hệ thống quy tắc ở khu vực Nam Hải. Mặt khác, Trung Quốc nên dẫn dắt xây dựng trật tự an ninh khu vực dễ dự báo hơn. Trong quan hệ với các nước xung quanh Nam Hải, thông qua kết nối mật thiết trong các lĩnh vực liên quan đến hàng hải như quân sự, dân dụng, bảo vệ môi trường…, tất cả các bên ở Nam Hải có thể tăng cường lòng tin và giảm bớt nghi kỵ, nâng cao khả năng dự đoán hành vi an ninh của mỗi nước, duy trì sự ổn định lâu dài của trật tự an ninh khu vực.

1711538070420.png


Về quan hệ Trung-Mỹ, tìm cách thiết lập cơ chế kiểm soát và quản lý khủng hoảng hàng hải. Ngay cả khi tất cả các bên khó đạt được nhận thức chung về các quy tắc hàng hải hoặc vấn đề phân định lãnh hải trong thời gian ngắn, vẫn có thể ngăn chặn khủng hoảng leo thang và tăng cường sự ổn định của trật tự an ninh khu vực. So với “trật tự dựa trên quy tắc” của Mỹ, chủ trương của Trung Quốc có tính trung lập, công bằng, khách quan và phổ quát hơn. Trước hết, việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế là thành quả của hợp tác quốc tế đa phương. Thứ hai, bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế là sự thể hiện sinh động của lý luận ngoại giao đương đại Trung Quốc như “Cộng đồng chung vận mệnh trên biển” và “Sáng kiến an ninh toàn cầu”. Thứ ba, việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế có thể trở thành sự hỗ trợ quan trọng cho mục tiêu xây dựng Trung Quốc thành cường quốc biển trong tương lai.

“Trật tự dựa trên quy tắc” là cơ sở lý luận và chính sách cho sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề Nam Hải trong những năm gần đây, Mỹ mong muốn tận dụng điều này để lãnh đạo và xây dựng trật tự an ninh ở khu vực Nam Hải. “Quan điểm này mâu thuẫn rõ ràng với hành động cụ thể của Mỹ tại Nam Hải”. Thay vào đó, Mỹ đã gây ra tình trạng rối loạn ở Nam Hải, đi ngược lại với những tuyên bố của mình với thế giới.

1711538111137.png


Trong những năm gần đây, các hoạt động như “tự do hàng hải”, tập trận quân sự và Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Mỹ thực hiện đã dẫn đến sự chậm trễ trong việc xây dựng các quy tắc và trật tự hỗn loạn ở khu vực, gây ảnh hưởng đến an ninh khu vực. Ở cấp độ học thuật, trật tự an ninh ở Nam Hải chịu tác động tổng hợp từ các yếu tố quy tắc, phân bổ quyền lực và các quan niệm giá trị. Hiện nay, sự thay đổi về cán cân sức mạnh và mô hình hành vi của các bên ở Nam Hải rất lớn, vẫn chưa xây dựng được hệ thống quy tắc và trật tự an ninh thống nhất, hệ thống quy tắc và trật tự đang thay đổi và định hình lại. Ở cấp độ thực tiễn, “trật tự dựa trên quy tắc” là cách Mỹ lạm dụng công cụ lý thuyết quan hệ quốc tế nhằm can thiệp vào vấn đề Nam Hải. Về bản chất, đây là cách loại bỏ và chèn ép Trung Quốc dựa trên tiêu chuẩn ý chí của Mỹ, không có tính khách quan và trung lập, chỉ giới hạn ở việc phục vụ Mỹ và hệ thống đồng minh của nước này, không thể duy trì hòa bình và ổn định lâu dài của khu vực.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Quốc hội Mỹ thông qua tài trợ cho quân đội Đài Loan khi dự luật viện trợ nước ngoài bị đình trệ

1711676641704.png

Hai tàu tên lửa lớp Kuang Hua VI của Đài Loan di chuyển trên biển trong cuộc tập trận quân sự vào ngày 31 tháng 1 năm 2024 tại Cao Hùng, Đài Loan

Quốc hội Mỹ thông qua tài trợ tiền mặt cho quân đội Đài Bắc đồng thời chỉ đạo Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc “ưu tiên cung cấp các vật phẩm và dịch vụ quốc phòng cho Đài Loan”.

Dự luật chi tiêu tài chính năm 2024 của Bộ Ngoại giao được Quốc hội thông qua hôm thứ Bảy bao gồm 300 triệu USD Tài trợ Quân sự Nước ngoài, hay FMF, cho Đài Loan. Khoản tài trợ để mua thêm thiết bị quân sự được đưa ra hơn một năm sau khi Quốc hội lần đầu tiên phê chuẩn hỗ trợ tiền mặt cho Đài Bắc. Tuy nhiên, con số 300 triệu USD này vẫn chưa bằng mức tổng cộng 4 tỷ USD hỗ trợ quân sự cho Đài Loan trong dự luật viện trợ nước ngoài vẫn đang bị đình trệ tại Hạ viện.

Bonnie Glaser, giám đốc điều hành chương trình Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Quỹ Marshall Đức cho biết: “Tài trợ cung cấp các công cụ mới để thử và đóng góp vào nỗ lực răn đe cũng như đưa vũ khí đến Đài Loan nhanh hơn và với số lượng lớn hơn”. “Một lợi ích khác của nó là nó báo hiệu cho người dân Đài Loan rằng Hoa Kỳ ưu tiên phòng thủ của họ và sẵn sàng chi tiền vào miệng của chúng tôi.”

Con số 300 triệu USD thể hiện nửa điểm giữa những người chiếm đoạt của Hạ viện - những người tìm kiếm 500 triệu USD từ FMF Đài Loan - và những người đồng cấp ở Thượng viện chỉ muốn 113 triệu USD .

Đài Loan phải chi phần lớn trong số 300 triệu USD tài trợ hoặc khoản vay FMF đó để mua vũ khí từ các nhà thầu quốc phòng Mỹ nhưng có thể sử dụng 45 triệu USD trong số tiền đó để mua thiết bị và dịch vụ trên đảo - một đặc quyền được gọi là mua sắm ở nước ngoài mà cho đến nay chỉ Israel mới được hưởng .

Trong số hơn 25 quốc gia nhận FMF hàng năm, những nước nhận nhiều nhất là Israel với 3,3 tỷ USD hàng năm, Ai Cập với 1,3 tỷ USD hàng năm và Jordan với 425 triệu USD hàng năm. Bộ Ngoại giao đã yêu cầu 100 triệu USD từ FMF Đài Loan như một phần trong yêu cầu ngân sách năm tài khóa 2025 của mình. Năm ngoái, nước này đã cung cấp cho Đài Loan 55 triệu USD tiền FMF từ một phần viện trợ của Ai Cập bị đóng băng vì lo ngại về nhân quyền.

Các nhà phê duyệt ban đầu thận trọng với việc phân bổ số tiền FMF lớn cho Đài Loan do áp lực lên ngân sách của Bộ Ngoại giao và sự giàu có tương đối của hòn đảo, nơi có GDP ước tính khoảng 800 tỷ USD trong năm tài chính 2023.

Glaser lưu ý rằng Đài Loan đã tăng chi tiêu quốc phòng liên tục trong nhiều năm qua và hiện chi 2,6% GDP cho quốc phòng, “con số này vẫn chưa đủ so với bản chất của mối đe dọa mà họ phải đối mặt”.

Mỹ hy vọng rằng việc đổ xô vũ khí vào Đài Loan sẽ giúp ngăn chặn một cuộc xâm lược tiềm tàng của Trung Quốc. Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh bất hảo và đe dọa sẽ chiếm giữ bằng vũ lực nếu cần thiết. Chủ tịch Tập Cận Bình đã ấn định năm 2027 – kỷ niệm 100 năm thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân – là ngày ông hy vọng quân đội Trung Quốc sẽ có đủ năng lực để chiếm Đài Loan.

Glaser nói: “Đúng, đó là tiền đóng thuế của chúng ta và họ lẽ ra phải tự trả nhiều tiền hơn, nhưng cũng có một số giá trị khi báo hiệu rằng đây là ưu tiên của Hoa Kỳ”. “Nó giúp thúc đẩy quyết tâm tự vệ của người Đài Loan vì họ biết rằng Hoa Kỳ quan tâm đến việc phòng thủ của họ”.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

4 tỷ USD khác

FMF Đài Loan trong dự luật chi tiêu của Bộ Ngoại giao năm tài chính 2024 mờ nhạt so với khoản hỗ trợ quân sự bổ sung 3,9 tỷ USD cho Đài Bắc trong dự luật viện trợ nước ngoài của Thượng viện . Thượng viện vào tháng 2 đã thông qua dự luật lưỡng đảng , trong đó chủ yếu cung cấp 60 tỷ USD viện trợ kinh tế và an ninh cho Ukraine và 14 tỷ USD viện trợ quân sự khác cho Israel, trong cuộc bỏ phiếu 70-29.

Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson, R-La., Cho đến nay đã từ chối đưa nó lên sàn trong bối cảnh phản đối viện trợ Ukraine từ cựu Tổng thống Donald Trump, ứng cử viên tổng thống được cho là của Đảng Cộng hòa, và cánh hữu trong cuộc họp kín của ông. Trong khi đó, một số đảng viên Đảng Dân chủ tiến bộ phản đối việc viện trợ bổ sung cho Israel trong dự luật trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Gaza .

Johnson đã nói với những người diều hâu về quốc phòng của Đảng Cộng hòa rằng Hạ viện sẽ tổ chức bỏ phiếu viện trợ nước ngoài vào tháng 4 sau khi quay trở lại sau hai tuần tạm dừng, mặc dù điều này sẽ không nhất thiết phải tuân theo dự luật lưỡng đảng của Thượng viện, vốn rất phù hợp với yêu cầu của Tổng thống Joe Biden.

Dự luật của Thượng viện bao gồm thêm 2 tỷ USD FMF Đài Loan và 1,9 tỷ USD khác sẽ cho phép Bộ Quốc phòng chuyển vũ khí đến Đài Bắc từ kho dự trữ của Mỹ và bổ sung.

Việc sử dụng Quyền rút tiền của Tổng thống từ kho dự trữ của Hoa Kỳ sẽ cho phép Hoa Kỳ vận chuyển trang thiết bị vào Đài Loan nhanh hơn thông qua việc bán vũ khí do FMF tài trợ. Chính quyền Biden chủ yếu trang bị vũ khí cho Ukraine thông qua việc cắt giảm kho dự trữ của Mỹ kể từ cuộc xâm lược năm 2022 của Nga.

Glaser cho biết: “Điều đó giúp việc giao hàng trở nên dễ dàng hơn nếu chúng tôi đã có sẵn nó trong kho dự trữ của mình và chúng tôi có thể giao nó cho Đài Loan”. “Điều đó dường như đã loại bỏ được khá nhiều thủ tục quan liêu có thể liên quan đến việc sử dụng các phương pháp khác.”

Các nhà lập pháp ước tính rằng có khoảng 19 tỷ USD tồn đọng trong doanh số bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan do nhiều vấn đề , bao gồm những hạn chế về cơ sở công nghiệp, tốc độ ký hợp đồng và mua lại đôi khi chậm cũng như sự kết hợp giữa các đánh giá kéo dài về công nghệ và an ninh trong Hợp đồng mua bán quân sự nước ngoài. quá trình.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Sevmash hoàn thành nâng cấp để chế tạo tàu ngầm hạt nhân thế hệ tiếp theo của Nga

1711676940453.png

Tàu ngầm hạt nhân Krasnoyarsk được nhìn thấy sau buổi lễ chào cờ tại xưởng đóng tàu Sevmash ở Severodvinsk, Nga, vào ngày 11 tháng 12 năm 2023

Nhà sản xuất tàu ngầm hàng đầu của Nga cho biết họ đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa quy mô lớn xưởng mạ điện của mình, với nhiệm vụ phủ một lớp phủ đặc biệt lên các sản phẩm kim loại.

Nỗ lực kết thúc vào tháng này nhằm tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất tại Sevmash, nơi dự kiến sẽ chế tạo tàu ngầm hạt nhân thế hệ thứ năm cho Nga.

Theo công ty, công ty đóng tàu hiện đã bắt đầu vận hành các cơ sở mạ điện tập trung vào làm sạch siêu âm, mạ crom đặc biệt, anodizing cách điện và rắn cũng như mạ niken hóa học.

“Vào đầu những năm 2010-2020, Sevmash dường như đã đạt được tốc độ sản xuất tàu ngầm ít nhiều ổn định. Chu kỳ xây dựng và thử nghiệm hiện mất khoảng 7 năm”, Pavel Luzin, chuyên gia quân sự tại Trung tâm Phân tích Chính sách Châu Âu ở Washington, DC, nói với Defense News. “Đồng thời, nhà máy đang chế tạo 8 đến 10 tàu ngầm ở các giai đoạn xây dựng khác nhau. Bằng cách tạo ra một cơ sở sản xuất mới, Sevmash cố gắng nâng cao hiệu quả thương mại của mình.”

1711677034999.png


Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu mọi thứ có diễn ra như kế hoạch đối với công ty đóng tàu hay không, Luzin nói thêm.

Ông nói: “Do việc ngăn chặn khả năng tiếp cận các công nghệ và thiết bị của phương Tây, khi toàn bộ chuỗi hợp tác liên quan đến việc chế tạo tàu ngầm phải chịu các lệnh trừng phạt, rất khó để dự đoán hiệu quả của việc hiện đại hóa Sevmash sẽ như thế nào”.

Lần hiện đại hóa lớn gần đây nhất các cơ sở sản xuất của Sevmash diễn ra vào những năm 1970 để chế tạo tàu ngầm hạt nhân thế hệ thứ ba. Nhờ tham gia vào Chương trình Mục tiêu Liên bang của chính phủ nhằm phát triển tổ hợp công nghiệp-quân sự của Nga, Sevmash bắt đầu tái trang bị và tái thiết vào năm 2011.

Theo chương trình, Sevmash sẽ nhận được 46,5 tỷ rúp (507 triệu USD). Cho đến năm 2017, chi phí chính liên quan đến việc mua thiết bị công nghệ tự động; dụng cụ đo đa kênh; máy móc điều khiển bằng máy tính có độ chính xác cao; và năng lượng hiệu quả cao và thiết bị cơ giới hóa. Công ty có nguồn gốc từ Pháp, Thụy Sĩ, Ý, Cộng hòa Séc, Thụy Điển và Đức.

Sau năm 2022, Sevmash mua máy móc và dụng cụ trong nước và từ Belarus. Ví dụ, vào tháng 2 năm 2024, họ đã mua thiết bị công nghệ cho trạm khử từ với giá 1,5 tỷ rúp từ Trung tâm Nghiên cứu Bang Krylov.

1711677137413.png


Sevmash sẽ tiếp tục tham gia Chương trình Mục tiêu Liên bang cho đến năm 2027, nhưng phải tận dụng cơ hội này để hiện đại hóa cơ sở sản xuất để chế tạo tàu ngầm hạt nhân thế hệ thứ năm.

Luzin cho biết nỗ lực này đã được thực hiện và “Nga đang gấp rút chế tạo tàu ngầm thế hệ thứ năm vì các tàu ngầm Borei và Yasen sẽ được chế tạo ít nhất cho đến đầu những năm 2030”.

Năm 2020, nhà máy bắt đầu chế tạo ụ nổi để thay thế ụ Sukhona hiện có được xây dựng cách đây hơn 40 năm. Hai năm sau, Sevmash hoàn thành việc chuyển đổi thiết bị từ dầu và than sang khí đốt tự nhiên, tiết kiệm và tiết kiệm năng lượng hơn. Cùng năm đó, công ty đã hoàn thành việc xây dựng lại các bờ kè công nghiệp nước sâu và nước nông, bến tàu đi qua và bến xả hàng.

Và vào năm 2023, công ty đã hoàn thành việc hiện đại hóa xưởng thép của mình, trong đó họ mua lại lò hồ quang điện để sản xuất thép, thiết bị xử lý thứ cấp thép, trạm xử lý khí thải lò nung và hệ thống làm mát tuần hoàn nước khép kín. Theo Sevmash, mục tiêu ở đây là lên kế hoạch hiệu quả hơn cho công việc liên quan đến xưởng đúc cũng như tăng hiệu quả chi phí của vật liệu và tài nguyên.

1711677185302.png


Công ty đang cập nhật thiết bị cần cẩu của mình. Nó đã thay thế khoảng 300 bộ phận, bao gồm cả thang máy, bộ điều khiển và cần cẩu. Nhà máy dự kiến sẽ hoàn thành dự án này vào năm 2027, theo công ty mẹ là United Shipbuilding Corp.

Nhà máy cho biết xưởng rèn và gia nhiệt của Sevmash, nơi xử lý nhiệt các bộ phận của tàu ngầm hạt nhân trong tương lai, cũng đang được nâng cấp. Hàng chục lò điện mới và các thiết bị khác đang được lắp đặt ở đó. Việc thay thế thiết bị nhà xưởng ở quy mô này đã không diễn ra trong hơn 60 năm qua.

Công ty đóng tàu cũng đang cập nhật thiết bị hàn của mình. Theo trang web mua sắm chính thức của Nga, Sevmash đã chi khoảng 25 triệu rúp cho thiết bị hàn vào năm 2022, bất chấp nỗ lực mua phụ tùng hàn từ công ty ESAB của Thụy Điển vào năm đó không thành công.

1711677221107.png


Chỉ riêng năm ngoái, 636 đơn vị thiết bị khác nhau đã được đưa vào hoạt động, Sevmash đưa tin. Trong số đó có một tổng đài điện thoại tự động kỹ thuật số trung tâm mới. Và nhà máy cho biết họ đang mua phương tiện vận tải.

Một điểm quan trọng khác trong việc tái trang bị kỹ thuật của nhà máy là việc tạo ra cơ sở hạ tầng cần thiết để thực hiện phương pháp xây dựng tàu ngầm hạt nhân theo mô-đun khối. Cách tiếp cận đó liên quan đến việc lắp ráp tàu ngầm từ các khối lớn chứa đầy thiết bị. Nó sẽ thay thế phương pháp tổng hợp mô-đun hiện tại tại Sevmash, được áp dụng trong quá trình chế tạo tàu ngầm hạt nhân thế hệ thứ ba.

Với phương pháp mới, hầu hết công việc lắp ráp được thực hiện trong các xưởng chuyên dụng trước khi các khối được đưa đến đường trượt để lắp ráp cuối cùng toàn bộ tàu ngầm. Theo Sevmash, cách tiếp cận này sẽ nâng cao chất lượng công việc, giảm cường độ lao động và chi phí sản xuất, đồng thời rút ngắn thời gian chế tạo tàu ngầm xuống 18 tháng.

1711677265034.png


Để quá trình sản xuất khối diễn ra, công ty sẽ phải mở rộng các xưởng lắp ráp và hàn, xây dựng các phòng làm sạch và sơn kết hợp, đồng thời tự trang bị lại cho cái gọi là sản xuất giao hàng trên đường xây dựng . Công việc này dự kiến sẽ kết thúc vào năm 2031.

“Phương pháp xây dựng khối đã được phát triển cho tàu ngầm trong hơn một năm và đòi hỏi độ chính xác cao hơn của toàn bộ quy trình công nghệ cũng như văn hóa sản xuất cao ở tất cả các giai đoạn. Vẫn chưa rõ nó có thể được triển khai thành công đến mức nào vì nó cần có sự chấp thuận của USC, Rosatom và những bên tham gia hợp tác khác”, Luzin nói.

“Ngoài ra, cần có kỹ sư, công nhân giỏi nhưng không có nhiều người muốn chuyển đến Severodvinsk”, ông nói thêm. “Và ngay cả khi phương pháp mới sớm được áp dụng, thực tế không phải là nó sẽ thực sự giảm thời gian chế tạo và nghiệm thu tàu ngầm xuống còn 18 tháng như dự kiến”.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Pakistan công bố chương trình máy bay và tên lửa, trình diễn công nghệ quân sự

Quân đội Pakistan đã trưng bày các sản phẩm của mình và công bố một số chương trình phòng thủ trong Cuộc diễu hành Ngày Pakistan ngày 23 tháng 3 ở thủ đô.

Nước này đã trưng bày các thiết bị mới bao gồm nền tảng Haider, xe tăng chiến đấu chủ lực VT-4 đầu tiên được sản xuất trong nước do Trung Quốc thiết kế . Bản thân chiếc xe tăng trong cuộc duyệt binh là lô sản xuất thử nghiệm được công bố vào ngày 6 tháng 3 bởi nhà sản xuất xe chiến đấu bọc thép thuộc sở hữu nhà nước Heavy Industries Taxila.

1711677474764.png

Xe tăng chiến đấu chủ lực VT-4

Pakistan đã nhận 300 xe tăng VT-4 từ Trung Quốc theo thỏa thuận năm 2017 có sự tham gia sản xuất trong nước. Thiết kế của hệ thống bắt nguồn từ Al-Khalid/VT-1A đã được đưa vào sử dụng và sản xuất bởi Heavy Industries Taxila.

Hệ thống tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9/P cũng lần đầu tiên xuất hiện. Và quân đội đã mang theo hệ thống tên lửa phóng loạt dẫn đường Fatah 2 và tên lửa đạn đạo tầm trung Ababeel mang theo nhiều đầu đạn tấn công mục tiêu độc lập.

HQ-9/P do Trung Quốc cung cấp được đưa vào sử dụng vào năm 2021, người thông báo lễ duyệt binh xác nhận nó có tầm bắn 125 km (78 dặm). Điều đó không thua xa các biến thể HQ-9 có tầm bắn 250 km đang được quân đội Trung Quốc sử dụng .

1711677509330.png

Hệ thống tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9/P

Pakistan cũng đã công bố các chương trình mới, bao gồm nỗ lực của PFX nhằm thay thế máy bay chiến đấu JF-17. Fatah 3 có tầm bắn 450 km sẽ sớm được đưa vào sử dụng, trong khi Fatah 4 có tầm bắn 700 km đang được phát triển.

Justin Bronk, chuyên gia hàng không vũ trụ tại Viện Nghiên cứu Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia ở London, cho biết HQ-9 có “tầm bắn hiệu quả ngắn hơn nhưng có hiệu suất cảm biến vượt trội so với dòng S-300PMU-2 của Nga. tên lửa] mà chúng có nguồn gốc rộng rãi.”

Ông nói với Defense News rằng loại vũ khí này “dựa vào một dòng tên lửa để bao phủ nhiều phạm vi khác nhau”, đồng thời lưu ý rằng “phạm vi HQ-9/P - so với các biến thể tầm xa hơn - ít liên quan đến bản thân hệ thống hơn mà liên quan nhiều hơn đến loại vũ khí nào trong số các biến thể này.” các phiên bản tên lửa đánh chặn lớn hơn mà Trung Quốc sẵn sàng xuất khẩu sang Pakistan.”

1711677642570.png

Hệ thống tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9/P

Tuy nhiên, chi nhánh truyền thông của quân đội, Inter Services Public Relations Pakistan, trước đây đã tuyên bố HQ-9/P tăng cường đáng kể kiến trúc phòng không của Pakistan và được tích hợp hoàn toàn thông qua hệ thống số hóa.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Mansoor Ahmed, một chuyên gia về các chương trình vũ khí phi truyền thống và hệ thống phân phối của Pakistan, cho biết sự hiện diện của tên lửa Ababeel có thể là để đáp trả cuộc thử nghiệm ngày 11/3 của Ấn Độ về khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo và tên lửa Agni-V của nước này. Agni-V cũng được trang bị một phương tiện quay trở lại mục tiêu đa mục tiêu độc lập.

Tên lửa Ababeel được thử nghiệm lần cuối vào năm 2023, nhưng việc đưa nó vào sử dụng không được công bố.

1711677738325.png

Tên lửa Ababeel

Ahmed, hiện là học giả tại Đại học Quốc gia Australia, nói với Defense News rằng Pakistan cảm thấy buộc phải "chứng minh rằng họ có độ tin cậy và quyết tâm ngăn chặn khủng hoảng và bất ổn sau đòn tấn công đầu tiên ở Nam Á".

Ông dự đoán các cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm được trang bị K-5 và K-6 MIRV của Ấn Độ “sẽ thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của Ababeel như một loạt các phiên bản dạng container và tầm xa hơn có thể mang trọng tải nặng hơn để có thể triển khai trên các tàu ngầm ở tương lai, để đạt được khả năng sống sót cao hơn và hoạt động linh hoạt hơn, bao gồm tất cả các mục tiêu có thể có ở Ấn Độ.”

Ông lưu ý rằng năm nay dường như có nhiều tên lửa có khả năng hạt nhân hơn được trưng bày, và Ababeel cùng những phát triển trong tương lai của nó đã “trở thành trung tâm để duy trì khả năng răn đe toàn phổ năng động và đáng tin cậy”.

1711677796415.png


Thông báo về Chương trình PFX của Pakistan được đưa ra gây bất ngờ vì hiện có kế hoạch mua máy bay phản lực J-31 của Trung Quốc và sự tham gia của nước này vào chương trình máy bay chiến đấu Kaan của Thổ Nhĩ Kỳ. Một chương trình thế hệ thứ năm trước đó, có tên là Dự án Azm, dường như đã lặng lẽ bị xếp xó.

Công việc thiết kế đang được tiến hành cho Chương trình PFX nhưng có rất ít chi tiết khác được biết đến.

Tuy nhiên, Trevor Taylor, người đứng đầu Chương trình Quốc phòng, Công nghiệp và Xã hội của RUSI, cho biết quyết định của Pakistan phù hợp với các chương trình khác ở Ấn Độ và các quốc gia Ấn Độ - Thái Bình Dương giàu có hơn.

Chi phí “sẽ cao và xét theo kinh nghiệm của những người khác thì thời gian phát triển sẽ kéo dài”, Taylor cho biết. Ông nói thêm có khả năng Pakistan sẽ nhập khẩu các hệ thống con quan trọng như động cơ, radar và hệ thống điện tử hàng không khác cho Chương trình PFX.

Nhà phân tích và cựu phi công Không quân Pakistan Kaiser Tufail đồng ý với quan điểm này. Ông nói với Defense News: “Làm thế nào để giữ chi phí của một nền tảng như vậy trong giới hạn hợp lý sẽ là một thách thức và sẽ phụ thuộc vào tiềm năng xuất khẩu của PFX”.

Điều quan trọng là mức độ trợ giúp từ Trung Quốc “sẽ là yếu tố then chốt”, Taylor lưu ý, và “vấn đề cơ bản cần được giải quyết sẽ là dung hòa khả năng mang vũ khí với khả năng quan sát radar thấp”.

Theo chuyên gia hàng không vũ trụ Doug Barrie tại Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế có trụ sở tại London, hợp tác có vẻ chắc chắn, trong đó Thổ Nhĩ Kỳ là một lựa chọn. Cùng với Chương trình PFX, ông còn trích dẫn thông báo hồi tháng 2 của Pakistan về việc hợp tác với Thổ Nhĩ Kỳ để phát triển một loại tên lửa không đối không tầm xa.

Tuy nhiên, ông nói, “do mối quan hệ hàng không vũ trụ quốc phòng rất chặt chẽ giữa Pakistan và Trung Quốc, tôi cũng sẽ không coi nhẹ điều đó”.

Về các tính năng của mình, Pakistan có thể muốn máy bay PFX “có khả năng tàng hình, điều này cũng đòi hỏi phải mang theo vũ khí phù hợp và đủ nhiên liệu bên trong”, Tufail nói.

Ông nói thêm: “Một radar [quét mảng điện tử chủ động] mạnh mẽ và tên lửa [ngoài tầm nhìn trực quan] có thể vượt xa Meteor của Rafale cũng là những điều kiện tiên quyết”. “Sự kết hợp cảm biến liền mạch, bên cạnh khả năng [biện pháp đối phó điện tử] toàn diện, sẽ quan trọng không kém.”

Thông báo của Pakistan về vũ khí Fatah 3 và Fatah 4 cho thấy chính phủ tiếp tục phát triển các hệ thống để “cả hai đều cho phép hỏa lực chính xác hơn từ sâu trong nước chống lại các mục tiêu tiền tuyến của Ấn Độ, đồng thời tiếp cận tương tự các căn cứ và hệ thống có giá trị ở hậu phương của Ấn Độ từ Pakistan. khu vực biên giới,” theo Frank O'Donnell, một thành viên không thường trú của Chương trình Nam Á của Trung tâm Stimson.

1711678078870.png

Fatah 3 và Fatah 4

O'Donnell cho biết, bằng cách tập trung vào khả năng tấn công của hệ thống tên lửa phóng loạt và máy bay không người lái, Pakistan có thể chuyển Không quân của mình khỏi các nhiệm vụ tấn công sang vai trò chiến đấu không đối không ở cấp độ cao hơn, O'Donnell cho biết, dẫn lời nhà bình luận cuộc diễu hành. Fatah 2 “có thể né tránh bất kỳ hệ thống phòng không nào của đối phương”.

Ông nói thêm: “Điều này nhấn mạnh cách Pakistan tiếp tục áp dụng các bài học từ cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và Azerbaijan-Armenia”. Cả hai cuộc xung đột này đều có đặc điểm là sử dụng nhiều máy bay không người lái chiến đấu.

Và đáng chú ý, ông nói, “các hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa tinh vi của Nga – chẳng hạn như S-400 của Nga mà Ấn Độ đang triển khai để chống lại Pakistan – vẫn dễ bị tổn thương trước các loạt tên lửa bất đối xứng và các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái”.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Máy bay trực thăng tấn công mới của Trung Quốc đang được phát triển

Trung Quốc đang phát triển một loại trực thăng tấn công mới có cùng trọng lượng với Boeing AH-64 Apache của Mỹ và Mil Mi-28 Havoc của Nga.

1711679302918.png


Hình ảnh về chiếc trực thăng mới xuất hiện trên mạng xã hội Trung Quốc vào tháng 3 năm 2024, cho thấy một chiếc máy bay lớn hơn chiếc AVIC (Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc) Changhe Aircraft Industries Group (CHAIG) Z- đang phục vụ của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) 10 và có thân máy bay trung tâm rộng hơn tương đương với Apache. Thân máy bay bao gồm các tấm chắn tương tự như AH-64 Apache và cấu hình mũi tương tự như Mi-28. AH-64E và Mi-28N có trọng lượng vận hành tối đa 10–12 tấn.

Máy bay trực thăng mới (được các nhà quan sát quân sự Trung Quốc tạm gọi là Z-21) dường như cũng tích hợp một số tính năng trực thăng chiến đấu mới nhất của PLA như ống xả động cơ hướng lên trên để giảm tín hiệu hồng ngoại của nó.

1711679323006.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
EU đề xuất tăng cường sản xuất tên lửa vác vai MBDA

1711679521224.png

Tên lửa vác vai Enforcer

Ủy ban Châu Âu đã đề xuất tài trợ cho việc tăng cường sản xuất hệ thống tên lửa vác vai Enforcer.

Khoản tài trợ này được đề xuất thông qua chương trình Đạo luật hỗ trợ sản xuất đạn dược ( ASAP) trị giá 500 triệu euro (540 triệu USD) nhằm tìm cách tăng cường sản xuất đạn dược và tên lửa ở các nước EU.

Chiến dịch Tăng cường Sản xuất Thực thi (EPIC) dự định thúc đẩy sản xuất tên lửa MBDA ở Schrobenhausen, Đức và tại các công ty đối tác của MBDA ở Châu Âu.

Giám đốc điều hành MBDA Eric Beranger cho biết : “Dự án ASAP EPIC là một cơ hội tuyệt vời để tăng cường sản xuất tên lửa Enforcer, đồng thời làm cho nó trở nên linh hoạt hơn và nhanh hơn”.

Dự án diễn ra khi công ty giành được đơn đặt hàng xuất khẩu tên lửa vào tháng 2, vài tháng sau khi bắt đầu sản xuất toàn bộ công suất để hỗ trợ đơn đặt hàng trị giá 76 triệu euro (81 triệu USD) của Đức.

1711679654140.png

Tên lửa vác vai Enforcer

Tên lửa hạng nhẹ này cung cấp hỏa lực chính xác cho những người lính đã xuống ngựa chống lại các phương tiện bọc thép hạng nhẹ và các nhóm đối thủ sử dụng súng máy.

Nó có thể tấn công cả mục tiêu tĩnh và mục tiêu di động, ngay cả trong không gian hạn chế.

Tên lửa nặng 12 kg (26 pound) có tầm bắn hiệu quả 2.000 mét (6.562 feet).
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Airbus bắt đầu tích hợp bộ EW hỗ trợ AI trên Eurofighters của Đức

1711679836634.png


Airbus đã chính thức trao hợp đồng mua bộ thiết bị tác chiến điện tử Arexis (EW) của Saab, báo hiệu sự khởi đầu của quá trình tích hợp được chờ đợi trên các máy bay Eurofighter của Đức.

Việc lựa chọn hệ thống EW do Thụy Điển sản xuất cho Eurofighters đã được công bố vào tháng 6 năm 2023 , nhưng một thỏa thuận chính thức vừa được thực hiện sau “các cuộc đàm phán tiếp theo”.

Saab không cho biết có bao nhiêu bộ Arexis sẽ được cung cấp cho Airbus, nhưng lưu ý rằng 15 máy bay Eurofighter của Berlin sẽ nhận được bộ phận phức tạp này.

Nó cũng tiết lộ rằng bộ phần mềm này sẽ được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo (AI) để phát hiện và nhận dạng nhanh hơn và chính xác hơn các thiết bị phát radar của kẻ thù trong môi trường điện từ phức tạp và gây nhiễu.

1711679933593.png

Thiết bị tác chiến điện tử Arexis (EW)

Giám đốc điều hành Saab Micael Johansson cho biết: “Kết hợp phần cứng tiên tiến và phần mềm hỗ trợ AI, bộ cảm biến Arexis của chúng tôi sẽ tăng cường khả năng phòng thủ của Đức với khả năng tác chiến điện tử trong tương lai trong nhiều thập kỷ tới” .

Theo Saab, bộ Arexis EW có các cảm biến tiên tiến và khả năng tự bảo vệ để đối mặt với các mối đe dọa hiện đại.

Nó sử dụng công nghệ mảng quét điện tử hoạt động gallium nitride để đảm bảo công suất đầu ra cao, vùng phủ sóng tần số rộng và độ trễ thấp.

Hệ thống “đã được chứng minh trong chiến đấu” có thể xác định và gây nhiễu một loạt các mối đe dọa radar, cung cấp nhận thức tình huống cho phi công và cải thiện khả năng bảo vệ cho máy bay.

Công ty cho biết bộ Arexis của họ là “sự phù hợp hoàn hảo” cho các máy bay Eurofighter của Đức vì thiết kế mô-đun cho phép nó được đóng gói theo nhiều hình dạng và hình thức khác nhau tùy thuộc vào cấu hình của máy bay.

1711680146066.png

Thiết bị tác chiến điện tử Arexis (EW)

Johansson cho biết: “Kinh nghiệm vững chắc của chúng tôi trong việc phát triển hệ thống tác chiến điện tử cho các nền tảng trên không và sự hợp tác lâu dài của chúng tôi với Airbus sẽ rất quan trọng để hỗ trợ việc chuyển giao Eurofighter EK cho Không quân Đức”.

Những chiếc Eurofighter được trang bị Arexis dự kiến sẽ được đưa vào vận hành vào năm 2030.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,164
Động cơ
654,906 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
EU tài trợ cho Rheinmetall 140 triệu USD để tăng cường sản xuất đạn pháo

Rheinmetall đã nhận được hơn 130 triệu euro (140 triệu USD) từ Liên minh châu Âu để tăng cường sản xuất đạn và thuốc súng pháo 155mm nhằm hỗ trợ Ukraine.

1711680436622.png


Sáu dự án công ty con của Rheinmetall ở Đức, Hungary, Romania và Tây Ban Nha sẽ được hưởng lợi từ nguồn tài trợ này, với các thỏa thuận tài trợ dự kiến sẽ được ký kết vào tháng 5.

Giám đốc điều hành Rheinmetall Armin Papperger cho biết : “Tầm quan trọng to lớn của pháo binh được thể hiện rõ qua cuộc chiến bảo vệ đất nước của Ukraine”.

“Các lực lượng vũ trang châu Âu cũng cần bổ sung kho đạn pháo của mình. Chúng tôi đã sẵn sàng cho việc này và chúng tôi đang thực hiện nó.”

Khoản tài trợ này là một phần trong Đạo luật hỗ trợ sản xuất đạn dược trị giá 500 triệu euro (544 triệu USD) của Ủy ban châu Âu nhằm tăng cường sản xuất đạn dược hàng năm lên 2 triệu quả đạn vào cuối năm 2025.

Những người hưởng lợi khác của quỹ bao gồm Nammo, Chemring Nobel, Hellenic Defense Systems và Eurenco.

1711680462509.png
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top