- Biển số
- OF-4349
- Ngày cấp bằng
- 21/4/07
- Số km
- 7,958
- Động cơ
- 626,357 Mã lực
Viên ACNHH, viên thuốc mà gần đây được nhắc đến rất nnhiều như là thần dược trong điều trị Tai biến mạch máu não (trúng phong - theo YHCT).
Nhiều thông tin đưa đến tai người tiêu dùng phóng đại sự thần kỳ của nó làm cho người ta đổ xô đi tìm mua.
Bài viết sau (chỉ khái quát) sẽ giúp cho mọi người tự đánh giá đúng mức về thực chất của loại thuốc này.
-------------------
ACNHH có xuất xứ từ Trung Quốc, nổi tiếng nhất là "Bắc Kinh Đồng Nhân Đường" với lượng tiêu thụ hàng năm lên đến hàng triệu viên.
Thành phần thuốc gồm các vị thuốc theo tỉ lệ như sau:
Ngưu hoàng 4
Xạ hương 1
Uất kim 4
Hùng hoàng 4
Băng phiến 1
Trân châu 2
Chu sa 4
Tê giác 4
Hoàng cầm 4
Hoàng liên 4
Sơn chi 4
Chiếm phần lớn là thành phần có xuất sứ từ khoáng chất và động vật (Tuy nhiên khi quảg cao người ta hay dùng từ "nguồn gốc thảo dược" tạo cảm giác an toàn cho dễ đi vào lòng người)
Phân tich bài thuốc như sau:
-Ngưu hoàng (là sỏi trong túi mật của con trâu): thanh tâm giải độc, hóa đờm khai khiếu.
-Tê giác (sừng tê) thanh tâm lương huyết giải độc.
- Xạ hương (1 chất được tiết ra từ tuyến nội tiết của con cầy hương đực) có td khai khiếu an thần, thông khiếu, thông kinh lạc, hành khí mạnh.
- Hùng hoàng (có thành phần chính là Sufur Thạch tín ( Arsenic sufide) (AsS hay As2S2) ngoài ra có các muối kim loại nặng.) theo đông y, nó có tác dụng giải độc sát trùng, hóa ứ tiêu thủng, táo thấp khu đàm, triệt ngược định kinh. Chủ trị các chứng: ung thư, đinh nhọt ghẻ lở, trùng độc rắn cắn, giang mai ( mai độc), phong hủi, trùng tích bụng, bụng đau, hen suyễn, sốt rét, động kinh, uốn ván ( phá thương phong).
- Uất kim (Là nhánh củ nghệ): có công dụng hoạt huyết, hành khí, lương huyết, phá ứ, giải uất
- Băng phiến (là một hydôcarbn ở thể rắn, tinh thể màu trắng - mchiết suất từ nhựa long não) có td Khai khiếu và tỉnh thần. Thanh nhiệt, giảm đau
- Chu sa (Thành phần chính là sulfua thuỷ ngân (HgS), rất độc) được dùng trong đông y với công dụng trấn kinh an thần.
- Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử (là thảo mộc) tthanh tâm, tả tâm hỏa, thanh nhiệt độc.
.
Như vậy, với thành phần bài thuốc được phân tích ở trên, bài thuốc ACNHH có tác dụng:
Hành khí hoạt huyết, thanh nhiệt, giải độc, khu đàm, khai khiếu tỉnh thần.
Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng "Trúng phong" theo trong YHCT.
Chứng trúng phong được YHCT miêu tả như sau:
"Trúng phong là trạng thái đột nhiên bất tỉnh, đồng thời có thể xuất hiện liệt nửa người, mắt lệch, miệng méo, lưỡi cứng, nói khó hoặc không nói được … Thường gặp nơi những người hư yếu, người cao tuổi, huyết áp cao… "
Chứng trạng này rất phù hợp với "Tai biến mạch mãu não" nói chung.
Nhưng "TBMMN" bản thân nó có 2 dạng:
- Xuất huyết não
- Nhồi máu não
2 dạng TBMMN này biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng (tức là nhìn và khám bằng mắt thường) rất khó phân biệt, phải là người có kiến thức chuyên môn sâu mới có thể khảng định.
*Thực tế,với tính dược của viên ACNHH, chỉ có thể được phép chỉ định cho trường hợp TBMMN thể nhồi máu não.
Đối với xuất huyết não, tuy thuốc có tính thiên về hàn, nhưng với tác dụng hoạt huyết, hành khí khá mạnh nó có thể làm cho xuất huyết nặng thêm (chưa có nghiên cứu nào để phủ nhận điều này, vì vậy không thể bỏ qua)
Như vậy, với cách hiểu và dùng ACNHH như đa số hiện nay là rất vu vơ và rất không an toàn.
Tuy vậy, nếu được chẩn đoán chính xác thể bẹnh thì dùng ACNHH là hoàn toàn có lý (mặc dù tôi cũng đã tìm mỏi mắt nhưng không thấy có tài liệu nào thống kê nghiên cứu 1 cách khoa học về công dụng của thuốc này)
-----------------
Vấn đề ngoài chuyên môn: chúng ta đều biết những vị thuốc như xạ hương, ngưu hoàng là rất hiếm, nguồn cung cấp có hạn (bản thân tôi đã từng đặt hàng ở lò mổ trâu bò mà trong 2 năm cũng chỉ kiếm được có hơn 30gr sỏi mật). Vậy thì không hiểu Đồng nhân đường và các cơ sở đông dược của TQ lấy đâu ra để đảm bảo cho họ sx số lượng thuốc hàng năm khủng khiếp như vậy?
-SK-
Nhiều thông tin đưa đến tai người tiêu dùng phóng đại sự thần kỳ của nó làm cho người ta đổ xô đi tìm mua.
Bài viết sau (chỉ khái quát) sẽ giúp cho mọi người tự đánh giá đúng mức về thực chất của loại thuốc này.
-------------------
ACNHH có xuất xứ từ Trung Quốc, nổi tiếng nhất là "Bắc Kinh Đồng Nhân Đường" với lượng tiêu thụ hàng năm lên đến hàng triệu viên.
Thành phần thuốc gồm các vị thuốc theo tỉ lệ như sau:
Ngưu hoàng 4
Xạ hương 1
Uất kim 4
Hùng hoàng 4
Băng phiến 1
Trân châu 2
Chu sa 4
Tê giác 4
Hoàng cầm 4
Hoàng liên 4
Sơn chi 4
Chiếm phần lớn là thành phần có xuất sứ từ khoáng chất và động vật (Tuy nhiên khi quảg cao người ta hay dùng từ "nguồn gốc thảo dược" tạo cảm giác an toàn cho dễ đi vào lòng người)
Phân tich bài thuốc như sau:
-Ngưu hoàng (là sỏi trong túi mật của con trâu): thanh tâm giải độc, hóa đờm khai khiếu.
-Tê giác (sừng tê) thanh tâm lương huyết giải độc.
- Xạ hương (1 chất được tiết ra từ tuyến nội tiết của con cầy hương đực) có td khai khiếu an thần, thông khiếu, thông kinh lạc, hành khí mạnh.
- Hùng hoàng (có thành phần chính là Sufur Thạch tín ( Arsenic sufide) (AsS hay As2S2) ngoài ra có các muối kim loại nặng.) theo đông y, nó có tác dụng giải độc sát trùng, hóa ứ tiêu thủng, táo thấp khu đàm, triệt ngược định kinh. Chủ trị các chứng: ung thư, đinh nhọt ghẻ lở, trùng độc rắn cắn, giang mai ( mai độc), phong hủi, trùng tích bụng, bụng đau, hen suyễn, sốt rét, động kinh, uốn ván ( phá thương phong).
- Uất kim (Là nhánh củ nghệ): có công dụng hoạt huyết, hành khí, lương huyết, phá ứ, giải uất
- Băng phiến (là một hydôcarbn ở thể rắn, tinh thể màu trắng - mchiết suất từ nhựa long não) có td Khai khiếu và tỉnh thần. Thanh nhiệt, giảm đau
- Chu sa (Thành phần chính là sulfua thuỷ ngân (HgS), rất độc) được dùng trong đông y với công dụng trấn kinh an thần.
- Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử (là thảo mộc) tthanh tâm, tả tâm hỏa, thanh nhiệt độc.
.
Như vậy, với thành phần bài thuốc được phân tích ở trên, bài thuốc ACNHH có tác dụng:
Hành khí hoạt huyết, thanh nhiệt, giải độc, khu đàm, khai khiếu tỉnh thần.
Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng "Trúng phong" theo trong YHCT.
Chứng trúng phong được YHCT miêu tả như sau:
"Trúng phong là trạng thái đột nhiên bất tỉnh, đồng thời có thể xuất hiện liệt nửa người, mắt lệch, miệng méo, lưỡi cứng, nói khó hoặc không nói được … Thường gặp nơi những người hư yếu, người cao tuổi, huyết áp cao… "
Chứng trạng này rất phù hợp với "Tai biến mạch mãu não" nói chung.
Nhưng "TBMMN" bản thân nó có 2 dạng:
- Xuất huyết não
- Nhồi máu não
2 dạng TBMMN này biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng (tức là nhìn và khám bằng mắt thường) rất khó phân biệt, phải là người có kiến thức chuyên môn sâu mới có thể khảng định.
*Thực tế,với tính dược của viên ACNHH, chỉ có thể được phép chỉ định cho trường hợp TBMMN thể nhồi máu não.
Đối với xuất huyết não, tuy thuốc có tính thiên về hàn, nhưng với tác dụng hoạt huyết, hành khí khá mạnh nó có thể làm cho xuất huyết nặng thêm (chưa có nghiên cứu nào để phủ nhận điều này, vì vậy không thể bỏ qua)
Như vậy, với cách hiểu và dùng ACNHH như đa số hiện nay là rất vu vơ và rất không an toàn.
Tuy vậy, nếu được chẩn đoán chính xác thể bẹnh thì dùng ACNHH là hoàn toàn có lý (mặc dù tôi cũng đã tìm mỏi mắt nhưng không thấy có tài liệu nào thống kê nghiên cứu 1 cách khoa học về công dụng của thuốc này)
-----------------
Vấn đề ngoài chuyên môn: chúng ta đều biết những vị thuốc như xạ hương, ngưu hoàng là rất hiếm, nguồn cung cấp có hạn (bản thân tôi đã từng đặt hàng ở lò mổ trâu bò mà trong 2 năm cũng chỉ kiếm được có hơn 30gr sỏi mật). Vậy thì không hiểu Đồng nhân đường và các cơ sở đông dược của TQ lấy đâu ra để đảm bảo cho họ sx số lượng thuốc hàng năm khủng khiếp như vậy?
-SK-