Mẫu crossover thế hệ thứ tư có hai phiên bản động cơ 2.0 và 2.4 với giá khởi điểm tỷ đồng và những trang thiết bị an toàn như cân bằng điện tử, túi khí bên và trợ lực theo tốc độ.
CR-V là một trong những sản phẩm chủ lực của Honda, bên cạnh Civic và Accord. Con số cộng dồn 5 triệu chiếc trên toàn thế giới là lý do Honda đặt kỳ vọng vào sự thành công ở Việt Nam. Trải qua mỗi thế hệ, hãng này lại biến CR-V gần hơn với sự bóng bẩy, sang trọng chốn đô thị hơn là dành cho địa hình.
Sự thành công về thiết kế của thế hệ thứ ba khiến hãng này gặp khó khăn trong việc tìm kiếm sự mới mẻ. Rốt cuộc các kỹ sư "nặn" phần đuôi xe theo cách khá lạ trong dòng crossover. Phần mui đang xuôi bỗng bẻ cong đột ngột, như cái nấc cụt trên toàn bộ hình khối mượt mà.
Sự phá cách của CR-V ở phần đuôi có thể gây nên những ý kiến trái chiều bởi người Việt Nam vốn thích sự cân đối, đặc biệt là vẻ gọn gàng trên CR-V thế hệ ba. Honda lý giải thiết kế đó tạo không gian thông thoáng hơn cho người ngồi sau và khiến xe trường hơn, dù ngắn hơn một chút về chiều dài tổng thể so với thế hệ thứ ba.
Phần còn lại chứng minh những nỗ lực Honda trong việc tạo ra một sản phẩm ưu việt hơn. Phần mũi năng động, thân xe bóng bẩy và bộ vành đúc với chấu hình chữ Y điệu đà. Nội thất CR-V cho cảm giác thông thoáng, dù chiều dài cơ sở vẫn giữ nguyên 2.600 mm. Bảng điều khiển trung tâm dễ quan sát và khá thức thời khi có khe cắm chìa khóa và để smartphone. Hàng ghế sau có thể gập chỉ bằng một chạm nhưng không gập phẳng xuống sàn.
Khác với thế hệ trước chỉ có bản 2.4, lần này Honda Việt Nam tung ra hai dòng động cơ xăng 2.0 và 2.4, cùng sử dụng hộp số tự động 5 cấp và chế độ lái tiết kiệm nhiên liệu Econ. Dẫn động cầu trước.
Động cơ 2.0 là loại 4 xi-lanh thẳng hàng, cam đơn SOHC i-VTEC, công suất 155 mã lực tại vòng tua máy 6.500 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 190 Nm ở 4.300 vòng/phút. Phiên bản này đi cùng bộ vành 17 inch cỡ lốp 225/65.
Phiên bản 2.4 là loại 4 xi-lanh thẳng hàng, cam kép DOHC tích hợp i-VTEC, công suất 190 mã lực tại tua máy 7.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 222 Nm tại 4.400 vòng/phút. Bộ vành 18 inch lắp lốp 225/60.
Honda trang bị cho CR-V mới dàn âm thanh 6 loa có cổng USB và dàn CD một đĩa, điều hòa tự động, màn hình hiển thị đa chức năng iMID. Đèn pha tự động, gương gập điện, kết nối bluetooth. Ghế da nhăn đặc trưng. Phiên bản cao cấp 2.4 có thêm ghế lái chỉnh điện 8 hướng và cửa sổ trời.
Hệ thống an toàn là điểm mạnh của Honda so với các dòng xe khác lắp ráp tại Việt Nam. Cả CR-V 2.0 và CR-V 2.4 đều có chống bó cứng phanh ABS, phân bổ lực phanh điện tử EBD, cân bằng điện tử VSA, hỗ trợ khởi động ngang dốc. Hai túi khí hàng ghế trước và túi khí bên có thể định vị vị trí hành khách. Điều khiển hành trình Cruise Control cũng lần đầu tiên được đưa lên CR-V.
Với những trang bị đó, phiên bản CR-V 2.0 có giá 998 triệu đồng và CR-V 2.4 có giá 1,14 tỷ đồng, đã gồm thuế GTGT. Xe bảo hành 3 năm hoặc 100.000 km với 5 màu trắng, bạc, xanh, titan và đen.
CR-V là một trong những sản phẩm chủ lực của Honda, bên cạnh Civic và Accord. Con số cộng dồn 5 triệu chiếc trên toàn thế giới là lý do Honda đặt kỳ vọng vào sự thành công ở Việt Nam. Trải qua mỗi thế hệ, hãng này lại biến CR-V gần hơn với sự bóng bẩy, sang trọng chốn đô thị hơn là dành cho địa hình.
Sự thành công về thiết kế của thế hệ thứ ba khiến hãng này gặp khó khăn trong việc tìm kiếm sự mới mẻ. Rốt cuộc các kỹ sư "nặn" phần đuôi xe theo cách khá lạ trong dòng crossover. Phần mui đang xuôi bỗng bẻ cong đột ngột, như cái nấc cụt trên toàn bộ hình khối mượt mà.
CR-V mới có mặt trên thị trường từ 7/3.
Sự phá cách của CR-V ở phần đuôi có thể gây nên những ý kiến trái chiều bởi người Việt Nam vốn thích sự cân đối, đặc biệt là vẻ gọn gàng trên CR-V thế hệ ba. Honda lý giải thiết kế đó tạo không gian thông thoáng hơn cho người ngồi sau và khiến xe trường hơn, dù ngắn hơn một chút về chiều dài tổng thể so với thế hệ thứ ba.
Phần còn lại chứng minh những nỗ lực Honda trong việc tạo ra một sản phẩm ưu việt hơn. Phần mũi năng động, thân xe bóng bẩy và bộ vành đúc với chấu hình chữ Y điệu đà. Nội thất CR-V cho cảm giác thông thoáng, dù chiều dài cơ sở vẫn giữ nguyên 2.600 mm. Bảng điều khiển trung tâm dễ quan sát và khá thức thời khi có khe cắm chìa khóa và để smartphone. Hàng ghế sau có thể gập chỉ bằng một chạm nhưng không gập phẳng xuống sàn.
Phần đuôi xe kéo dài xuống phía sau.
Khác với thế hệ trước chỉ có bản 2.4, lần này Honda Việt Nam tung ra hai dòng động cơ xăng 2.0 và 2.4, cùng sử dụng hộp số tự động 5 cấp và chế độ lái tiết kiệm nhiên liệu Econ. Dẫn động cầu trước.
Động cơ 2.0 là loại 4 xi-lanh thẳng hàng, cam đơn SOHC i-VTEC, công suất 155 mã lực tại vòng tua máy 6.500 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 190 Nm ở 4.300 vòng/phút. Phiên bản này đi cùng bộ vành 17 inch cỡ lốp 225/65.
Phiên bản 2.4 là loại 4 xi-lanh thẳng hàng, cam kép DOHC tích hợp i-VTEC, công suất 190 mã lực tại tua máy 7.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 222 Nm tại 4.400 vòng/phút. Bộ vành 18 inch lắp lốp 225/60.
Nội thất CR-V mới.
Honda trang bị cho CR-V mới dàn âm thanh 6 loa có cổng USB và dàn CD một đĩa, điều hòa tự động, màn hình hiển thị đa chức năng iMID. Đèn pha tự động, gương gập điện, kết nối bluetooth. Ghế da nhăn đặc trưng. Phiên bản cao cấp 2.4 có thêm ghế lái chỉnh điện 8 hướng và cửa sổ trời.
Hệ thống an toàn là điểm mạnh của Honda so với các dòng xe khác lắp ráp tại Việt Nam. Cả CR-V 2.0 và CR-V 2.4 đều có chống bó cứng phanh ABS, phân bổ lực phanh điện tử EBD, cân bằng điện tử VSA, hỗ trợ khởi động ngang dốc. Hai túi khí hàng ghế trước và túi khí bên có thể định vị vị trí hành khách. Điều khiển hành trình Cruise Control cũng lần đầu tiên được đưa lên CR-V.
Với những trang bị đó, phiên bản CR-V 2.0 có giá 998 triệu đồng và CR-V 2.4 có giá 1,14 tỷ đồng, đã gồm thuế GTGT. Xe bảo hành 3 năm hoặc 100.000 km với 5 màu trắng, bạc, xanh, titan và đen.